← Quay lại trang sách

I - Phóng viên trinh thám -Một cách xin việc kỳ khôi

Ngày nào cũng vậy, cứ đúng mười một giờ sáng là anh ta đã có mặt trong phòng khách tòa báo. Anh ta nói là muốn giáp mặt ông chủ nhiệm để hỏi về một việc cần lắm. Việc cần ấy, chúng tôi đã biết: anh ta muốn xin làm một phóng viên.

Ông chủ nhiệm tiếp anh ta có một lần, rồi bảo tôi:

- Ít ra họ cũng phải hiểu rằng ở đây có thừa người rồi, phóng viên không phải là người khó kiếm đến thế.

Hôm sau, anh ta lại đến, rồi hôm sau nữa: lần nào ông chủ nhiệm cũng không có nhà. Nghĩa là ông chủ nhiệm vẫn có nhà, nhưng không muốn anh ta quấy rầy mãi.

Chúng tôi hễ cứ thấy đồng hồ đánh mười một tiếng lại nhìn nhau cười. Xuống phòng khách ngó xem thì tôi đã thấy anh ta ngồi vẫn cái mũ trong tay, hỏi tôi một cách lo ngại:

- Hôm nay hẳn ông chủ lại đi vắng?

- Vâng, ông ấy vừa mới ra xong.

Anh ta mím một bên mép rồi đứng lên thong thả bước ra, ngừng lại toan hỏi tôi một câu, nhưng bỗng đội mũ đi thẳng.

Sau cùng anh ta không đựi ở phòng khách nữa, lên đứng ngay ngoài cửa tòa soạn, đợi có người vào là vào theo liền. Anh ta vừa mới nói:

- Thưa ông...

Thì ông chủ nhiệm ngắt lời:

- Thưa ông, người ta không bao giờ nên tự tiện quá đến thế. Ở đây không phải là một cửa hàng.

- Nhưng đây là một tòa báo.

- Nhà báo không phải để mở cửa cho hết thảy mọi người.

Anh ta khẩn khoản:

- Vâng, tôi biết thế là đường đột quá, nhưng xin ông biết cho rằng tôi muốn làm phóng viên, mà nhất là trong tòa báo ông. Người ta cần phải chọn mặt mà gửi vàng. Tôi muốn đem tài của tôi dùng cho báo ông trước nhất...

- Nhưng tôi biết tài ông to đến bực nào?

- Ông cứ dùng thử xem.

- Dùng thử xem!... (ông chủ nhiệm đã thấy nóng tai). Không, chúng tôi không thiếu người, ông có lòng muốn giúp, xin cảm ơn. Nhưng tôi không... tôi chưa thể nhận ông được.

Trong lúc ông chủ nhiệm cau mày cúi xuống đọc những bản thảo trên bàn thì anh ta lại nói:

- Tôi chắc ông sẽ vừa lòng khi thấy những việc tôi làm sau này... Ông cứ giao việc cho tôi xem... Mà nếu ông cần biết ngay học thức của tôi...

Không nhịn nữa, ông chủ nhiệm nói gọn một câu:

- Thưa ông... tôi đi vắng.

Chàng thiếu niên sẽ mỉm một nụ cười mai mỉa, nét mặt vẫn tươi tỉnh, cúi chào chúng tôi, rồi quay ra.

Ông chủ nhiệm lắc đầu:

- Con người kỳ khôi đến thế là cùng. Nhưng thôi, thoát nợ.

Sáng hôm sau, chúng tôi không thấy anh chàng đến nữa. Bị cự tuyệt một cách rõ ràng như thế, tất nhiên anh ta biết không còn hy vọng gì.

Chiều hôm ấy, đáng nhẽ không còn việc gì phải làm ngay, chúng tôi lại bận hơn các buổi khác. Bài vở của số báo sau đã đưa sắp chữ cả, bỗng được tin bị bỏ gần hết những mục quan trọng (hồi ấy, ty kiểm duyệt vẫn còn).

Ông chủ nhiệm vừa càu nhàu vừa lục những bài dự phòng ra coi lại. Nhưng vẫn không đủ. Đang lúc chia tay mỗi người một việc cùng nhau cặm cụi viết lấy viết để, thì cửa tòa soạn bật mở, chàng thiếu niên hôm qua bước nhanh vào.

Ông chủ nhiệm giơ hai tay lên một cách chán nản toan sừng sộ hỏi thì người kia nhoẻn miệng cười. Tức mình, ông để mặc chàng ta đó, đứng dậy gọi người thư ký vào toan cự, thì chàng ta can:

- Lỗi đó ở cả tôi. Tôi xin ra ngay. Nhưng xem chừng ông bận lắm thì phải.

- Tôi chẳng bận gì hết. Nhưng...

- Không hè gì. Nêu ông vội, xin cứ cho tôi biết... Hay để cho tôi cùng viết đỡ các ông này cho chóng xong.

Chàng ta nói rất dịu dàng, miệng tươi cười rất thực thà, khiến ông chủ nhiệm cũng phải nguôi giận.

- Nếu vậy, ông ngồi xuống đó, viết cho tôi ba cột về việc chủ hiệu cầm đồ lừa đảo... Ông biết việc ấy chứ?

- Biết.

- Nhưng ông có biết tôn chỉ của báo tôi không đã?

- Định làm cho một tờ báo lại không biết tôn chỉ báo ấy sao!

- Được, ông thuật về việc này qua loa thôi, còn thì phải công kích dữ.

- Tôi hiểu.

- Một giờ nữa phải viết xong.

Bốn mươi phút sau, người thiếu niên đã đưa cho ông chủ nhiệm ba tờ giấy đặc chữ.

Ông chủ nhiệm cầm lấy đọc một lần, hơi gật đầu. Đó là triệu chứng hay.

Ông ký bức điện tín người ta vừa đem vào, đọc nốt trang sau cùng, sửa qua mấy chữ viết không được rõ.

Đọc xong, ông lấy bút chì xanh viết mấy chữ lên cạnh trang nhất, đứng nhìn người thiếu niên bằng đôi mẳt gườm gườm, nhưng không có vẻ ác cảm.

Anh ta se sẽ hỏi:

- Thưa ông, bài tôi biết...

- Không tồi lắm. Nhưng ông nhất định làm phóng viên cho báo tôi?

- Vâng... Sao?

- Vậy ngay bây giờ ông có thể đi Bắc Ninh được không?

- Đi điều tra?

- Phải, mà phải đi rất nhanh. Người ta mới bắt được một tụi buôn thuốc phiện lậu rất quan trọng.

Vẻ mặt người thiếu niên bỗng sáng lên, đôi mắt long lanh như con chó săn thấy con chim vừa rơi xuống. Anh ta nói một cách sung sướng cảm động:

- Buôn thuốc phiện lậu? Một bài tường thuật bất kỳ ai cũng phải chú ý! Ồ! Ông cho tôi đi nhé, làm phóng viên là nghề của tôi.

Lập tức anh ta nhận tiền, xem giờ xe chạy Bắc Ninh, biên mấy chữ vào sổ tay, rồi nhảy ra ngoài không kịp chào chúng tôi. Tám giờ tối hôm ấy anh ta cũng có mặt ở tòa báo.

- Trời! Tôi ngốc quá, không bảo các ông đưa máy ảnh. Nhưng không hề gì!

Chúng tôi hỏi:

- Thế nào? Cuộc phóng sự?

- Ghê gớm lắm, có thể hay lắm được. Đây là những notes [1] còn đây là những ảnh vẽ phác mấy người phải bắt. (Vừa nói anh vừa đưa cho chúng tôi xem mấy cái mặt người vẽ rất linh hoạt trong quyển sổ tay). Phải, thật là một bài phóng sự rất “cừ”. Tôi cảm ơn ông phúc tinh phóng viên của tôi, cảm ơn cả ông chủ nhiệm. Tôi sẽ cho lên báo những cái ẩn tình mà ít người biết đến.

Rồi ngay lúc ấy, anh ngồi vào bàn, rút một tập giấy, nói mấy câu chuyện phiếm, rồi chăm chú viết như người đã quen việc với chúng tôi.

Từ đó, anh là một tay giúp việc lanh lợi của tờ báo Thời thế về phần phóng sự. Anh làm một cách rất chăm chỉ, rất chu đáo, lương tâm nhà nghề là một điều thiêng liêng nhất đối với người con trai này. Anh ta lại nhanh nhẹn, vui vẻ ít ai bằng. Nói chuyện có duyên, rất hay pha trò. Cách nói chắc chắn, gọn gàng, ngọt ngào khiến anh dễ làm cho người ta tin, người ta nghe theo, và khi luận bàn thì cả đến những điều ngụy biện của anh, người ta cũng cho là phải.

Phương sách Sherlock Holmès

Người thiếu niên ấy tên là Lê Đình Phong. Anh ta bỏ chữ Đình đi để gọi cho tiện. Người tầm thước, ăn mặc thường, nhưng gọn ghẽ; giá chải chuốt thêm ít nữa thì ra dáng lịch sự ngay. Nét mặt đều, tự nhiên, thường tươi. Trán cao, tóc để dài đằng sau, đôi mắt to, sáng, linh động, khiến người ta cứ trông đôi mắt anh cũng nhận được ngay trong đám đông người.

Anh có một cách nhìn người rất lạ lùng. Nhìn không lâu, nhưng đôi mẳt sắc sảo như hai luồng quang tuyến soi tận vào trong tầm trí người ta. Khi anh mỉm cười, đôi mắt dịu dàng, thì anh có một vẻ nhã, thiệp, đáng mến, khiến cho những người lãnh đạm nhất cũng có cảm tình với anh.

Ngoài ra, Lê Phong còn hai đặc tính rất đáng chú ý: là tài quan sát tỉ mỉ và cách làm việc khác thường.

Anh đi tới đâu, hoặc qua chỗ nào cũng vậy, bao giờ cũng đưa mắt nhìn khắp một lượt. Thế là đủ cho anh ta thu được các cảnh, vật, cử chỉ, dáng điệu một cách rất rõ ràng.

Một hôm đi chơi với tôi ở gần chùa Láng, anh bỗng nói:

- Hai anh chị đứng đây nói chuyện thực nên thơ. Nhưng biết nhau chưa được lâu lắm.

Tôi hỏi:

- Anh chị nào?

- Một “công tử” với một “tiểu thư” đứng bên cái bụi cây này chứ ai?

Nhưng tôi trông quanh quẩn không thấy bóng người nào hết. Phong nói:

- Họ đưa nhau đi chỗ khác rồi.

- Nhưng sao anh biết?

Anh cười:

- Vì tôi cùng một trường với Sherlock Holmès.

Rồi vừa chỉ xuống chân vừa nói tiếp:

- Ở chỗ này trông ra cảnh chiều đẹp đẽ, tôi với anh cũng thích đứng ngắm, nữa là người đa tình. Tôi có ý tưởng ấy, lại trông thấy dưới cỏ một chút tàn với gần đó một mẩu thuốc lá thơm... hẳn có một người đứng đây, một anh con trai... một chàng “công tử” với một cô con gái. Vì chàng “công tử” đứng một mình thì không bao giờ chịu táy máy ngắt những lá dâm bụt kia vứt bừa bãi xuống như thế: đó là thói quen của một người con gái, một người con gái không được bạo dạn lắm đứng ở bên cạnh tình nhân. Anh để ý chút nữa thì thấy cả vết gót giày đàn bà in lên lối đi vào trong chùa... chỗ ấy đất hơi ẩm.

Chúng tôi theo con đường nhỏ, lững thững rẽ vào chùa thì quả nhiên thấy một người thiếu niên đứng nói chuyện với một người thiếu nữ đang vẩn vơ nhìn cái cung bát giác ở giữa sân chùa.

Một lần khác ở tòa soạn, Phong hỏi một người chạy giấy:

- Bác ở nhà báo Khoa học đến đây hẳn?

- Vâng.

- Mà vừa rồi, bác suýt bị nạn phải không? Bác suýt đâm vào một cái xe nứa?

- Vâng. Ông cũng ở đấy vừa rồi ư?

- Không.

Phong mỉm cười, thu hưởng lấy cái kính phục của người chạy giấy và của chúng tôi.

Lúc hắn bước ra, anh đủng đỉnh nói:

- Tôi đã bảo tôi hay theo phương pháp phân đoán của Sherlock Holmès.

“Phương pháp ấy thần tình lắm, nhưng cắt nghĩa ra rồi, thì ai cũng cho là chẳng có gì. Đây này: trước hết, tôi biết anh ta có đến báo Khoa học, là vì anh ta là người chạy giấy của một nhà báo mà có qua đường Ngọc Hà. Đường Ngọc Hà là một con đường đất hơi đo đỏ, mà trận mưa buổi sáng làm lầy lội lên. Anh này đi xe đạp qua, thế nào chẳng có mấy giọt bùn đỏ bẳn lên quần áo? Vả trông giày anh ta cũng đủ biết ít ra có một lần anh ta xuống xe ở giữa đường Ngọc Hà. Anh ta gần đến đây thì suýt bị nạn xe. Cái đó cũng không khó đoán. Mặt anh ta lúc mới vào đây trông xanh xám, nhưng đứng một lúc thấy tươi lên dần, đôi mắt vẫn còn có ý hốt hoảng. Tôi chắc anh ta vừa gặp một sự nguy kịch, chẳng hạn suýt bị nạn xe. Trông vai áo anh ta thấy một vết đất thẳng, nhìn xuống vành mũ cũng thế, tôi chắc hẳn anh ta đạp vội, lại đãng trí, tránh không kịp một cái xe bò chở nứa đi trước mặt (vì nứa thì hay có đất bám và chất lên rất cao) nhưng hú vía không đâm thẳng vào xe, anh ta chỉ bị sướt qua một cái mạnh”.

Những điều chúng tôi cho là kỳ dị, không ai ngờ, khi anh phân giải ra đều tầm thường lắm. Tuy thế, chúng tôi vẫn phục anh là một người có kỳ tài. Còn Phong cũng như nhà trinh thám nước Anh, thường cũng lấy lời khen của người khác làm một sự vinh hạnh. Tuy nó nhỏ nhưng đủ làm cho người ta vui lòng. Vì thế, có dịp nào trổ tài, anh cũng không bỏ.

Nhưng một chuyện làm cho chúng tôi phục anh nhất hồi anh mới vào Thời thế, là một chuyện mất tiền ly kỳ xảy ra ở tòa báo mà chính anh khám phá ra.

Một bài tính rất dễ

Mười giờ tối hôm ấy, Lê Phong nhảy ba bực thang một, sầm sầm chạy lên nhà báo, đẩy cửa tòa soạn reo lên:

- Chào mọi người! Các anh nên mừng đi!

Anh ta đặt máy ảnh lên một chỗ, thu gọn đám giấy trên bàn chủ nhiệm, ngồi ghé lên đó, vừa cười vừa nói:

- Tôi được một tin quan trọng lắm. Tôi liền đi ngay lập tức, một giờ đi, nửa giờ điều tra, một giờ về. Thế là bài của tôi xong. Đây này (anh giở mấy trang sổ tay chữ viết nguệch ngoạc đưa ra). Tôi viết ngay tại trận, rồi ngồi trên ô-tô lượt về lại viết nữa. Các anh cho “sắp” ngay đi!

Bỗng anh ngừng lại, nhìn từ ông chủ nhiệm Trần Đăng đến ông chủ bút Văn Bình, rồi đến ông trợ bút ở phòng bên cạnh bấy giờ cũng có mặt ở đó. Anh giương mắt hỏi:

- Có việc gì mà các anh trông có vẻ nghiêm trọng quá thế?

Trần Đăng trỏ xuống tập giấy bạc để trên những giấy má:

- Việc này.

- Lành hay dữ?

- Không lành lắm... Nhưng cái tin quan trọng của anh có báo nào biết nữa không?

Phong cười:

- Có. Nhưng chưa biết ngay, sớm ra cũng đến mai, nghĩa là biết vì Thời thế cho họ biết.

Ông chủ nhiệm xem qua “bài” của Phong rồi đưa cho ông trợ bút:

- Anh làm ơn bảo người thư ký đánh máy ngay làm ba bản, cho họ xếp chữ ngay một, sáng mai đưa kiểm duyệt sớm, độ chín giờ thì cho lên khuôn...

Rồi ngảnh lại nói với Phong:

- Còn việc không lành vừa xảy ra là việc mất hai chục bạc.

“Trước khi anh vào đây không đầy năm phút tôi đem soạn lại số tiền 300 bạc dưới trị sự đưa lên chiều hôm nay. Sực nhớ ra một việc cần, tôi phải sang phòng bên với Văn Bình, lúc trở lại thì thấy mất hẳn một tờ giấy bạc hai chục tôi chặn dưới cái thước này cùng với những tờ khác. Cửa tòa soạn không khóa, nhưng vẫn đóng. Tôi chỉ vắng đây có hơn một phút, mà quyết rằng lúc đó, trong này không có ai”.

Lê Phong chau mày hỏi:

- Việc mất tiền này, những thợ in dưới nhà biết chưa?

- Chưa. Vì tôi vừa thấy mất thì anh đến.

- Bọn thợ in có ai hay lên đây không?

- Ai cũng lên được đây, nhưng thường thì chỉ một vài người thợ chính xếp chữ xong đưa bản in thử lên cho chúng tôi chữa.

- Thế còn những người chạy giấy?

- Họ về cả rồi, duy có ít thợ in phải ở lại đến nửa đêm để làm cho xong những việc cần kíp.

- Anh làm ơn cho gọi mấy người vẫn lên đây cho tôi hỏi.

Ông chủ nhiệm vừa sắp mở cửa thì Lê Phong cản lại ngay. Anh đưa mắt trông đây đó một lượt, nhìn thẳng về một phía như để tìm ý kiến, răng cắn hết môi dưới lại cắn lên môi trên. Anh đứng lên giơ tay đưa về phía giữa bàn làm như muốn với một vật gì, cúi xuống cạnh bàn xem xét rất kỹ một hồi lâu, rồi lại lom khom đi từ chân bàn ra phía cửa. Tới đó, anh ngừng lại, vặn cái vặn cửa mấy cái, gật đầu lẩm bẩm như nói một mình:

- Tiếc rằng chỉ mất có hai chục bạc thôi! Giá là một cái án mạng thì thú quá.

Anh mỉm cười, lấy thuốc lá hút, thọc tay vào túi quần, đi đi lại lại trong phòng, chốc chốc lại đứng nhìn cái địa đồ, cái bảng giấy hay bức tranh, rồi sau cùng đến đọc những chữ nhỏ trên quyển lịch treo trên tường một cách chăm chú.

Chúng tôi chưa hiểu những trò ấy có kết quả gì, thì bỗng Phong mở cửa ra ngoài, đến ba phút sau mới trở lại. Anh xoa hai tay vào nhau, đủng đỉnh lại gần bảo chúng tôi:

- Tìm thấy hai chục bạc không khó một li nào, vì tôi đã thấy rồi; nhưng tôi muốn cho người ăn cắp phải thú nhận nữa kia. Vậy anh làm ơn xuống nhà in, đừng cho ai biết chi hết, trông người nào thấp bé, nhanh nhẹn, ngón tay nhỏ, ngắn và bẩn nhất thì gọi riêng lên đây.

Một chốc, ông chủ nhiệm lên cùng với hai người thợ in trẻ tuổi:

- Người thấp bé nhanh nhẹn thì tôi thấy có hai người này...

- Không hề gì. Nãy tôi quên không nói rõ rằng hắn đi giày cao su, tóc rẽ bên... mặt mũi sáng sủa, lông mày hơi thưa.

Anh vừa nói vừa nhìn trừng trừng vào mặt một người thợ in mà anh vừa mô tả.

- Người ấy chính là người lấy hai chục bạc đó. Anh có nhận là đã lấy hai chục bạc trên bàn này không?

Người thiếu niên cãi:

- Thưa ông, quả tôi không biết gì về việc tiền nong trên này. Từ lúc đến sở, tôi có lên đây bao giờ đâu?

- Được lắm, anh không cần phải thú nhận vì tôi, tôi biết cả rồi. Để tôi nói cho anh nghe xem có đúng không.

“Hồi gần mười giờ, anh xếp xong một bát chữ rồi đưa bản in thử lên đây. Trước khi mở cửa, anh nhìn qua bức màn the căng ở cửa kính này, không thấy có ai, anh cứ lẳng lặng vào không gõ cửa. Anh toan để bản in lên đó rồi xuống thì trông thấy tập giấy bạc giữa bàn. Trông trước, trông sau thấy vẳng người, anh liền đứng sát cạnh bàn, đưa tay trái ra rút lấy một tờ giấy hai chục. Anh sợ ra gặp người nhận được anh thì sợ bại lộ mất, nên anh giấu tiền đi một chỗ không được kín lắm, nhưng nghĩ ra được chỗ ấy cũng đáng khen đấy. Anh định việc xong xuôi anh sẽ lên lấy sau.

“Anh ra ngoài, sắp xuống thang thì anh nghe thấy người chạy lên, anh vội vàng tắt cái đèn trước kho giấy đi, rồi đứng ẩn vào bên trong cửa kho giấy. Người chạy lên là tôi. Tôi cũng vô tình không để ý đến ngọn đèn tắt ở trên lối đi... mà ai cũng có thể vô tình như tôi được.

“Nhưng không may cho anh là tôi chỉ vô tình có một chút thôi. Tôi vào đây chỉ trong mười phút đồng hồ là biết rõ được cái cử chỉ của anh... Vậy bây giờ, anh chỉ có việc lại chỗ giấu tiền ấy đưa ra đây là xong”.

Người thợ in như bị đôi mắt của Lê Phong thôi miên, mặt tái mét đi, hai tay nhem nhuốc những mực in nắm cái mép áo the để cho khỏi run. Hắn ta tỏ ra vẻ hối hận lắm, vừa mới bắt đầu nói:

- Thưa ông, tôi thực lấy làm...

Thì Phong ngắt lời:

- Vô ích. Tôi hiểu rồi, anh cứ lấy tiền ra đây là êm chuyện.

Người thợ in liền thong thả đi tới quyển lịch treo gần cửa, ngảnh nhìn chúng tôi một cái và rút tờ giấy bạc gap tư giắt vào đó đưa cho Phong.

Phong cười:

- Từ nay, nếu anh muốn ăn cắp tiền thì phải rửa hết những mực in ở tay kia đi. Anh cũng là người mau trí khôn, nhưng anh chưa phải tay ăn cắp thực thụ.

Sau đó 15 phút, khi chúng tôi phải hỏi Phong tại sao anh khám phá việc vừa rồi nhanh chóng đến thế, thì anh hơi nhún vai:

- “Khám phá” là một tiếng to quá, vì việc này có gì là khó đâu? Những vết tay bẩn trên bàn, trên nắm cửa, trên quyển lịch kia rõ ràng như những lời tố cáo. Các anh chỉ để ý một chút cũng thấy được như tôi. Còn như biết được người thợ in đứng nấp trong kho giấy cũng dễ lắm. Các anh ra đây mà xem.

Chúng tôi theo anh ra, đến gần cái kho giấy, xế trước cửa tòa soạn và ở về bên kia lối đi. Cái kho giấy này nhỏ, hẹp gần bằng cái cửa kho, không có cánh, trong đó chỉ để lọt một cái tủ lớn chia làm nhiều ngăn; tủ này dùng để xếp những báo chí cũ và những bản thảo không đăng hoặc đăng rồi.

Ngọn đèn mà anh bảo người thợ in tắt đi lúc trước bây giờ đã sáng. Anh chỉ vào một góc tủ nói:

- Các anh hãy nhìn kỹ những tấm bìa lớn để chìa ra ngoài mấy ngăn giấy này... Mép bìa riêng một phía ngăn bên kia, trông nhàu gãy một cách khác thường, nhất là ở hai ngăn giữa. Thể nghĩa là tất phải có một người đứng nép vào đó. Mà người đó không được cao lớn lắm, vì cái vết tay hắn áp vào tường kia không cao quá nửa thước tây. Thường thường thì một người vội vàng sợ hãi đứng nép vào một nơi, cánh tay bao giờ cũng duỗi thẳng, áp bên mình, như để tìm cách thu nhỏ mình lại.

Thấy chúng tôi khen cái tài xét đoán của anh thì Lê Phong chỉ bĩu môi, nói đùa:

- Đã có gì gọi là tài, tôi mong còn có những việc ly kỳ bí mật hơn để bắt cái trí cỏn con của tôi phải làm việc hơn một chút nữa. Chứ những việc tầm thường như việc vừa rồi, bất kỳ ai cũng tìm ra được. Làm một cái tính cộng có nhẽ còn khó hơn thế. Lúc nãy tôi làm bộ nghĩ ngợi, dò xét, chỉ là để cho câu chuyện có vẻ to tát và để “lòe” các anh một tí đấy thôi.

Lê Phong làm việc

Lê Phong thường bảo tôi:

- Ở cái nước Nam thái bình này, làm phóng viên thực là một nghề nhàn hạ. Những chuyện rắc rối, kịch liệt xảy ra ở đâu kia, chứ ở đây thì không. Tôi vẫn thiết tha mong ước có một ngày tốt kia, đeo máy ảnh bên mình, chạy hết từ chỗ nguy hiểm nọ đến chỗ nguy hiểm kia, tìm biết được những việc bí ẩn phi thường, lật được những mặt trái “chưa xuất bản bao giờ” để phô lên mặt báo.

Bởi vì anh ưa điều bí mật, nguy hiểm, không phải riêng vì lòng ham mạo hiểm. Anh ta chỉ nghĩ đến công chúng của tờ báo anh ta giúp việc thôi. Cho nên, về phương diện nhà nghề, Lê Phong có đủ các điều tranh giành, ganh tị. Một tin gì lạ mới xảy ra mà có một phóng viên báo khác biết trước cũng đủ làm cho anh ta buồn bực mất mấy giờ đồng hồ. Anh ta sẽ cầm tờ báo kia lên, nhắc đi nhắc lại luôn mồm:

- Quái, một việc như thế này mà sao mình chưa biết!

Rồi một lát nữa:

- Họ biết trước, nhưng họ viết tồi lắm. Giá ở tay mình thì... Ồ! Nhưng không can! Bây giờ cũng chưa muộn lắm, ta vẫn có thì giờ chuộc lại cái tội ghê gớm của ta.

Thế là anh ta đứng ngay lên, lấy sổ tay, lấy xe đạp, cắm cổ phóng đi như người đi báo tin nhà cháy; rồi sau đó một giờ hay nửa buổi, hay cả một ngày, tùy theo việc điều tra lâu hay chóng, anh ta lại về tòa báo viết một bài tường tận về cái việc đã qua. Cố nhiên là một việc quan trọng.

Hồi nhà báo chưa nhất định giao những việc điều tra quan trọng và phái anh đi các nơi xa, Phong chỉ đi làm những việc nhỏ ở Hà Nội và chung quanh đấy.

Phong tự đặt cho mình cái tên giản dị là “người ngoài phố”, vì suốt ngày, trừ những lúc rất chóng, khi năm phút, khi nửa giờ, anh cắm cúi ngồi viết ở tòa soạn, còn thì anh lang thang ở các vỉa hè Hà Nội, hoặc ngồi trong tòa án, hoặc đọc những tờ trình ở một vài Sở Cảnh sát, hoặc ngồi ăn lạc rang hay dí dỏm hỏi chuyện mấy đứa trẻ bán báo bên hồ Gươm. Quyển sổ tay nhét trong túi rút ra luôn, và cái bút chì không mấy khi được nghỉ việc.

Cảnh sát, trẻ bán báo, trẻ bán các quà vặt với phu xe là mấy hạng người phần nhiều quen biết anh. Có lần, tôi lại thấy anh chào hỏi cả mấy tay đón bạc cho các sòng ở các ngõ hẻm. Phong nói:

- Tôi quen họ cũng chưa đủ. Trong bọn họ lại có người coi tôi là bạn thân nữa kia. Đối với hạng nào, tôi cũng dùng một cử chỉ, một thái độ thích hợp. Có điều tôi kiêng kỹ nhất là không để họ biết mình làm báo bao giờ. Họ là những nguồn tin tức rất nhanh chóng cho tôi, giao tiếp với họ có ích không biết là chừng nào, nhưng phải khéo coi chừng không thì rất nguy hiểm.

Anh lại kể cho chúng tôi nghe những lúc len lỏi trong những tiệm thuốc phiện lậu, những sòng bạc rất kín đáo và nhiều phen suýt bị bắt cùng bọn tay chơi. Một lần, anh đã bị người ta nhầm là có tùng đảng với du côn. Lại một lần khác, trong một hàng cơm rất bẩn ở phố Hàng Buồm, một bọn phu xe uống rượu say gây chuyện đánh nhau với anh, anh phải nhảy đập vỡ ngọn đèn treo mới thoát nạn.

Anh có cách cải trang rất khéo và rất nhanh chóng để dễ đi quan sát các chỗ tối tăm bí hiểm ở Hà Nội, có đủ các thứ tiếng sống sượng, tục tĩu của đủ các hạng người hạ lưu.

Một buổi tối kia, muốn làm chúng tôi ngạc nhiên, anh để cả bộ quần áo thợ nguội đi vào tòa soạn. Anh vụng về bỏ cái mũ “cát kết” xuống, hỏi một cách đột ngột:

- Tôi muốn hỏi ai là chủ nhiệm với ai là chủ bút ở đây?

Chúng tôi lấy làm lạ toan trả lời thì anh ta lẳng lặng đi vào, ngồi xuống ghế giở một tờ báo ra coi và nói:

- Báo của các ông xoàng lắm! Toàn những tin chó chết là tin chó chết. Nhưng không hề gì.

Nói đến ba tiếng “không hề gì” thì anh ta phì ra cười và chúng tôi cũng vừa nhận được mặt. Ông chủ nhiệm Trằn Đăng cau mày hỏi:

- Làm gì mà phải giở những trò ấy ra thế?

- Làm gì à? Làm một bài phóng sự mới mẻ chứ làm gì. Các anh phải biết, hơn nửa tháng nay, ngày nào tôi cũng thắng bộ này ở lẫn với các ông “nhọ đít” trong các sở máy... Kết quả được một mớ tài liệu trong túi này. Từ số báo sau, anh có thể báo trước bài phóng sự về thợ thuyên của “bản báo phóng viên Lê Phong” và đặt ngay ở trang đầu, cho sang trọng.

- Nhưng anh còn đợi gì mà chưa viết đi?

- Xong hai phằn ba rồi, vì tôi đã có đủ tài liệu...

Sau mấy bài ngắn, Lê Phong bắt đầu được nhiều người chú ý, độc giả Thời thế càng ngày càng ham đọc phóng sự của anh ta. Đến lúc anh được phái đi phóng sự các nơi để làm những cuộc điều tra dài, thì Lê Phong sung sướng như con cá gặp nước.

Hôm anh mang máy ảnh với va-li lên đường tìm cách theo dò bọn buôn thuốc phiện lậu và súng lậu ở Phủ Lạng Thương, anh có vẻ cảm động và trịnh trọng như một chiến sĩ sắp ra trận.

Chúng tôi bắt tay chúc anh “thượng lộ bình an”, thì anh xua tay:

- Một người phóng viên mà “thượng lộ bình an” là một người phóng viên không may. Các anh muốn tôi đi chuyến này không đem được chuyện gì về nói hẳn? Tôi thích các anh chúc cho gặp toàn những sự khó khăn rắc rối, bị bắt cóc nữa càng hay.

Theo lời hẹn thì sau đó hai mươi ngày anh phải về, hoặc gửi bài về trước. Chúng tôi đợi đến ngót bốn tuần lễ cũng không thấy tin tức gì về anh cả.

Rồi một tháng nữa cũng vậy. Đánh ba, bốn cái điện tín hỏi, chúng tôi cũng không thấy trả lời. Có lẽ sự mong mỏi gặp nạn của Lê Phong đã thành sự thực rồi chăng? Có lẽ anh đau yếu chăng? Càng ngày chúng tôi càng lấy làm lo ngại.

Chưa biết tìm cách gì thông tin với anh được, thì bỗng chúng tôi nhận được bức điện tín:

“Thời thế Hà Nội. - Lập tức gửi phái viên lên Phủ Lạng Thương. Án mạng. Quan trọng lắm. Phóng sự tiến hành. Lê Phong”.

Án mạng? Mà ở đâu?

Còn phóng sự tiến hành? Về vụ điều tra buôn lậu hay về án mạng?

Bức điện văn ấy vắn tắt quá, không thể cho chúng tôi biết rõ được. Thì nửa giờ sau, lại một bức điện văn thứ hai:

“Phái viên lên ngay. Cần lắm. Cần lắm lắm. Lê Phong, Phủ Lạng Thương”.

Ông chủ nhiệm đọc xong, nhìn tôi không nói gì. Ông cúi xuống viết một cái biên lai giao cho tôi:

- Anh xuống két lấy tiền rồi đi ngay lên Phủ Lạng.

- Thể còn bài cua tôi viẽt dơ?

- Viết trên xe lửa, trên ô-tô, đâu cũng được, nhưng anh phải đi.

Tôi gật đầu, cầm lấy biên lai rồi xuống.

Bắt đầu câu chuyện

Bức điện tín thứ hai của Lê Phong, chúng tôi nhận được hồi chín giờ sáng. Mười một giờ trưa hôm ấy tôi tới Bắc Giang.

Vừa qua khỏi cầu sông Thao thì một đứa con trai chạy theo xe hơi của tôi gọi rối gọi rít:

- Này đứng lại! Đứng lại đã!

Đứa bé chừng 13, 14 tuổi, ăn mặc như một trẻ bán báo. Xe tôi đứng lại, nó chạy đến vừa thở, vừa hỏi:

- Ông có phải là ông Văn Bình ở Hà Nội lên không?

- Phải. Sao?

- Tôi chờ xe ông từ lúc gần mười giờ. Ông theo tôi ngay, có việc cần lắm.

- Nhưng theo đi đâu? Mà sao anh lại chờ tôi?

Đứa trẻ không nói gì, tìm trong túi một mảnh giấy rồi đưa cho tôi. Tôi đọc thì chỉ có mấy dòng viết bút chì:

“Đừng hỏi lôi thôi. Bảo đứa bé ngồi lên xe đưa đến đây ngay tức khắc. Lê Phong”.

Tôi bảo đứa bé ngồi bên người sốp phơ để chỉ đường. Nó thấy tôi chau mày đọc lại mảnh giấy của Lê Phong thì nhìn tôi một cách tò mò tinh quái. Tôi ngửng lên thì nó nhoẻn miệng cười:

- Ông ấy cho tôi một hào, viết cái giấy này bảo tôi đợi ở đầu cầu, hễ thấy cái xe nào nhỏ, sơn mùi mát tít, số xe 7777 (bốn số bảy) thì gọi lại hỏi ông Văn Bình. Tôi đợi đã lâu, gặp hai cái xe gần giống xe ông, rồi cái của ông mới đến...

Vừa ngảnh nói chuyện với tôi nó vừa luôn mồm bảo người sốp phơ:

- Sắp đến chỗ rẽ. Rẽ tay phải... Tay phải nữa... Rẽ tay trái... Tay phải...

Đến một phố đông, qua một nhà chiếu ảnh, xe dừng lại một hiệu cao lâu khách. Đứa bé nhảy xuống đưa tay mời tôi:

- Ông vào trong này.

- Ở đây à?

- Vâng.

- Thế sao anh bắt xe đi quanh quẩn mãi?

Nó lại cười:

- Để bù lại cái công tôi đứng chờ đợi, trời mưa rét, ngồi trong xe êm ghê, dễ chịu ghê! Kìa, ông ấy đã ra.

Lê Phong chưa tới cửa đã mắng tôi:

- Sao anh không ngủ ở nhà mấy giờ nữa?

Tôi đáp:

- Nhận được dây thép thì xe còn bận, nửa giờ sau mới về nhà báo.

- Thì thuê xe khác không được à?

Anh ngảnh lại cho thêm thằng bé con một hào, kéo tai nó lắc sẽ mấy cái:

- Láu vừa vừa chứ, nhé? Mày định diện ô-tô với ai?

Lúc thằng bé con cầm tiền hí hửng đi khỏi, tôi hỏi Phong:

- Đứa nào thế?

- Một đứa trẻ tôi gặp giữa phố. Dễ thường anh bắt tôi bỏ công việc đợi xe anh hẳn? Tôi phải thuê nó tiền bảo nó đứng đón anh hộ tôi.

Anh kéo tôi qua gian ngoài hiệu cao lâu, đến một căn rộng và ẩm thấp, la liệt những bàn ghế không có người ngồi. Tôi hỏi:

- Anh trọ ở hiệu cao lâu này à?

- Tởm lắm, phải không? Ở đây không có khách sạn nào khác. Nhưng cần gì? Việc cần nhất là anh đến đây. Anh phải giúp tôi.

- Thế còn việc điều tra buôn súng? Sao anh đi lâu thế? Mà sao anh không gửi bài về trước?

Phong không đáp, chỉ mỉm cười và hỏi lại tôi:

- Anh trông tôi thế nào?

- Vẫn như trước, có lẽ hơi sút đi chút đỉnh.

- Thế thì tôi chóng lại người thật. Ba hôm trước anh trông thấy tôi chắc anh phải ngạc nhiên.

- Anh ốm?

- Không! Hơn thế. Tôi suýt bị giết. Nhưng không hề gì, vì bây giờ tôi đang nói chuyện với anh. Tôi đi vào rừng, theo được vết bọn buôn ngang, tìm cách làm quen được với chúng, rồi được cùng với chúng qua các lối bí hiểm từ Lạng Sơn sang Tàu. Nhiều cái hay lẳm, lạ lắm. Nhưng cũng nguy lắm, ba lần suýt bị lính đoan bắt. Chúng nó có người tố cáo. Tôi bị chúng nó ngờ là mật thám, rồi sau cùng, chúng bàn nhau trừ tôi. Tôi trốn được: 15 ngày lẩn lút ở các rừng. Đói, khát, lo, sợ: đủ. Nhưng cũng không hề gì. Phải chịu bằng ấy cái khổ mà đem về được một mớ tài liệu quý thế là tôi hài lòng. Về đến đây, tôi được tin một nửa bọn chúng bị bắt ở Kép, tôi định ở lại xem xét thêm rồi về Hà Nội thì gặp được cái may ghê gớm: một cái án mạng kỳ quái mới xảy ra hồi mười một giờ đêm hôm qua.

Lê Phong châm thuốc lá hút, rồi cùng tôi lại ngồi bên cái bàn vuông bừa bãi những giấy má và bảo tôi:

- Tôi đã đánh bức điện tín thứ ba thông tin vắn tắt cho Thời thế rồi. Trừ báo mình, không báo nào biết chóng được thế. Cả buổi sáng hôm nay cũng chưa có một phóng viên nào đến lấy tin. Phóng viên ở đây làm việc hay tệ. Trưa hôm nay Thời thế phát hành thì Hà Nội đã biết việc này, đến mai thì có bài tường thuật rất kỹ lưỡng. Tôi sướng lắm, vì cái án mạng này rắc rối không biết chừng nào mà kể, Sở Liêm phóng ở đây, có lẽ ở cả Hà Nội lên đầy cũng chưa chắc đã tìm ngay được manh mối. Vậy thì tôi, tôi sẽ tìm. Để tôi kể tường tận cho anh nghe, anh sẽ viết hộ tôi, để tôi có thì giờ tra xét thêm... Anh cũng sẽ giúp thêm tôi nhiều việc khác nữa. Nhưng hãy gượm, tôi đói dữ lắm, để bảo họ đem cơm đã. Anh chưa ăn cơm phải không?

- Chưa.

Lê Phong ăn rất nhanh và rất khỏe, mặt mày hớn hở như đứa trẻ được quà. Nước da hơi xanh của anh hồng dần lên. Mỗi lần hầu sáng đem một món khác vào, đôi mắt lấp lánh và cánh mũi phập phồng ra vẻ thích chí. Anh bảo:

- Cứ nuôi thần xác mười hôm bằng những bữa cơm ông hoàng này là thừa bù lại những ngày nhịn đói ở trong rừng.

Tôi bảo anh kể những chuyện mạo hiểm ấy cho nghe thì anh lắc đầu:

- Không có thì giờ. Anh đọc những bài phóng sự sau sẽ biết. Đọc bằng con mắt độc giả để xem bài tôi có làm họ vui lòng được không. Ồ, nhiều đoạn ly kỳ khiếp lắm. Đây tôi đã viết được một ít có thể đăng được trong bốn, năm kỳ...

Rồi anh lại đưa tôi xem mấy quyển sổ tay lớn và dày, bìa ngoài với giấy trong bị nhàu nát nhiều chỗ. Chữ viết khi bẳng bút chì, khi bẳng bút máy và rất khó đọc. Tôi chỉ nhận được dưới mỗi đoạn lại có ghi ngày tháng và chỗ anh viết: 12 giờ trưa, 8 janvier, trên đường Tuần Muội. - 12 giờ ở nhà người Thổ H, đêm... - 10 giờ, 20 Janvier, viết trong rừng, bên một khóm lửa, vân vân.

- Rồi lại còn những ảnh chụp nữa, Văn Bình ạ. Nhiều lắm, nhiều cái tuyệt lắm. Mà chụp được họ thực khó khăn chẳng kém gì lên cung trăng... Tôi sẽ nói những nỗi khó khăn ấy với những mưu mẹo tôi dùng ở những bài sau này. Bây giờ nói chuyện đến cái án mạng đã.

Lúc ấy, hầu sáng đã mang cà phê tới. Tôi chăm chú ngồi đợi Lê Phong thuật chuyện, thì anh ta lại lẳng lặng, ngả người trên chiếc ghế, gác hai chân lên bàn, lim dim mắt nhìn tôi... Anh có dáng mơ màng của một người nhớ đến những chuyện vui xưa và đang sung sướng hưởng cái thú êm đêm ấy. Tôi giục hai, ba lần, anh mới bỏ chân xuống, ngồi thẳng dậy nhích ghế lại gần chỗ tôi, kéo nốt một hơi thuốc lá cuối cùng, rồi anh bắt đầu nói:

- Cái án mạng này có đủ các điều bí mật của một vụ án mạng lạ lùng ở Âu châu. Thực tôi không thể ngờ được rằng ở nước Nam này lại còn có một chuyện kỳ thú về nghệ thuật giết người đến thế... Bước đầu của tôi trong nghề phóng viên thực là có nhiều cái may không biết ngần nào. Tôi quyết rằng tôi sẽ là người phóng viên thứ nhất để khám phá một cái án mạng kỳ dị nhất.

“Bao nhiêu tâm lực tôi, lý trí tôi, tình cảm, thị hiếu, bản năng, trực giác của tôi đều sôi nổi lên... đều ‘thức tỉnh’ để chăm chú đến việc này.

“Phen này tôi đánh một ván cờ rất lạ với quân giết người mà tôi biết rất là tài tình. Tôi phải thắng, mà thắng một cách... rực rỡ. Nếu không, Văn Bình ạ, nếu không thì tôi không đáng là một phóng viên nữa, tôi sẽ không làm phóng viên nữa, mà không làm phóng viên nữa thì thôi! Đời tôi không còn có nghĩa lý gì!”

Đôi mắt Lê Phong có những tia sáng bất thường. Giọng nói của anh mỗi lúc một nồng nàn thêm nhiều câu rung động bên tai tôi, nghe thiết tha và quả quyết như những lời thề nguyền. Anh yên lặng một lát, nét mặt dịu dần, rồi cười nhìn thẳng vào mặt tôi như để dò xét tình cảm tôi sau khi nghe những lời khẳng khái ấy.

- Đoạn “văn mở đầu” ấy là chỉ nói cho chúng mình nghe với nhau thôi. Nói cho anh rõ tâm sự và lòng mong mỏi của tôi trong khi tìm khám phá cái án mạng này. Bây giờ mới vào bài, anh lắng tai mà nghe.

Rồi Lê Phong bắt đầu kể.

Cái may ghê gớm của Lê Phong

Ăn xong bữa cơm tối hôm trước, Lê Phong xem lại và thu gọn giấy má trên cái buồng nhỏ ở hàng cao lâu An Wing, rồi điếu thuốc lá ngậm bên mép, quyển sổ nhét trong túi, anh lững thững đi trong mấy phố vắng, nghĩ đến bài phóng sự sắp làm sôi nổi “dư luận” nay mai. Phong chưa đi Hà Nội ngay là vì anh còn muốn phỏng vấn mấy người mới bị bắt. Mấy người này là những tay buôn súng đã từng chuyện trò với Phong trong khi anh giả làm một người buôn gỗ trái phép và nhập bọn với họ trong rừng. Anh ngẫm lại những phen mạo hiểm đã qua và cười một mình:

- Bây giờ họ gặp mặt ta, nếu nhận ra được thì cũng khá buồn cười.

Vì họ có lần ngờ cho anh, nhưng chỉ tưởng là người của nhà đoan, chứ không biết anh là một phóng viên nhà báo.

Mưa vẫn lót phớt bay từ buổi sáng, bấy giờ tuy đã tạnh, nhưng mỗi cơn gió thổi lại làm rụng xuống những hạt nước đọng trên các đầu cây. Lê Phong hít thử cái không khí lạnh lùng ban đêm một cách khoan khoái. Dưới ánh đèn điện thưa, mặt đường lấp loáng ở giữa hai dãy nhà im lặng. Tiếng giày của Lê Phong thong thả nện trên bờ hè... Qua mấy phố cùng vẳng tẻ như nhau, anh ta rẽ sang con đường chạy qua nhà ga. Lúc đi tới trước cửa Sở Cảnh sát thì đã quá mười giờ.

Phong chú ý nhìn chiếc đồng hồ đeo tay của anh. Cái mặt kính rạn ra mấy đường cong queo nhắc cho anh nhớ tới những phút nguy kịch anh chạy trốn trong rừng... Bỗng một chiếc xe hơi sấn sổ chạy đến, bùn nước bắn tóe ra làm Phong phải nhảy lánh vào một phía. Phong đang lẩm bẩm mắng anh tài xế thì xe rít lên một tiếng, đứng im lại, rồi cửa xe mở, một người ăn mặc âu phục nhảy ra.

- Không phải chuyện thường.

Phong tự nghĩ thế, rồi mặc kệ hai ống quần bùn bắn, lẻn đứng bên gốc cây gần đó, và nghe.

Người đàn ông kia chạy như một thẳng điên vào đập cửa Sở Cảnh sát. Lúc hắn quay trông ra thì ánh điện soi vào một cái đầu không đội mũ. Phong nhận được một bộ mặt bơ phờ, nhớn nhác, nhưng nét đầy đặn, cái miệng hé mở lấp lánh mấy chiếc răng vàng. Phong bước lại gần. Cửa Sở Cảnh sát mở, người đàn ông liền nắm lấy tay viên cẩm, vừa nói vừa thở mấy câu tiếng Pháp:

- Thưa ông chánh cẩm, nhà tôi vừa gặp một sự ghê gớm lắm. Người em họ vợ tôi vừa mới bị giết... Ông đến mau lên.

Viên chánh cẩm toan càu nhàu, nhưng khi nhận được ra người vừa đến và nhất là khi nghe người ấy nói thì vội vàng mời người ấy vào. Cửa Sở Cảnh sát mới đóng lại được nửa chừng, bỗng ngừng lại. Lê Phong đã đứng đó.

Anh ta thấy vẻ mặt viên cẩm không được nhã nhặn mấy, liền giả vờ sợ hãi vội vàng như người đàn ông lúc nãy, rồi lẳng lặng theo người ấy vào.

- Thế nào? Người nhà ông bị giết thế nào? Lúc mấy giờ?

- Vừa bị giết xong một nhát dao đâm trúng tim, chết ngay lập tức.

- Mà ai giết?

- Tôi không biết. Tôi vừa ở Hà Nội về. Đến cổng thì thấy tiếng vợ tôi kêu, lên đến nhà, chạy sang phòng bên, thì đã thấy Ngung nằm trên vũng máu. Ngung là người em vợ tôi. Cửa ngõ nhà tôi đóng cả. Cửa sổ đóng, cửa phòng khóa. Ngung vẫn ngồi nói chuyện với vợ tôi ở phòng giữa. Mười giờ, vợ tôi sang buồng bên cạnh đi ngủ, bỗng thấy tiếng kêu ghê gớm, chạy sang thì Ngung đã bị giết rồi... Con dao còn cắm ở ngực... Mà trong nhà không có một người nào khác... Tôi sợ quá, vội chạy lên đây báo ông.

- Ông chắc người kia chết thực rồi ư?

- Chắc.

- Được, để tôi gọi điện thoại cho ông dự thẩm với ông thầy thuốc của tòa án, rồi ta đi... À, ông có xe đấy chứ?

- Vâng, ở ngoài kia.

Ông cẩm chỉ vào Phong:

- Thế còn người này?

Người đàn ông giương mắt nhìn Phong rồi nhìn viên cẩm:

- Kìa, tôi tưởng ông này là người trong sở?

Viên cẩm:

- Còn tôi, tôi tưởng là người đi với ông.

Phong liền cúi đầu chào cả hai người, mỉm một cái cười có duyên nhất của anh ta và nói một câu rất lễ phép:

- Thưa các ông, các ông tưởng nhầm cũng phải, vì tôi chưa tự giới thiệu.

Viên cẩm bỗng đùng đùng nổi giận:

- Nhưng mà... ai cho phép ông vào đây?

Lê Phong dịu dàng thưa:

- Ông cẩm có việc bận thế, ai dám xin phép để mất thì giờ của ông... Nhưng mời ông hãy đi đánh điện thoại cho ông dự thẩm với ông đốc tờ đi đã. Việc ấy cần hơn.

- Ồ, ông rõ thực là...

Nhưng ông cẩm đi vào, bảo một người ở bàn giấy trong:

- Ông làm ơn gọi máy nói đến nhà ông dự thẩm ngay cho, nói rằng có việc rất cần, một cái án mạng ở phố... (viên cẩm hỏi người đàn ông) ở phố nào nhỉ?

- Phố Châu Giang.

- Ở phố Châu Giang, nhà ông Léon Yune, chúng tôi đợi ông ở đây để cùng đi. Ông lại báo tin này cho ông đốc tờ biết nữa.

Rồi ngảnh nhìn Phong bằng đôi mắt thù hằn, để sắp sửa nói tiếp câu giận dữ lúc nãy:

- Ông là...

Thì Phong liền đỡ lời:

- Tôi là một người rất kính trọng ông cẩm, đó là một việc. Tôi lại là phóng viên của một nhà báo lớn: báo Thời thế, đó là một việc thứ hai. (Vừa nói, anh ta vừa lấy tấm giấy chứng nhận của nhà báo đưa ra cho viên cẩm xem) Tôi bước chân vào đây có cả hai việc đó, và mong rằng...

- Tôi cũng mong rằng ông ra khỏi đây ngay tức khắc, tôi không cần đến phóng viên.

Lê Phong vẫn giữ nụ cười có duyên.

- Vâng, nhưng nếu tôi không thể có ích cho ông thì xin ông cho phép tôi có ích cho báo của tôi vậy. Tôi muốn điều tra về...

- Ông muốn điều tra thì mai lại đây mà hỏi. Còn đến khám xét là công việc của luật pháp, chứ không phải việc các ông.

- Nhưng chúng tôi muốn giúp luật pháp một phần...

Viên cẩm không thèm nghe Phong nói hết đi thẳng vào bàn giấy sắp mấy tờ giấy để vào cặp. Một lúc lâu ông mới đi ra.

Phong ngảnh lại nói với người đàn ông đứng đó:

- Thưa ông, chúng tôi mong biết rõ sự thực, sự thực tường tận, và mong ông sẽ vui lòng cho chúng tôi được biết rõ về việc này. Tôi sẽ xin hết lòng giúp ông, nếu chúng tôi có thể giúp được...

Nhưng viên cẩm không cho Phong nói nữa, ép anh ta lui ra cửa, thì vừa lúc ông dự thẩm và sau đó gần một phút, ông đốc tờ cũng bước vào.

Viên cẩm thuật qua lời người đàn ông và không quên nhắc đến sự quấy rầy của người phóng viên nhà báo, cho hai người mới đến nghe, rồi cùng vội vã ra xe hơi, mặc Lê Phong ở lại.

Lê Phong buồn bã, đứng nhìn theo họ, còn nghe thấy viên cẩm càu nhàu:

- Ồ, các phóng viên bao giờ cũng thế, mà ở đâu cũng thế!

Xe chạy trong năm phút đã đến nhà xảy ra án mạng. Một cái nhà hai tầng rộng lớn, ở lui vào trong sau những dãy nhà thấp hơn và xa đường chừng hai mươi thước. Chung quanh nhà, tường cao vây kín. Xe dừng lại bóp còi đợi cho cái cổng sắt mở rồi đi thẳng vào trong sân.

Ba người Pháp: viên dự thẩm, viên cẩm, viên đốc tờ và người đàn ông đên báo tin lúc nãy cùng lên gác, vào trong một phòng ngủ thì thấy một người thiếu phụ đang ngồi ôm mặt khóc, ở bên giường:

- Người này là vợ tôi. Chỗ em tôi bị giết ở phòng bên cạnh.

Người đàn ông nói rồi đưa mấy người Pháp sang căn phòng bên, nửa là phòng khách nửa là phòng đọc sách. Người chết nẳm trên một cái pan rộng, áp vào một phía tường.

Viên dự thẩm đưa mắt nhìn quanh một lượt, chưa để ý đến cái tử thi vội. Ông đi lại bên cái bàn vuông nhỏ giữa phòng, ngồi xuống, đặt giấy má lên đó rồi nói với người đàn ông:

- Trước hết, chúng tôi cần biết trong nhà có bao nhiêu người? Có ông là ông Léon Yune... tên ông là Léon Yune phải không?

- Vâng, như ông đã biết.

- Ông là dân Hoa kiều?

- Tôi là khách lai.

- Bao nhiêu tuổi, và làm nghề gì?

- Ba mươi sáu tuổi, buôn bán và chủ đồn điền.

- Vợ ông, tên là gì? Bao nhiêu tuổi?

- Đào thị Can, hai mươi chín tuổi.

Ông ta cúi xuống biên chép mấy chữ rồi lại nói:

- Ông làm ơn cho gọi bà Léon Yune sang đây.

Lúc ấy viên cẩm bỗng cau mày xẵng tiếng hỏi một người có mặt đứng ở khung cửa thông sang phòng ngủ.

- Ai cho phép ông vào đây mới được chứ?

Người ấy là Lê Phong.

Lê Phong cười:

- Xin lỗi các ông! Tôi quyết không khi nào làm trở ngại việc các ông, các ông cứ cho tôi là một người khách quan, một người khách quan vô tư, yên lặng như bức tường này là đủ.

Cái cười có duyên của anh, anh lại đem ra dùng một lần nữa để đưa đẩy câu nói của mình:

- Vả lại, cho công chúng biết việc án mạng này với biết tài tra xét và quý danh của các ông, chắc cũng không khiến cho các ông phiên lòng quá.

Ông dự thẩm thấy điệu bộ nhanh nhẹn và láu lỉnh của Lê Phong, yên lặng nhìn anh ta, nhưng đôi mắt của ông không tỏ ra vẻ ác cảm với anh lắm.

Viên cẩm vừa bĩu môi vừa nhún vai; còn viên đốc tờ chỉ nói:

- Mà cho người ta ở đây cũng không có hại gì.

Lê Phong cúi chào ra ý cảm ơn ông đốc tờ:

- Vâng, không những không có hại gì, mà tôi lại giúp thêm các ông được một tay. Trước hết, tôi đã xem qua giúp các ông cái lối đi qua trước cửa ba gian phòng ở trên gác này, và tôi thấy có những vết giày từ đầu thang gác đến cửa buồng ta đương đứng đây. Cửa buồng này khóa. Nên vết giày lại thấy đi từ đó sang cửa phòng ngủ đằng sau tôi...

- Đó là vết giày của tôi (lời người khách lai).

- Vâng, tôi hiểu. Nhưng vết ấy tỏ ra rằng ông nghe thấy tiếng kêu của bà Duỳn đã chực mở cửa phòng giữa, nhưng không được nên mới chạy sang cửa phòng bà...

Viên cẩm vội ngắt lời:

- Thế nghĩa là ông chẳng tìm được cái gì lạ hết. Những điều quan sát trẻ con ấy, ông không cần phải dạy ai. Ông muốn xem thì đứng yên đó, không nói năng, không bàn bạc. Nếu không thì mời ông ra.

Lê Phong lại cúi chào, rồi nhích sang một bên để người thiếu phụ bước vào.

Anh ta đem hết sức tinh tường của đôi mắt trong sáng ra để trông khắp phòng, trông rất nhanh nhưng rất cẩn thận.