- I -
Chuyến xe lửa Hải Phòng đến, lừ lừ vào ga Hà Nội. Sau một tiếng còi huýt thì dừng bánh. Ông củ Nguyễn Hanh, tay xách chiếc va-li vải vàng, tay dắt con ở trên toa xuống, tất tả đi thật mau đến chỗ cửa ra. Trả xong vé, bỗng ông thấy gọi trong đám người đứng lố nhố trước mặt:
- Bác Cử!
Ông Cử mừng rỡ đặt hành lý xuống đất, vái đáp bạn:
- Lạy bác.
Rồi ông bảo Liêm Khê:
- Con chào bác đi, bà Tú đấy mà.
Liêm Khê ngây thơ nhìn ông tú Trần văn Lễ, bạn của cha, cũng chắp tay và lí nhí chào bằng hai tiếng cụt thun lủn:
- Lạy bác.
Ông Cử cau mặt:
- Con nhà! Đã dặn chào ai thì phải to tát và lễ phép kia mà.
Ông Tú xoa đầu Liêm Khê, mỉm cười:
- Thôi được, cháu ngoan.
Rồi ông nói với ông Cử:
- Thằng cháu trông hay tệ. Giá nhà nước còn để thi, thì ngữ này hơn bọn ta nhiều.
Ra đến đường, ông Tú thuê xe về phố hàng Bát, nhà ông. Hai ông ngồi chung một xe, ông Cử đặt Liêm Khê lên đùi và chiếc va-li xuống bậc dưới. Ông Tú nắm cổ tay Liêm Khê, âu yếm hỏi:
- Cháu lên mấy?
- Thưa bác, cháu lên chín ạ.
Thấy con trả lời như ý mình, ông Cử vừa lòng lắm, nói:
- Ấy, tôi vừa cho nó học quốc ngữ, đã biết đánh vần.
- Ồ, bé thế mà giỏi đấy! Con cháu Dung nhà tôi, tôi cũng xoay cho đi học quốc ngữ và chữ tây.
Rồi bỗng hai ông cùng ngậm ngùi. Ông Tú thở dài:
- Bọn ta lỡ thời cả: Tôi tính, mình học từ công phu mà thành vô ích. May khoa vừa rồi là khoa cuối cùng, có đỗ tí chút, không thì thật buồn.
Ông Cử gật đầu:
- Thật thế, Cử, Tú, sau này làm nghe ngỗng gì? Giá biết đôi chút chữ tây, ta dễ xoay hơn. Thời
thế không ở bọn nhà nho mình nữa.
- Bác không định vào học Giáo ban à?
- Không. Song mình lỡ thời thì con mình kịp thời. Sở dĩ tôi viết giấy mời bác cho cả cháu lên chơi, là do ý ấy. Tôi định bàn với bác một việc, chốc nữa sẽ nói.
Rồi hai người yên lặng.
Liêm Khê không để tai vào câu chuyện người lớn. Cậu còn mê man nhìn Hà Nội. Đó là cả một thế giới đầy những ngạc nhiên.
Xưa nay ở nhà quê, cậu vẫn được nghe chuyện Hà Nội, với bao cái lạ lùng, nhưng sức óc bé con của cậu không thể tưởng tượng đúng được. Nay cậu được ra Hà Nội. Chính hiện cậu đương ở Hà Nội. Chính mắt cậu được nhìn thấy Hà Nội. Nào phố xá thẳng tăm tắp, nhà cửa chen sát nhau. Xe pháo đủ các thứ, đi lại rộn ràng. Cậu trố mắt nhìn, chiếc xe đạp có hai bánh dọc một chiều mà không đổ, lại đi nhanh như bay. Cậu cuống quýt ngắm cái xe ô-tô còi bóp inh ỏi, chạy rầm rộ như nuốt đường, làm tung bụi cát trắng xóa. Lại còn đoàn xe điện đồ sộ với những tiếng chuông cheng cheng, bánh lăn trên đường sắt làm nẩy lửa xanh lè. Chà, giá mà cậu được ngồi trên xe đạp, xe ô-tô, xe điện. Giá mà cậu được ở Hà Nội lâu lâu để ngày ngày thấy xe đạp, xe ô-tô, xe điện. Cậu thấy ở đây, người ta rất sang trọng. Họ mặc quần áo trắng bong, cổ cứng và bóng. Người nào cũng không kém gì ông Ký ga Cao Xá mà trước giờ cậu vẫn phục. Nhà cậu chả ở gần ga mà. Cậu cố lắng tai nghe cho rõ để hiểu hàng quà họ rao bán gì. Nhưng chịu. Cậu không dám ước được nếm những thứ ấy, bởi vì cậu không có tiền.
Bỗng xe đỗ trước một căn nhà thấp, và cửa đóng. Ông cử ôm con đặt xuống đường.
- Đến nơi rồi.
Liêm Khê lên hè, đứng đợi. ông Tú trả xe bốn xu, rồi xách chiếc va-li:
- Mời bác.
Rồi ông dắt tay Liêm Khê.
Ông Tú đẩy cửa vào. Bà Tú vội vàng chạy ra chào, rất mừng rỡ. Ông Cử mỉm cười một cách thân mật:
- Lạy bác, hơn năm nay tôi mới lên thăm hai bác. Hà Nội nhiều cái thay đổi quá.
Ông Tú hỏi:
- Con Dung đâu?
- Bảo nó ra chào bác và chơi với anh.
Bà Tú nắm tay Liêm Khê, âu yếm nhìn. Ông Tú nói:
- Cháu Liêm Khê vừa chào me nó, dễ me nó không nghe thấy.
Ông Cử lại nghiêm mặt, nhìn con:
- Vừa phải mắng về tội nói khẽ vẫn không chừa.
Bà Tú vội vàng nói:
- Thưa bác có, cháu chào tôi có nghe tiếng.
Rồi bà xoa đầu, vuốt cái chỏm của Liêm Khê, và hỏi ông Cử:
- Dễ cũng bằng tuổi cháu Dung?
Ông Tú nói:
- Hơn một tuổi, con Dung nhà lên tám. Thế mà anh ấy học giỏi đáo để đấy.
Bà Tú hỏi:
- Anh học đến sách gì rồi?
Liêm Khê luống cuống không biết trả lời thế nào. Ông Cử đáp:
- Thưa cháu học quốc ngữ đấy thôi ạ. Tôi không cho cháu học chữ nho nữa.
Lệ Dung ở trong đi ra, chào ông Cử và giương mắt nhìn Liêm Khê. Bà Tú pha chè. Ông Cử lấy trong va-li ra quà biếu ông Tú và bánh để cho Lệ Dung.
Thấy con gái có ý ngập ngừng, bà Tú nói:
- Bác cho, con cảm ơn bác rồi lĩnh lấy.
Rồi bà mỉm cười, đùa với con:
- Thấy khách quen chỉ thích ra chào để được quà!
Lệ Dung thẹn thùng, chạy tọt vào nhà trong. Ông Cử ra sân rửa mặt, Liêm Khê theo ra. Thấy vắng người, Liêm Khê hỏi khẽ cha:
- Cái Dung nó ăn tham nhỉ, thầy nhỉ!
Ông Cử cau mặt, cúi xuống dặn:
- Con không đươc gọi là cái, phải gọi là chị. Bác Tú với thầy thân nhau như anh em, con phải coi chị Dung như chị em.
Liêm Khê không đáp, vẫn tỏ ý bất phục đứa con gái tham lam ấy. Rồi cậu nói:
- Nhà bác rộng nhỉ!
Ông Cử gật đầu:
- Cho nên mấy năm trước, bác mới cho thầy trọ học với bác ở đây.
Rửa xong, ông Cử múc nước cho con, và bảo:
- Mặt mũi chân tay kỳ cho sạch, kẻo bám bụi than tàu.
Rồi ông vào trong nhà. Nước đã pha xong. Ông Tú nói:
- Chuyến này rỗi, bác ở chơi với tôi lâu.
- Vâng, ở nhà chẳng có việc gì, song đi lâu sợ nóng ruột.
- Nhưng ít ra là mười hôm.
Ông Cử mỉm cười:
- Chưa dám hứa trước. Dưới tôi neo người, mà vắng đàn ông thì quạnh nhà.
Bà Tú nói:
- Đã lâu bác mời lên chơi, mời bác hãy...
- Vâng ạ, tôi đã dám đòi về ngay đâu!
Ba người cùng cười. Ấm chè đã tàn, cơm ở trong nhà đã dọn ra. Thấy trên mâm chỉ có hai cái bát, Liêm Khê nghĩ ngay đến bụng mình đương đói. Nhưng bà Tú đã gọi cậu và bảo:
- Anh vào đây ăn với thím, với em. Thầy với chú còn xơi rượu lâu.
Liêm Khê nhìn cha, rồi mới theo bà Tú. Bà dắt tay cậu:
- Con trai lứa, phải mạnh bạo lên mới được chứ!
Ông Tú rót rượu vào cốc, cùng bạn đưa cay. Ông Cử hỏi:
- Bác hẹn tôi lên chơi, có chuyện gì, xin cho biết.
Ông Tú khề khà, đáp:
- Vảng, đó là việc về tương lai bọn trè. Chúng ta sống lỡ thời, thì phải làm cho chúng nó hợp thời mới được.
Ông cử gật đầu:
- Tôi đã nghĩ đến sự ấy, cho nên cháu Khê học đến Đại học rồi mà tôi cũng bắt thôi, xoay ra quốc ngữ. Hôm bắt đầu mở sách a bê sê để dạy cháu, tôi rớt nước mắt.
- Thế thì anh em mình chẳng bàn nhau mà đồng ý. Tôi cũng không dạy cháu Dung chữ nho nữa, cháu học quốc ngữ đã đến vần trắc. Tôi định tháng Tám này, khi trường nữ học hàng Cót khai giảng, tôi xin cho cháu vào đấy.
Ông Cử trố mắt, hỏi:
- Bác cho cháu học chữ tây nữa kia à?
- Thời buổi mới, không học chữ mới, lấy gì mà sinh nhai?
- Con gái, cần gì phải sinh nhai, ngày sau đã nhờ chồng.
- Đành vậy, nhưng có chức nghiệp, vẫn là quý. Vả học cho biết nữa.
- Nhưng dù thế nào, tôi cũng khuyên bác chớ cho cháu ra trường, con gái đi học chữ tây dễ sinh hư. Bác ở Hà Nội, hẳn biết rõ hơn tôi.
Ông Tú gật đầu:
- Điều bác nói, tôi đã nghe thấy nhiều lần. Nhưng tôi cho là một sự phán đoán thiên lệch, và bởi thiên lệch nên sai lầm.
- Nhưng có những chứng cớ hiển nhiên.
- Cái ấy có, nhưng không phải tất cả con gái đi học chữ tây đều hư. Chẳng qua một vài người lớp đầu kém đức, làm mang tiếng bọn đi sau. Nhà nho ta vì thiên, mới vơ đũa cả nắm để đổ tội cho chữ tây. Phải, vả nếu không kém đức dục, sao người ta dám liều lĩnh mà đi đầu. Trong lúc thời thế đổi thay, những người chân chính đạo đức đều muốn xa lánh cuộc đời. Chỉ bọn kém nhân cách mời không cần liêm sỉ, mới ra đời để mưu cầu sung sướng danh giá.
Ông Cử cười khẩy:
- Sung sướng danh giá theo một nghĩa riêng.
- Cho nên tôi tưởng hư hay không hư là tùy ở người chứ không phải do sự học. Học nào không có luân lý, mà luân lý nào không khuyên người tránh điều dở, làm điều hay. Tôi tin vậy, nên cho cháu Dung học chữ tây. Vả là con nhà nho, ít ra chúng nó cũng có một căn bản về tinh thần vững vàng.
Ông Cử không đáp. Một lát, ông mới nói:
- Tôi muốn cho cháu Khê học chữ tây, ngặt vì vùng tôi không ai dạy...
- Phải học ở trường, chứ nhà quê làm gì có thầy. Sở dĩ tôi nhắn bác cho cả cháu lên chơi, là ý muốn khuyên bác nên cho cháu học trường Hà Nội, ở trên này tôi trông nom cho.
- Hai bác coi cháu như con, tôi không ngại gì. Nhất là hai bác có lòng yêu tôi và thương cháu, lo cho tương lai cháu sau này và bảo tôi điều ấy. Nhưng tôi sợ cháu bé quá, đi xa thì nhớ nhà. Mà đẻ cháu, vắng con thì nhớ con. Nghề nhà con một ấy mà.
- Bởi vậy, tôi mới bảo bác cho cháu ra đây, ở chơi lâu. Là ý muốn cháu quen, và tập cho bác gái sự nhớ con. Từ nay đến ngày khai trường còn hai tháng, tha hồ thong thả.
- Bác định cho cháu Khê học trường nào?
- Gần đây nhiều trường, xin vào đâu cũng dễ.
- Bác cũng như tôi, cháu ở với bác, tôi không áy náy điều gì. Nhưng bác đã bàn với bác gái chưa?
- Đã, và nhà tôi cũng đồng ý.
- Vậy lát nữa, tôi xin thưa chuyện với bác gái.
- Về phần bác ở nhà, bác nên giảng giải cho nghe ra. Nếu lấy cớ nhớ con mà không muốn nó đi xa, tức là không muốn cho nó khá. Tôi nghiệm những đứa trẻ ở xa nhà, đứa nào cũng thấy nảy ra nhiều đức tích mà nếu cứ ở luôn cạnh cha mẹ thì không có.
- Vâng, tôi xin bảo nhà tôi.
- Cháu Khê sáng dạ, cho đi học bây giờ là vừa. Bỏ cái học mấy nghìn năm của ông cha, để theo cái học không biết có trường cửu không, tôi lo ngại đáo để. Nhưng tôi chỉ nghĩ rằng học nào cũng dạy làm người, mà người nào cũng phải có ích cho đời. Bởi vậy đã là người thì phải học, và muốn có ích, nên chọn cái học hợp thời.
Một việc xảy ra, làm bà Cử Hanh rất khó nghĩ.
Là sau khi đi chơi Hà Nội về được nửa tháng thì ông Cử thụ bệnh, và tạ thế. Trước khi nhắm mắt, ông còn dặn lại bà việc gởi Liêm Khê ra Hà Nội học, nhờ ông Tú Lễ trông nom cho.
Thành thử bây giờ bà Cử không biết nên theo lời trối trăng của người đã khuất, hay nên kể câu chuyện của ông Tú nói với chồng bà hôm ông lên Hà Nội chơi, như không có. Bà làm ăn bây giờ kém trước, sự vận lương cho con đi học xa, bởi vậy thành khó khăn. Ông Tú giàu, bà muốn tránh tiếng nhờ vả. Vả chăng, chồng bà đối với ông Tú khác, mà bà đối với ông Tú khác. Bây giờ chồng bà mất đi, sự thân mật cũ không thể còn được. Lại nữa, là chính ông Tú khuyên chồng bà cho Liêm Khê ở Hà Nội, và hứa trông nom cho, nhưng nay ông có thể không giữ lời, vì lẽ ông Cử tạ thế, quyền trong gia đình từ nay thuộc về bà. Hôm về phúng và đưa đám, ông Tú lại không đá động đến chuyện ấy. Vậy bà phải tránh tiếng cầu cạnh, nhất là bà đã trông rõ sự làm ăn không thịnh vượng như xưa. Bởi vậy, bà phải suy nghĩ và đắn đo kỹ. Tương lai Liêm Khê là ở trong sự quyết định của bà. Thì may làm sao, một hôm về cuối tháng Bảy, cả hai ông bà Tú về chơi, ngỏ ý đón Liêm Khê đi học.
Bà Cử tiễn con ra Hà Nội, và ở cho đến ngày khai trường.
Vì muốn tiện, ông Cử xin cho Liêm Khê vào trường hàng Bún. Vì Lệ Dung học trường hàng Cót, ông Cử tậu chiếc xe nhà, hai người cùng đi về một lối.
Bà Cử thấy Liêm Khê không nhớ nhà, nên rất yên tâm. Chờ con đi học một hôm, bà ngỏ ý xin về, nhưng bà Tú giữ thêm vài ngày nữa.
Liêm Khê tiễn mẹ, rồi ở lại một mình. Ông Tú, và nhất là bà Tú, cứ sợ cậu buồn.
Bà khuyên nhủ Liêm Khê luôn. Có lần bà bảo:
- Cháu ở đây với chú thím, cũng như ở nhà với đẻ. Rồi những ngày nghỉ học, chú cho đi chơi. Ở Hà Nội, có nhà Gô-Đa, có trại hàng hoa, vui lắm!
Liêm Khê đáp:
- Đẻ cháu đặn cháu ở đây phải chăm học, không được đi đâu cả.
- Nhưng đi chơi với chú kia mà. Đẻ dặn thế, là sợ cháu đua với bạn bè, tập thói hư đốn.
Thường ông Tú, vẫn gọi cả Lệ Dung lẫn Liêm Khê đưa sách cho xem. Ông thấy hai người viết lách sạch sẽ và cùng ngoan ngoãn, nên rất có bụng mừng.
Hôm thứ bảy, được nghỉ buổi chiều, bà Tú hỏi riêng ông Tú:
- Ta có nên cho cháu Khê về Cao Xá chơi, không?
Ông đáp:
- Bác Cử vừa ở đây về, chắc cháu chưa nhớ mẹ. Vả không thấy bác ấy nói. Tôi sợ cháu đương vui vẻ mà cho về chơi, rồi mẹ con bịn rịn, thành thử mình gây cho nó sự nhớ nhà, học hành kém đi.
- Tôi thấy cháu vừa bồ côi cha, lại phải xa mẹ ngay, thì lấy làm thương hại. Hay ta thử hỏi nó xem nếu nó muốn về tôi đưa cháu đi.
Ông Tú đáp:
- Tùy đấy.
Rồi gọi Liêm Khê lên, ông hỏi:
- Chàu được nghỉ chiều nay với mai, nếu muốn về chơi với đẻ, thì thím đưa đi.
Không nghĩ ngợi, Liêm Khê đáp:
- Thưa bác, không. Đẻ cháu dặn bao giờ được nghỉ nhiều ngày thì viết giấy về, đẻ cháu lên đón.
Bà Tú mỉm cười, khen:
- Con nhà lạ thật, không nhớ nhà, ngoan quá!
Ông Tú nói:
- Độ nửa tháng, cháu phải viết giấy về đẻ một lần.
- Thưa bác, đẻ cháu không biết chữ. Đẻ cháu bảo ở đây cũng như ở nhà, nếu có sự gì, đã có hai bác cho đẻ cháu biết, cháu không cần viết giấy.
Ông Tú gật gù:
- Đẻ nghĩ phải lắm. Thế bây giờ cháu mặc cái áo dài, chú đưa đi cạo đầu, và mua cho cái mũ mà đội.
Lệ Dung giương mắt nghe chuyện từ nãy, nói chêm vào:
- Đi học chữ tây lại để chỏm, người ta cười cho.
Liêm Khê cãi:
- Thế chị thì sao?
- Tôi là con gái.
Liêm Khê theo ông Tú đi phố, vào một hiệu thợ cạo. Một lát, trở ra, cậu đã có cái đầu sửa đẹp đẽ. Và ông Tú sắm cho cậu cái mũ trắng đội vừa vặn.
Hai người về đến nhà. Lệ Dung thoạt thấy Liêm Khê đổi lốt, thì cười sằng sặc. Cô nói với bà Tú:
- Các chị ấy ở trường cứ hỏi con đi xe với ai mà nhà quê thế.
Bà Tú cau mặt:
- Nhà quê! Đừng khinh nhà quê đi.
Liêm Khê đáp:
- Không có nhà quê, thì tỉnh làm gì có gạo mà ăn.
Ông Tú cười, lắc đầu nhìn bà:
- Hóm quá!
Bà Tú thấy Liêm Khê mất chỏm, mặt mũi khôi ngô hơn, nên càng yêu. Bà tự tay tắm cho cậu, và bảo:
- Cháu nên sạch sẽ, đừng nghịch ngợm lê la, bẩn quần áo nhé.
- Vâng. Chị Dung chị ấy cứ rủ cháu đánh chuyền, phải ngồi phệt xuống đất.
- Con bé thế đấy!
Đoạn, bà gọi Lệ Dung:
- Con là con gái, không nên để quan áo lấm láp nhé.
Ngày Chủ nhật, ông Tú bày một cách giải trí cho trẻ con chơi.
Vì cả Lệ Dung lẫn Liêm Khê đều biết chữ nho, nên ông lấy một cuốn sách, gọi hai người đến ngồi trước mặt, nói:
- Ngày còn bé, thầy vẫn chơi cái này.
Rồi ông mở một trang ra, hỏi:
- Cháu Khê lấy bên nào?
Liêm Khê trỏ trang bên phải:
- Cháu lấy bên này.
- Thế thì Dung lấy trang bên trái nhé.
- Vâng.
- Bay giờ hai con tìm xem trang mình có bao nhiêu chữ chi, chữ hồ, chữ cố, chữ cập, chữ nãi, hãy năm chữ ấy đã. Lại phải thuộc là chi cầm mi, hồ lôi khố, cố đấm lưng, cập cầm cằm, nãi kéo tai.
Liêm Khê hớn hở, đáp:
- Cháu hiểu rồi, ở nhà cháu vẫn chơi thế.
Lệ Dung cuống quýt hỏi:
- Thế là thế nào, thầy?
- Nghĩa là ví dụ ở trang con có chữ nãi thì con kéo tai anh Khê cho đến lúc anh ấy tìm thấy chữ ấy.
- Ngộ có ba bốn chữ thì sao?
- Thì anh ấy phải kéo tai ba bốn lượt.
Lệ Dung cười khanh khách, và hai người cặm cụi, gầm mặt xuống, để nhìn từ giòng chữ đầu.
Bỗng Liêm Khê hỏi:
- Chị đã hiểu chưa?
- Rồi.
Thình lình cậu nắm ngay lấy cằm Lệ Dung, và lắc. Lệ Dung khó chịu, cười sằng sặc, nhưng cứ phải tìm cho thấy chữ cập.
Ông bà Tú cũng cười như nắc nẻ.
Bỗng Dang đấm thùm thụp vào lưng Khê, nhưng nhanh trí, cậu chưa tìm chữ cố vội, cậu nắm ngay lông mi bạn. Tiếng cười lại ròn tan. Thành thử hai người cùng cuống queo, cố nhìn cho mau vào trang sách để tìm. Vì càng thấy chóng, càng đỡ bị đau.
Hết chữ trang ấy, ông Tú mở sang trang khác, lấy hai bàn tay bịt kín và giao hẹn:
- Nhưng cấm chơi mạnh đấy. Trò này cốt luyện mắt cho tinh nhanh.
Lệ Dung nói với bà Tú:
- Me sang đây giúp con.
Ông Tú xua tay:
- Cấm gà, nếu me nhắc con, thì thầy nhắc anh Khê.
- Hay cả thầy me sang đây với con.
Liêm Khê cười:
- Chị khôn quá!
Nhưng ông Tú đáp:
- Không, phải công bằng.
Từ việc chơi đùa cho đến việc đứng đắn, bao giờ ông bà Tú cũng lấy công bằng làm đầu. Bởi vì ông giữ cho Liêm Khê khỏi tủi thân. Nhưng không phải vì giữ cho Liêm Khê khỏi tủi thân mà ông bà không nghiêm khắc đâu. Bởi coi con bạn như con mình, nên khi Liêm Khê hoặc Lệ Dung có lỗi, ông bà vẫn mắng mỏ và khuyên bảo. Nếu cần, thì ông bà dùng roi vọt để sửa tội.
Bởi thế, Liêm Khê ở trường cũng vui, mà về nhà cũng vui, và cùng Lệ Dung ganh đua học, hai người cùng tấn tới, tấn tới để cuối tuần lễ được tranh giải thưởng. Giải thưởng to thì là cuộc đi chơi phố, nhỏ thì là một lời khen ngọt ngào.
Một hôm, Lệ Dung ốm, Liêm Khê đi xe một mình đến trường.
Khi vào trong sân, có người bạn ranh mảnh, hỏi:
- Vợ mày hôm nay đâu?
Liêm Khê ngạc nhiên:
- Mày hỏi ai?
- Cái con bé vẫn đi xe đôi với mày ấy mà!
Liêm Khê tức sôi lên sùng sục, quật mạnh cặp vào đầu thằng láo xược:
- Đừng nói đểu!
Rồi hai người đánh nhau.
Nhưng thầy giáo chạy ngay đến. Thầy hỏi duyên cớ, rồi kết cục, tha phạt cho Liêm Khê.
Nhưng từ hôm ấy, Liêm Khê lấy việc đi xe chung với Lệ Dung làm ngượng. Cậu muốn tránh, xin với ông Tú cho đi bộ, nhưng không được. Bà Tú dọa:
- Cháu đi một mình, rồi mẹ mìn nó dỗ mất đấy.
Kỳ thực, bà sợ cậu không có ai coi thì nghịch ngợm tự do, vả muốn tránh tiếng, e người ngoài không biết, cho là ăn ở thiên vị.
Song Lệ Dung đối với Liêm Khê như đối với bạn gái khác. Vì còn bé quá, cô chưa có ý tứ gì cả.
Thường hai người rỗi, lại chơi cái trò mở sách mà lôi khố kéo tai nhau để cười ầm ỹ. Có khi làm đình làm chùa, làm cỗ làm bàn để cúng tế với nhau.
Cho nên đến kỳ nghỉ Tết, Liêm Khê về nhà, thì nhớ Lệ Dung lắm. Ở quê, cậu không có bạn chơi. Cậu mong chóng hết ngày để lại ra Hà Nội.
Bà Cử thấy con mong đi học, thì vui vẻ lắm. Bà nghĩ đến tương lai con, nên nén sự nhớ nhung.
Bà thấy cách thức ông bà Tú nuôi dạy con mình, rất lấy làm cảm động. Cho nên nói chuyện với ai, bả cũng khoe:
- Nó mến bác cháu hơn mến tôi.
Thì họ hàng lại nói đùa:
- Cho quách cháu làm con nuôi ông bà Tú.
Hoặc:
- Nó mến nhà vợ hơn nhà mình.
Liêm Khê cho câu nói rỡn ấy là khó chịu, nên không thích nghe.
Hết nghỉ Tết, bà Cử đưa cậu lên Hà Nội. Ở lại chơi năm hôm, đến Chủ nhật bà mới về.
Lần này, tự nhiên Liêm Khê lại nhớ mẹ, cậu bần thần cả người. Lệ Dung rủ chơi gì, cậu cũng lắc đầu, bèn hỏi:
- Anh nhớ bác phải không?
Liêm Khê gật.
- Thế thì anh ra đầu phố chơi với em.
- Tôi không đi.
- Chú thím không mắng đâu.
- Tôi không đi.
Thấy Liêm Khê ngơ ngẩn, Lệ Dung mách cha:
- Anh Khê anh ấy nhớ bác Cử đấy, thầy ạ.
- Con mang đồ chơi ra cho anh ấy chơi với. À, thôi được,
Ông bèn gọi Liêm Khê:
- Cháu mặc áo, chú cho hai đứa lên làng Bưởi, xem làm giấy.
Liêm Khê không đám trái lời.
Tuy cuộc đi chơi là bất đắc đĩ, nhưng cậu cũng được khuây khỏa. Tối hôm ấy, cậu đi ngủ sớm.
Nhưng từ hôm sau trở đi, Liêm Khê lại vui vẻ như thường. Trẻ con chóng quên.
Một hôm, vừa lên xe, Lệ Dung đã khoe với Liêm Khê:
- Hôm nay, cô giáo bắt lớp em thi để lĩnh phần thưởng.
- Thi gì?
- Thi viết tập, thi tính.
- Lớp tôi thi từ thứ hai trước.
- Có viết tập, có tính không?
- Có, cả đích-tê chữ tây nữa.
- Thầy giáo chấm chưa?
- Không biết.
- Cô giáo em chấm ngay, em được nhất viết tập.
- Tính có đúng không?
- Có, hai tính cộng, hai tính trừ. Em xong nộp bài đầu tiên.
- Nhưng có đúng không?
- Có.
- Thế thì chị ngồi đầu.
- Thế à? Giá anh cũng ngồi đầu, thì hai chúng mình danh giá nhỉ.
- Thì chắc hai bác thích lắm.
- Cô bảo phần thưởng nhiều sách đẹp lắm anh ạ.
- Lớp tôi, thầy giáo chưa bảo gì. Thầy chỉ dọa đứa nào bét thì phải đuổi.
- Nhưng anh liệu có bét không?
- Không biết.
- Lạy trời, anh phải đuổi, em đi học có một mình.
- Mai thi tính, nếu làm hỏng thì bét thật.
- Thế thì chốc nữa, em dạy anh.
Người phu xe bật cười, quay lại nhìn Lệ Dung:
- Chị dạy cả tôi nữa nhé. Ông bà vẫn bảo chị học kém anh Khê, mà chị đòi dạy anh ấy.
Lệ Dung thẹn thò, không đáp.
Buổi trưa và buổi tối hôm ấy, Liêm Khê không chơi đùa như mọi ngày. Cậu cặm cụi tập làm tính. Câu chỉ sợ kém Lệ Dung. Thua ai, cậu cũng không xấu hổ bằng thua người bạn ấy.
Nhưng may sao, cậu làm tính đúng và vừa thoạt thấy Lệ Dung, cậu khoe ngay. Lệ Dung vui vẻ:
- Thế thì anh không phải đuổi nhỉ.
Cuối năm học, cả Lệ Dung cùng Liêm Khê đều được ngồi đầu lớp và lĩnh phần thưởng to nhất.
Ông Tú muốn khuyến khích, bèn mua cho mỗi người một đôi giầy mới, và hẹn năm sau, học tấn tới nữa, sẽ thưởng nhiều hơn.
Những năm sau, Liêm Khê và Lệ Dung đều vẫn giữ chỗ đầu lớp.
Và từ lớp Sơ đằng trở đi Liêm Khê thoát được sự ngồi xe chung với Lệ Dung. Cậu xin ông Tú cho đi bộ, nói rằng để khỏe người. Ông Tú biết rằng cậu ngượng nên không ép.
Rồi sự xa xôi đối với Lệ Dung từ đó mỗi ngày một hơn dần. Liêm Khê coi Lệ Dung là một người con gái khác máu. Lệ Dung cũng coi Liêm Khê không phải anh em ruột thịt. Hai người không kém thân nhau, song trong sự thân thiết, đã thấy hơi có cách biệt.
Chập tối, tuy vẫn ngồi học với nhau, nhưng hai người ít chuyện trò lảm nhảm. Có nói với nhau, cũng chỉ trong vòng quyển sách, bài làm. Và một lần học bài dài quá nhưng chưa thuộc, Lệ Dung lấy cớ buồn ngủ sớm, bèn gấp sách lại. Vì lúc ấy mười giờ, ông bà Tú đã đi nằm. Ban ngày, hai người không chơi đùa với nhau nữa, và nhất là ở chỗ vắng, không ai nói chuyện lâu với ai. Và khi đi học với bạn khác, Liêm Khê gặp xe Lệ Dung tiến lên trước, thì vờ như không nhìn thấy. Mà Lệ Dung cũng không gọi váng lên như hôm đầu nữa.
Song hai người vẫn ganh đua nhau về sự học. Buổi chiều về, hai người đưa sách cho nhau xem, nếu có chữ viết sai thì chữa hộ, nếu có chữ lạ thì hỏi nghĩa. Gặp bài tính hay bài luận khó, hai người cùng bàn nhau cách làm.
Đến năm lên lớp nhất, phải đi thi, thì Liêm Khê và Lệ Dung càng gắng sức. Mỗi buổi tối, người nọ đọc cho người kia viết ám tả và cùng tập làm thêm tính.
Lệ Dung tuy kém Liêm Khê một tuổi, nhưng sức học không kém mấy. Mà ở lớp, cô vượt hơn chị em nhiều. Nhiều bạn cô muốn lại nhà cô để luyện tập, nhưng lại sợ Liêm Khê cười.
Cô vẫn bảo:
- Anh ấy hơn tuổi, cố nhiên học hơn, cần gì.
- Nhưng anh ấy chế, và đi nói chuyện với lớp anh ấy thì xấu hổ chết.
- Không, anh ấy đứng đắn lắm. Thầy me tôi vẫn khen là người lớn.
Nhưng rút cục, không ai dám đánh bạo lại nhà Lệ Dung học thêm.
Gần kỳ thì, Liêm Khê và Lệ Dung hỏi lẫn nhau về các môn vấn đáp. Lệ Dung không quên câu nào, nhưng nhận thấy Liêm Khê trả lời lắm chỗ trong bài không có, và nói:
- Đó là lời thầy giảng.
Cho nên Lệ Dung phục Liêm Khê nhớ tài.
Trước ngày thi, bà Tú mời bà Cử ra chơi. Hai bà sắm lễ vật để ra đền Ngọc Sơn cầu cho hai con được đỗ.
Nhưng cả đôi bạn nhỏ đều chắc chắn nắm mảnh bằng trong tay. Liêm Khê nói:
- Tôi mà trượt, thì lớp không ai đỗ nổi.
Lệ Dung cũng gật đầu:
- Em không đỗ thì chúng nó còn chật vật.
- Học như chúng mình là thừa sức rồi.
- Cho nên đỗ, em không lấy làm vui mừng lắm.
- Nhưng hai bác với đẻ tôi vui mừng.
Quả nhiên hai người cùng trúng tuyển một cánh dung dị.
Ông Tú làm một bữa cơm mừng, ông khuyên bà Cử:
- Cháu Khê học đương tấn tới, bác nên cho cháu thi vào trường Bưởi.
- Tôi là đàn bà, và ở nhà quê, vậy sự học của cháu, tôi nhờ hai bác định liệu.
- Kể ra, cháu đỗ bằng này, có thể xin đi dạy học, kiếm được tiền rồi. Nhưng, tuổi cháu còn ít, vả bác chưa cần cháu sinh nhai vội, nên hãy cứ cho cháu học.
- Vâng, tôi đã thưa là tùy hai bác.
- Bác cho cháu về chơi độ mươi hôm, rồi cho ra học tư, để thi vào trường Bưởi, chắc chắn đỗ cao, được vào hạng ăn lương.
- Bẩm thế chị Dung, hai bác định cho thế nào?
- Cháu cũng như anh Khê, có thể xin bổ cô giáo. Nhưng mới mười mấy tuổi đầu thì dạy nổi ai. Cho nên tôi cho cháu theo học trường Nữ Sư phạm
- Bẩm học thế, mấy năm nữa thì thi ra?
- Bốn năm. Như cháu Dung thì làm cô giáo, và anh Khê muốn làm ông giáo, ông Phán, tùy ý.
Bà Tú hỏi:
- Thầy nó nhỉ, học ở Nữ Sư phạm, thì phải ăn ở trong trường đấy nhỉ?
- Phải, tại được ăn lương.
- Nếu cháu Khê được lương, cũng phải ở trong trường à?
- Cố nhiên.
Bà Tú ra dáng không bằng lòng:
- Thế thì nhà vắng nhỉ!
Liêm Khê và Lệ Dung nhìn nhau, cùng tỏ ý nhớ tiếc, nhưng không ai dám nói ra lời.
Ở chà chơi ít lâu, đầu tháng Bảy, Liêm Khê ra Hà Nội.
Ông Tú cho chàng đi học tư, nhưng chàng nói:
- Cháu xin bác cho cháu học ở nhà với chị Dung, hai chị em rèn luyện cho nhau như dạo trước kỳ thi cũng đủ.
Lệ Dung đồng ý, nói:
- Vả lại như thế đỡ tốn tiền.
Ông Tú cười:
- Thầy cho các con đi học, có quản gì đồng tiền. Thầy chỉ sợ học không có thầy, không thể tấn tới được.
Liêm Khê nói:
- Điều ấy xin bác đừng ngại, cháu biết sức cháu, nên mới dám bẩm thế.
Lệ Dung cười, nói tiểp:
- Tiền học, xin thầy cứ cho chúng con mua sách thêm.
Được ông Tú bằng lòng, Liêm Khê và Lệ Dung vui sướng lắm. Không những họ đỡ cho cha mẹ một món tiền, không những họ có thể cũng tấn tới như học có thầy, mà họ thấy được gần gụi nhau thêm hai tháng nữa. Gần gụi nhau để làm gì? Chính họ không hiểu. Họ chỉ biết là nếu phải học xa nhau thì không quen, tất kém đi.
Một tối, Liêm Khê bảo Lệ Dung:
- Hết hè này, nếu đỗ, tôi phải ở trong trường, chán quá!
Lệ Dung rầu rầu mặt:
- Em cũng vậy, thành thử nhà vắng.
- Như thế, mỗi tuần lễ tôi mới gặp chị một lượt đấy nhỉ?
- Nhưng nếu một người phải phạt thì hết hy vọng. Bực nhỉ!
- Học như thế mắt vui đi.
Lệ Dung gật đầu. Liêm Khê tiếp:
- Tôi chỉ muốn tôi với chị học gần nhau mãi như thế này.
- Em cũng muốn vậy, nhưng không thể.
Rồi hai người cùng thở dài, có vẻ ngậm ngùi.
Ái tình nam nữ hình như đã hơi phát lộ.
Lại một hôm, Lệ Dung hỏi Liêm Khê:
- Năm nay em mười bốn, lại sắp vào trường Sư phạm, mà cứ gài lược thế này, trông trẻ con lắm, anh nhỉ?
Liêm Khê gật đầu:
- Phải, chị nên vấn khăn. Đội khăn đứng đắn hơn.
- Ở lớp em, đội khăn, chúng nó cứ chế là cô dâu.
Liêm Khê mỉm cười:
- Ngày tôi mới cạo đầu, về nhà quê, người ta cứ chế là bồi trọc.
Lệ Dung cười sằng sặc:
- Ồ, mới ngày nào nhỉ. Chúng mình hồi ấy trẻ con quá!
- Thì bây giờ chị đã người lớn với ai!
- Chưa người lớn, nhưng không bầy đình bay chùa, không chi cầm mi, cập cầm cằm nữa.
Hai người yên lặng. Cả một hồi thơ ấu diễn lại trong óc. Liêm Khê thở dài:
- Thế mà bốn năm nữa cũng không lâu đâu. Rồi chúng ta mỗi người một nghề, mỗi người một chỗ.
- Em thì chỉ có nghề làm cô giáo. Còn anh định làm gì?
- Một là làm thầy thuốc, hai là làm thầy giáo.
- Anh không thích làm quan?
- Không.
- Thế thì làm thầy giáo hơn.
- Tại làm sao?
- Để thỉnh thoảng nghỉ hè, em với anh được gặp nhau. Làm thầy thuốc không được nghỉ.
Nghe câu nói chân thật một cách vô tình mà biết bao ý nhị, Liêm Khê không nghĩ ngợi, đáp:
- Được, thế thì tôi làm thầy giáo, tôi xin thi vào trường Nam Sư phạm.
Thấy Lệ Dung vui sướng, Liêm Khê tiếp:
- Để khi gặp nhau, chúng mình còn có câu chuyện hợp nhau mà nói, nhỉ.
Bỗng một con thiêu thân ở phía tối bay xả vào ngọn đèn. Liêm Khê giơ tay ra đập, nhưng trượt ra ngoài. Lệ Dung cũng vồ lấy, nhưng chỉ trúng cánh nó. Nó rơi xuống bàn, và cố sức bay lên. Thì tự nhiên, hai người cùng nhanh nhẩu thò tay ra bắt. Bất đồ hai bàn tay đè lên nhau. Bỗng Lệ Dung cuống quýt rụt tay lại và ra vẻ thẹn thò Liêm Khê cũng hết sức ngượng.
Mấy năm nay, lần này chàng mới lại vô tình đụng vào tay Lệ Dung. Nhưng cái tay ấy không như cái tay xinh xắn trước. Bây giờ thịt nó mềm mại, mát mẻ hình như nó có hồn.
Rồi hai người không ai bảo ai, không nói chuyện với nhau nữa. Họ cùng cúi gầm vào trang sách, không phải để học, mà để nghỉ ngợi đến chuyện đâu đâu.
Và chỉ độ năm phút sau, Lệ Dung gập sách lại, nhìn trộm Liêm Khê, rồi nói một cách gượng gạo:
- Buôn ngủ quá.
Về phần Liêm Khê chàng cũng muốn Lệ Dung lánh đi. Chàng chỉ mong được tắt đèn đi nằm cho tâm trí tự do mơ mộng.
Liêm Khê đỗ đầu vào trường Nam Sư phạm.
Lệ Dung đỗ thứ hai vào trường Nữ Sư phạm.
Hai người chỉ có hy vọng gặp nhau vào những ngày Chủ nhật, bởi vì đều phải ăn ở trong trường. Cho nên cả hai đều hết sức chăm chỉ và giữ gìn hạnh kiểm để tránh sự trừng phạt.
Đến ngày nghỉ Liêm Khê tự xin phép ra, nhưng Lệ Dung tất phải có cha hoặc mẹ vào trường đón, mới được về. Hai người gặp nhau bao giờ cũng nói chuyện học, chuyện các giáo viên, chuyện các bạn hữu, chuyện bài vở, và chuyện thi cử.
Thường thì hai người dùng chung sách in. Tuy ông Tú không muốn hà tiện, nhưng Liêm Khê không muốn ông phải thêm mỗi sự chi tiêu về mình, vì chàng thấy nhiều cuốn mua đắt lắm. Chàng có thể mượn loanh quanh anh em học lớp trên, hoặc Lệ Dung nhường cho chàng; vì nàng cũng mượn được của các bạn. Có cuốn hai người đều mượn riêng được thì cuốn ông Tú mua lại cất ở nhà, để những ngày nghỉ, hai người cùng đọc, cùng bàn tán nghĩa lý.
Đến kỳ thi lục cá nguyệt, hai người cùng mong cho chóng đến ngày nghỉ để gặp nhau. Ở trường có bài toán pháp thú vị, có câu văn hay đẹp, không bao giờ họ quên mà không cho nhau biết. Họ học với nhau, rèn luyện cho nhau, cả Liêm Khê lẫn Lệ Dung đều thấy ngày Chủ nhật tuy là ngày nghỉ mà chính là một ngày làm việc có ích và được tấn tới gấp mấy ở trường với thầy, với bạn.
Cho nên hai người đều theo một thói quen, là có cuốn sổ riêng để ghi những điều ích lợi nói cho nhau nghe. Rồi trong cuốn sổ đó, họ biên cả những chuyện vui, những chuyện lặt vặt mà họ xét rằng có thể giải trí hoặc có ích cho kiến văn của nhau. Họ ghi cả cảm tưởng khi nghĩ đến nhau trong những lúc rỗi rãi, những đêm khuya không ngủ được.
Liêm Khê đã viết:
“Lệ Dung vẫn bảo thạo các phố ở Hà Nội, rồi tôi sẽ đố điều này: Ở Hà Nội, phố hàng Trống bán trống, phố hàng Hài bán hài. Vậy phố hàng Đào bán gì? Phố hàng Cỏ bán gì? Phố hàng Ngang bán gì?
Nếu bảo phố này ngang, nên đặt tên thế, nhưng sao không gọi là phố dọc, vì sự thực phố ấy ở dọc, mà sao không gọi là phố Ngang, nếu phố ở ngang?”
Lệ Dung thì chép:
“Tôi muốn dùng bút máy. Nó tiện hơn bút chì. Nhưng chỉ sợ Liêm Khê kêu là hoang phí. Phải hỏi mới được”.
Ở trang bên kia:
“Hỏi bài tính số 54, trang 129”.
Và:
“Nhờ Liêm Khê đi hỏi hộ thuốc nhức đầu. Đêm qua nhức quá, không ngủ được. Chị Thắm cho một viên, nhưng không công hiệu. Trong khi mình nhăn nhó, kêu đau, chắc Liêm Khê ở bên ấy, đương ngủ kỹ”.