- II - Vẫn câu chuyện của Lê Phong
Tới đoạn chuyện mà tôi thuật ra trên kia, Lê Phong ngừng lại, lấy điếu thuốc lá khác nối theo điếu trước, rồi ngửa cổ phun khói lên trần nhà.
Tôi hỏi:
- Anh làm thế nào đến nhà người khách lai chóng được thế? Bọn kia đi ô-tô kia mà?
- Thì tôi cũng đi ô-tô.
- Ô-tô nào?
- Ô-tô của họ.
Phong cười vì thấy tôi ngẩn ngơ chưa hiểu. Anh nói:
- Con nhà làm báo ít ra cũng phải có một nghìn và một mưu kế trong túi, hay nói một cách giản dị hơn, ít ra cũng phải tinh quái hơn ma. Anh thử nghĩ xem, tôi vì sự tình cờ, trong một đêm tẻ ngắt ở một tỉnh cũng tẻ ngắt như Phủ Lạng Thương này, bỗng dưng gặp ngay một việc khác thường, gặp một cái án mạng mà tôi gọi là “cái may ghê gớm” của tôi, còn cơ hội nào tốt hơn nữa. Tất nhiên là tôi vội vàng nắm lấy cổ nó. Nắm cổ cái cơ hội, đã đành.
“Cho nên khi bọn ông dự thẩm ngồi vào xe, tôi buồn rầu vì không được đi theo họ. Chợt nảy ra một cái ý kiến. Tôi liền nhảy thẳng ba bước, thêm một bước ngang về tay trái: thế là bạn anh đã bám được cái hòm ở đằng sau xe.
“Đi ô-tô bằng cách ấy kể cũng không được sang trọng mấy. Nhưng cần quái gì? Cách nào dẫn được đến chỗ án mạng cũng tốt.
“Tôi rón rén theo họ lên gác mà họ không biết, đứng lại ở cái lối đi ngang trước ba cửa buồng trên đó, nhân thể đi quan sát rồi cẩn thận đi vào trong căn phòng thứ nhất là chỗ vợ người khách lai đương ngồi khóc một mình. Mấy nhà chức trách đang khám xét phòng giữa ở ngay bên cạnh. Bên này, tôi lại đóng vai kịch lúc ở Sở Cảnh sát: nghĩa là trước mặt người thiếu phụ tôi giả vờ làm một người theo ‘quan cẩm’ tới đây. Người thiếu phụ cũng không buồn hỏi xem tôi là ai, nên vai kịch cũng dễ đóng.
“Tôi vừa nghe ngóng, vừa xem xét gian buồng ngủ này một lát, định hỏi người thiếu phụ mấy câu thì bên kia ông dự thẩm đã cho gọi cô ta. Tôi liền bước sang, và vì thế mới thấy bộ mặt ngạc nhiên và khó chịu của viên cẩm.
“Cũng may mà ông dự thẩm không ghét người một nhà báo, lại thấy tôi là một phóng viên không đụt lắm, nên cho phép tôi được theo đuổi cuộc điều tra riêng của tôi. Một lần tôi nghe thấy ông ta nói với viên đốc tờ:
“- Người thiếu niên ranh mãnh này nhắc tôi nhớ tới mấy tay phóng viên bên Pháp.
“Cái cảm tình ấy có ích cho tôi lắm: trước hết viên cẩm bắt đầu nhìn tôi một cách ôn hòa hơn...
“Người thiếu phụ, vợ Lường Duỳn bước vào phòng thì viên cẩm mời cô ta đợi đó. Trong lúc ấy, ông dự thẩm cùng với ông đốc tờ đến khám xét tử thi. Người bị giết trạc độ ngót ba mươi, mặc một bộ pyjama màu da trời, đẫm những máu, nhất là ở phía ngực. Mặt lúc thường có lẽ đều đặn, trắng trẻo, lúc đó trông xanh xám và lộ ra vẻ sợ hãi không biết chừng nào. Vũng máu ở trên sàn gỗ, gần phía đường trong, tỏ ra rằng trước khi người ta đặt hắn lên chiếc pan, hắn đã có lẫn ngã gục xuống đất.
“Hắn bị giết bằng một thứ dao nhọn, chuôi gỗ, mà lúc ấy, ông đốc tờ đã rút ra. Lưỡi dao dài hơn mười phân tây và cắm ngập vào gần hết. Lúc người thầy thuốc lấy kéo cắt mở cái áo pyjama ngoài với hai lần áo pullover và sơ-mi trong ra, thì thấy rõ vết đâm trên ngực người chết. Vết ấy nằm ngang phía dưới vú, rộng chừng hai đốt ngón tay. Ông đốc tờ xem cẩn thận tử thi một lúc lâu, rồi ngửng lên:
“- Không có vết thương nào khác. Người chết bị đâm trúng tim, đâm rất mạnh, vì con dao cắm sâu vào những tám phân. Ông cẩm, ông thử hỏi xem ở trong nhà này có ai biết con dao này không?
“Mọi người đều trả lời không và nói thêm rằng chưa từng trông thấy thứ dao như thế bao giờ.
“Nhưng đối với tôi thì con dao ấy không phải là một vật lạ. Đó là một thứ khí giới nhỏ của người Thổ, Mán đem theo trong lúc đi rừng. Lưỡi dao những lúc không dùng đến, thường tra trong vỏ gỗ ngoài bọc da, hoặc bọc mây ken.
“Tôi xin phép cầm lấy dao xem, bỗng kinh ngạc vô cùng: đằng chuôi dao, tôi đọc thấy bốn chữ nho khắc nông vào gỗ: ‘thần đao bảo mệnh’. Tôi nhớ lại rõ ràng rằng đã có lần trông thấy con dao giống như thế ở tay một người buôn lậu. Trông những nét chữ cứng, tôi lại thấy còn nguyên những vết đất nhét vào. Hai người Pháp thấy tôi có vẻ suy nghĩ, cũng lấy làm lạ. Một người hỏi:
“- Có việc gì vậy?
“Tôi đáp:
“- Nếu đó là sự tình cờ, thì thật là một sự tình cờ rất lạ lùng. Con dao này tôi đã từng trông thấy trong lúc dò theo bọn buôn lậu trong rừng để làm phóng sự... Vậy thì việc án mạng này hẳn có liên can đến bọn ấy. Vừa rồi, bọn chúng bị tố cáo, và một số người bị bắt, vậy có lẽ đây là một việc trả thù... Nhưng đó chỉ ý riêng của tôi, xin các ông cứ tra xét cho cẩn thận”.
Mọi người cùng thấy một cảm giác kỳ dị mới lạ: cái bí mật hình như dần dần ám đến, mỗi lúc một nặng nề thêm.
“Trên mặt mấy người Pháp, tôi thấy có vẻ rất trang nghiêm. Còn người khách lai và người thiếu phụ thì mặt như tái đi, vì lo sợ...
“Khám xét tử thi thì không có một dấu vết tỏ ra đã phải chống cự với một người trước khi bị giết.
“Vả trong phòng, bàn, ghế vẫn có thứ tự; một bộ xa lông nhỏ ở giữa, trên có mấy cuốn tạp chí và hai quyển tiểu thuyết; phía đầu chiếc pan bên tay phải, một cụm hoa tươi cắm trong một cái bình pha lê. Phía tường trong, một chiếc bàn dài và cao, bằng gỗ gụ đen và đánh xi bóng loáng. Bàn kê áp vào trước cái cửa sổ có chấn song sắt, cánh cửa chớp bên ngoài đóng chỉ mở có hai cánh cửa kính bên trong. Đối diện với cửa sổ là cái cửa vào vẫn khóa, mà chìa khóa ở trong vẫn cắm ở lỗ khóa. Bức tường phía trái có một cửa ăn thông sang phòng của Đào Ngung, tôi đã có thì giờ xem qua gian phòng này: cửa sổ cũng đóng và cánh cửa ra ngoài hiên gác cũng khóa. Bức tường bên phải có cửa thông sang phòng ngủ của hai vợ chồng người khách lai.
“Đây tôi phác về cái plan (bình diện) ba gian trên gác cho anh dễ thấy”.
Rồi Lê Phong lấy bút vừa vẽ vừa cắt nghĩa cho tôi xem bức bình diện sau này:
“Anh xem đó, thì biết cái án mạng này thực là khác thường. Mà thực là một vụ án mạng, chứ không phải là một vụ quyên sinh. Mấy cuốn tạp chí vui còn mở, để trên mặt cái bàn tròn mà người chết vừa đọc một giờ trước, với hai cốc rượu mùi để trên lò sưởi, tỏ ra rằng người chết không phải là người rắp tâm tự tử. Vả theo lời vợ chồng Lường Duỳn, thì Đào Ngung vẫn là người vui tính, thích sống và không có một điều gì bận lòng qua... Mà nếu muốn tự tử chăng nữa, tất phải chọn những lúc khác.
“Vậy thì con dao kia tự đâu mà cắm vào ngực Đào Ngung? Tự tay ai, mà ai có thể vào được đây? - Bí mật!”
Cuộc thẩm vấn
(Tiếp theo lời thuật chuyện của Lê Phong)
Cuộc thẩm vấn làm ngay tại trận rất kỹ càng chu đáo, nhưng sự bí mật càng thấy dày đặc hơn.
Người khách lai khai rằng Đào Ngung không quen biết ai ở Phủ Lạng Thương. Về cuộc đời của Ngung, Lường Duỳn cũng không được biết rõ lắm. Vì tuy Ngung có họ với vợ hắn, nhưng mới biết nhà chị được có từ đầu tháng Sáu, nghĩa là cách đây tám tháng, nhân một hồi vợ Lường Duỳn đi Lao Kay thăm bà con. Từ đó Ngung thỉnh thoảng đến Phủ Lạng ở chơi đôi ba ngày, lần này định ở đó ít lâu để nhờ Duỳn tìm cho một việc. Thấy Ngung là người nhã nhặn, lịch thiệp, nên Duỳn rất có bụng mến, và muốn giúp trong lúc cơ nhỡ. Nhân có ít đồn điền ở Kép, người khách lai đang tìm người giao cho việc coi sóc để khai khẩn thêm, ông ta định rằng trù tính xong mấy việc riêng rồi sẽ đưa Ngung lên Kép để Ngung ở đó cai quản thay cho mình. Hai giờ chiều hôm đó, Lường Duỳn phải đi Hà Nội lập thương ước với đại biểu một hội buôn ở Hồng Kông mới sang: ông ta có giao dịch với những nhà đại thương ngoại quốc. Việc điều đình xong sớm, ông ta không muốn lưu lại ở Hà Nội đến hôm sau theo như lời đã dặn ở nhà, nên ngay tối hôm đó một mình đi xe hơi về ngay. Vừa đến cổng nhà thì đã nghe thấy tiếng vợ kêu, mãi một lát sau, đầy tớ mới thức dậy ra mở cổng. Duỳn đâm bổ lên gác thì đã thẩy Đào Ngung bị giết rồi. Viên cẩm hỏi:
- Lúc ấy mấy giờ?
- Mười giờ hai mươi.
- Thế ra đầy tớ nhà ông đã ngủ cả?
- Phải. Tôi thường cho chúng nó đi nghỉ sớm. Tiếng vợ tôi kêu với tiếng tôi gọi mất đến hai, ba phút mới thấy chúng nó dậy.
- Họ thường ngủ say đến thế kia ư?
- Tôi không gọi chúng nó khuya bao giờ, nên không được biết.
Viên cẩm lại hỏi:
- Lúc ông lên tới đây thì ông đã thấy đầy tớ ông có đứa nào lên đây trước chưa?
- Chưa. Chỉ thấy vợ tôi đang kêu khóc bên tử thi Ngung.
- Ông chắc chứ?
- Chắc. Tôi vừa vực Ngung dậy đặt nẳm lên pan, rồi mới thấy thằng bếp với thằng xe vào. Còn con sen thì vào sau, vợ tôi phải đi đánh thức nó dậy.
- Con sen ngủ ở đâu?
- Ở cái buồng nhỏ trước cửa phòng ngủ chúng tôi.
Lê Phong vẫn lẳng lặng ngồi nghe không bỏ sót lời nào, vừa nghe vừa lấy bút chì ghi chép lấy những chỗ quan trọng. Lúc ấy anh bỗng ngừng lại len một câu nói:
- Xin phép cho tôi hỏi một điều cần lắm. Buồng con sen lúc ấy đóng hay mở?
Người khách lai ngảnh lại hỏi vợ:
- Hình như vẫn đóng, có phải không mình?
Người thiếu phụ gật đầu. Lường Duỳn nói:
- Đóng, nhưng vì buồng ngủ của nó ở trước buồng ngủ của tôi, nên mọi khi gọi đến hai tiếng nó đã tỉnh dậy. Duy có lần này...
Phong toan hỏi thêm, nhưng viên cẩm đã hỏi trước:
- Đầy tớ nhà ông có ai nữa không?
- Không, chỉ có ba người này. Còn một người sốp phơ thì đã ba hôm nay xin phép tôi về quê thăm người nhà ốm nặng. Tôi cầm lái lấy được, nên không phải mượn ai thay.
Lê Phong lại hỏi nữa:
- Ông làm ơn cho biết lúc ông tới vực Ngung thì Ngung còn sống hay đã chết thực rồi?
- Tôi không nhớ rõ.
- Vậy mà đó là điều quan hệ nhất, là vì...
Viên chánh cẩm tỏ ý khó chịu về sự can thiệp của người phóng viên. Ông ta nhún vai nói:
- Điều đó hỏi vô ích. Người chết bị đâm trúng tim, con dao lại đâm rất sâu. Sống thế nào được. Thôi, ông Léon Yune khai thế cũng tạm đủ. Bây giờ chúng tôi muốn nghe lời khai của bà Yune.
Người thiếu phụ không hiểu tiếng Pháp. Lê Phong xin làm thông ngôn hộ và nhân thể để hỏi những điều cần. Anh ta vừa hỏi vừa ngắm cái nhan sắc “mê hồn” (theo lời Lê Phong) đã làm cho anh ta chú ý ngay từ lúc đầu.
Vợ Lường Duỳn có một vẻ đẹp vừa sắc sảo, vừa dịu dàng, đôi mắt sáng ra vẻ rất thông minh, trông lúc nào cũng như ẩn không biết bao nhiêu nỗi buồn sâu xa mà cái thảm trạng đêm hôm đó đã làm tăng lên gấp bội. Giọng nói nhỏ nhẻ, trong trẻo, khi nói, hai bên má phấn hây hây đỏ tuy cái sắc lo sợ đau đớn vẫn chưa phai. Cặp môi thắm, nét môi thanh tú, màu son tươi hơi long lanh dưới ánh đèn.
Lê Phong, trong lúc dịch những câu hỏi của viên cẩm và lúc nghe người thiếu phụ trả lời thường bất chợt thấy lòng anh ta xôn xao lên một cách mới lạ.
Người thiếu phụ thong thả khai:
- Cái cảnh tượng ghê gớm đây thực tôi không ngờ có thể xảy đến một chút nào. Cả em tôi cũng thế, vì trước đó có mấy phút, em tôi vẫn vui vẻ nói chuyện với tôi như thường. Câu chuyện của chúng tôi xoay về việc buôn bán, làm ăn. Nhưng tỏ ra người sung sướng vì gặp được nhà tôi là người sẵn lòng trao cho cậu ta coi sóc việc khai khẩn ruộng đất. Tôi yên lòng vì cậu ta đã biết tu chí, vì trong lúc chị em gặp nhau thì tôi thấy Ngung hay chơi bời. Cậu ta là con bà dì họ tôi, trước buôn bán ở Lao Kay. Dì tôi mất đã lâu, mà từ hồi tôi lấy chồng cũng không có lúc nào thăm hỏi đến các em tôi được.
“Hồi chiều, nhà tôi xuống Hà Nội tuy có dặn quá chín giờ không về thì sáng hôm sau mới về, nhưng chúng tôi cũng ngồi nói chuyện tới nửa đêm, có ý đợi gắng xem, tiện dịp nhắc lại những chuyện cũ... Đến mười giờ tôi thấy mỏi mệt mới đặt rổ khâu đứng dậy, vì tôi vừa nói chuyện vừa đan cho nhà tôi một cái áo len, Ngung cũng sửa soạn đi ngủ. Tôi sang phòng bên vừa toan bỏ áo, bỗng thấy Ngung khẽ kêu lên như thấy một sự kinh ngạc rồi liền đó thét lên một tiêng rất lớn. Tôi run người lên vì sợ, chạy sang xem thì thấy mặt Ngung tái ngắt, hai mắt hoảng hốt, há miệng ra toan nói, nhưng vừa bước về phía tôi một bước thì ngã vật xuống, ngực đã bị con dao đâm tự lúc nào...
“Tôi không còn hồn vía nào, vừa tìm cách nâng đỡ em vừa thất thanh gọi con sen, nhưng không ai thưa, thì một lát thấy còi ô-tô nhà tôi về”.
Viên cẩm hỏi:
- Trong lúc bà sợ hãi, có lẽ hung thủ lẻn ra mà bà không biết được.
Vợ Lường Duỳn đáp:
- Thưa ông, nhà chúng tôi có ai vào được mà bảo rằng lẻn ra... Vả lại tôi biết chắc rằng tôi không thấy một bóng người nào hết...
“Đèn trong này sáng, mà lối ra chỉ có cái cửa thông sang phòng ngủ của tôi...”
Hỏi - Bà chạy sang phòng Ngung có ý ngờ hung thủ ẩn ở đó không?
Đáp - Không, phòng bên ấy tôi biết cửa vẫn khóa. Lúc nhà tôi vào đỡ Ngung, tôi cũng đã chạy sang xem cẩn thận.
H - Bà sang một mình?
Đ - Vâng.
H - Bên ấy cũng vẫn để đèn sáng như bây giờ?
Đ - Vâng.
H - Còn cửa phòng của bà, lúc trước cũng khóa như cửa gian này với phòng Ngung?
Đ - Vâng, nhưng lúc mười giờ là lúc tôi sang toan đi ngủ thì tôi mở khóa ra định thay áo xong sẽ sang phòng rửa mặt. Song cánh cửa vẫn chưa mở ra lần nào. Lúc nhà tôi về thấy khóa cửa phòng này, nên chạy sang do lối cửa bên ấy vào đây.
Lê Phong không dịch câu trả lời ra tiếng Tây vội. Anh ta chăm chăm cái bút chì trên quyển sổ tay, se sẽ len một câu hỏi riêng:
- Lúc ông Duỳn vào đây vực tử thi ông Ngung lâu hay chóng? Điều này tối quan hệ, xin trả lời cho thật đúng.
Người thiếu phụ đáp:
- Tôi sang trông qua một lượt định trở lại ngay thì nhà tôi bảo phải xem cẩn thận các cửa sổ với cánh cửa - cửa sổ chỉ có cái ở đầu giường là mở, nhưng đã có chấn song sắt, người ngoài không thể nào lọt vào được, còn cửa lớn thì vẫn khóa chặt. Tôi lại mở tủ áo bên ấy ra xem cho chắc chắn, nhưng cũng không thấy gì.
Lê Phong - Thế ra chính bà mở tủ?
Người thiếu phụ - Vâng.
L.P - Và đánh rơi một cái áo xuống. Bà có đưa tay vào lục soát một lúc?
N.T.P - Vâng, sao ông biết?
L.P - Vì tôi có xem qua. Nhưng không hề gì. Để tôi cắt nghĩa câu lúc nãy ra tiếng Tây đã.
Viên cẩm lại hỏi:
- Bà có ngờ cho ai là hung thủ không?
Nhưng Lê Phong vẫn theo ý riêng của anh ta dịch câu ấy dài dòng hơn:
- Việc này rắc rối lắm. Em bà bị giết, mà trong nhà chỉ có một mình bà. Các cửa đóng kín. Hung thủ không ra được, mà cũng không có lối vào...
Người thiếu phụ vội nói:
- Thế các ông ngờ tôi giết em tôi?...
Phong se sẽ lắc đầu nhìn người thiếu phụ tỏ vẻ yên ủi:
- Không, nhất là tôi thì không nghĩ thể một tí nào hết... Vì một người như bà có lẽ nào. Song tôi muốn hỏi bà có ngờ cho ai không?
Buồn rầu, người thiếu phụ thưa:
- Tôi biết thế nào mà ngờ cho ai được? Nhưng...
- Xin bà cứ nói, đừng nên giấu một điều gì hết... Bà có ý kiến gì không?
Lúc đó, người thiếu phụ đưa mắt như tỏ ý xin lỗi chồng. Lường Duỳn vẫn chú ý nghe lời khai của vợ, lúc ấy ngồi gần lại và ôn tồn nói:
- Mình có điều gì cứ nói. Sự thực rất cần cho việc tra xét cái án mạng này.
Người thiếu phụ thở dài một tiếng rồi ngảnh lại nói với Lê Phong:
- Thưa ông, lúc nãy tôi thấy ông nói rằng con dao giết em tôi là thứ dao của người đi rừng, nên tôi chợt nghĩ ra... Trước kia, khi chưa được gặp tôi, em tôi cũng là một người theo bọn buôn súng lậu, nhưng bây giờ không còn dính dáng đến việc ấy nữa, vì nguy hiểm nhiều mà cái lợi chia ra không bù lại được với những lúc gian nan. Hẳn bỏ nghề buôn ấy để tìm cách buôn bán vững vàng như mọi người và yên lòng trông cậy ở vợ chồng tôi. Nhưng hắn thường áy náy luôn, hắn sợ rằng bạn buôn trước ngờ cho hắn đem tâm phản trắc. Một vài lần viết thư cho tôi, hắn vẫn nói đến chuyện ấy, song tôi tưởng không nên cho nhà tôi biết rõ là hơn. Lúc nãy tôi thấy ông nói con dao này chính là một thứ dao của bọn họ hay dùng, lại vừa rồi ở tỉnh này có mấy người buôn lậu bị bắt, nên tôi cũng ngờ rằng em tôi bị bọn họ báo thù...
Mọi người đều cho những lời khai ấy là những lời quan trọng nhất trong cuộc thẩm vấn. Nguyên nhân vụ án mạng như đã hé thấy. Lê Phong ra vẻ đắc chí lắm, vì anh ta thấy câu đoán thứ nhất của anh ta không sai.
Hỏi đến bọn tôi tớ nhà Lường Duỳn thì chúng khai không biết một tí gì trước khi nghe thấy tiếng kêu của vợ người khách lai và tiếng còi xe hơi ở ngoài cổng. Chúng lên gác cùng với chủ nhà và quả quyết rằng nếu ở trong phòng có ai chạy ra thì thế nào chúng cũng trông thấy. Trong lúc Lường Duỳn đi báo sở cẩm thì chúng vẫn đứng canh ở cái cửa mở độc nhất, là cái cửa phòng ngủ trước lối thang gác lên. Không một phút nào chúng rời khỏi chỗ đứng canh, mà cũng không thấy qua bóng một người nào lạ.
Các nhà chuyên trách mỗi lúc một thấy vụ án mạng thêm kỳ bí hơn lên. Họ dùng các phương pháp nhà nghề khám xét mọi nơi: từng cánh cửa, từng mặt bàn, chân ghế, từng cái song sắt cửa sổ. Họ khiêng cả cái bàn gỗ gụ lớn ra một chỗ để tiện xem xét cái cửa sổ gian giữa là gian xảy ra án mạng. Ngoài hàng song sắt, hai cánh chớp vẫn đóng, cái then sắt dọc vẫn ở trong khớp, họ phải vặn cái nắm mới đẩy được ra. Không! Không có một dấu vết nào của hung thủ để lại. Không những thế, đến cái cách hung thủ dùng để ám sát Ngung một cách nhanh chóng như thế cũng không thể nào đoán ra được. Lê Phong, hai tay chắp sau lưng, không để ý gì đến mấy người Pháp, cứ lò dò nhìn hết xó này đến xó khác, ngắm từ viên gạch lát trên sàn gác đến cái nắm cửa ở mấy cánh cửa buồng.
Anh ta cũng không ra ý cần theo bọn đại biểu cho pháp luật xuống khám xét chung quanh nhà. Đợi lúc trong phòng chỉ còn có ba tên đầy tớ với vợ Lường Duỳn, anh ta liền nhìn vào mặt con sen cười:
- Chị này đã khỏi rức đầu chưa?
Con sen ngạc nhiên thì anh ta đã hỏi luôn:
- Có phải chị rức đầu từ chập tối không? Tôi trông mặt chị tôi biết.
Rồi liếc nhìn người thiếu phụ rưng rưng nước mắt bên cái xác chết, anh ta se sẽ nói:
- Cái liều thuốc ngủ ấy mới công hiệu làm sao!
Thì bỗng thấy người đàn bà biến sắc mặt đi, ngửng lên nhìn trộm Lê Phong. Anh đủng đỉnh châm thuốc lá hút và đủng đỉnh đến bên cái bàn gỗ gụ đen, vừa đi vừa thổi sáo.
Sau nhà, phía dưới cửa sổ, mấy người Pháp đang bàn cãi luôn mồm. Lê Phong mỉm cười đẩy cửa sổ trông ra cái vườn lá cây cao và rậm, ở ngoài bức tường trên lấp lánh những mảnh chai... Anh lim dim mắt, vươn hai tay về đằng sau hít một hơi gió mạnh vào ngực ra chiều khoan khoái lắm.
Bỗng nhiên anh chau mày lại, trừng mắt nhìn thẳng đến ba, bốn phút, rồi ngoắt quay lại đến gần người vợ khách lai. Nhưng thấy bọn con sen với hai tên đầy tớ còn đứng đó, anh liền mượn lấy oai của nhà chuyên trách bảo chúng:
- Thôi, cho cả ba đứa ra đợi ở ngoài kia.
Đoạn, anh ghé xuống bên tai người thiếu phụ, nói một cách rất dịu dàng:
- Thưa bà, trong việc này có rất nhiều ẩn tình... cái ẩn tình thảm đạm... chắc bà cũng như tôi, muốn cho sự bí mật chóng bị khám phá, để trị kẻ gian ác và để hồn oan kẻ thiệt mệnh khỏi phải ngậm hờn. Vậy xin bà giúp tôi, vì chỉ bà giúp tôi được... Xin bà nghĩ kỹ cho.
Lúc ấy, dưới chần thang gác, mấy người đã sắp bước lên. Lê Phong nói tiếp:
- Bà nghĩ kỹ cho... Tôi biết bà quả thực không ngờ đến vụ án mạng này, tôi quả quyết như thế... Song, nếu bà không nói, nói cho riêng tôi biết, thì việc này không thể nào xét ra được...
Tiếng Phong nói rất ôn tồn nhưng đôi mắt Phong nhìn thẳng người thiếu phụ, không chớp. Sau cùng một tay cầm sổ, một tay cầm bút chì, anh hỏi một câu nhỏ, nhưng rất rành mạch:
- Có phải chính bà đã cho con sen uống thuốc ngủ phải không?
Người thiếu phụ giương mắt kinh dị nhìn Phong, chưa nói được câu nào, thì mấy người Pháp và Lường Duỳn đã bước lên. Lê Phong giả tảng chăm chú ghi chép lên quyển sổ.
Cuộc xem xét chung quanh nhà vừa rồi cũng không có kết quả.
Viên cẩm là người quen thấy những việc án mạng lạ lùng, cũng phải nhắc đi nhắc lại một câu:
- Bí mật! Bí mật lắm! Không có một dấu tích nào của hung thủ (vừa nói vừa nhìn cái vết đâm trên ngực người bị giết)... Không có dấu tích nào khác, ngoài con dao với cái vết thương ghê gớm kia... Sự bí mật gần thành ra một việc phi thường, quái dị!
Ông đốc tờ cũng nói:
- Mà nét mặt của người chết tỏ ra hắn đã khiếp sợ quá sức: có lẽ trước khi bị giết, mắt hắn đã trông thấy kẻ thù.
- Nhưng trông thấy ở đâu? Mà hung thủ là ai? Vào đây và ra khỏi đây bằng cách nào? Các ông hẳn không quên rằng chỗ này cửa khóa kín bốn bề, như một cái ngục.
Trong câu nói của viên cẩm, Lê Phong đoán thấy có ý ngờ cho người thiếu phụ. Theo lý luận và những điều quan sát của anh thì vợ người khách lai không phải và không thể là một kẻ giết người được. Anh định rằng nếu luật pháp buộc cho cô ta cái tội ác đó, thì anh, anh sẽ là người phân trần giùm.
Nhưng 15 phút sau, khi các nhà chuyên trách sắp sửa ra về, anh vui mừng vì không thấy họ bắt ai cả.
Viên cẩm ngảnh lại bảo Lường Duỳn:
- Đến sáng mai tôi sẽ cho người đưa tử thi vào cho thầy thuốc khám nghiệm ở nhà thương. Cuộc thẩm vấn về việc này có thể đến hàng tháng may ra mới kết liễu được. Chúng tôi còn cần hỏi đến ông và bà Léon Yune nhiều lần.
Người khách lai trả lời:
- Vợ chồng tôi pháp luật đòi hỏi lúc nào cũng có mặt.
Trước khi bước xuống thang gác, viên đốc tờ còn hỏi đùa Lê Phong:
- Thế nào, nhà phóng viên? Có cần phải bám sau ô-tô để ra không?
Lê Phong cười:
- Thưa ông đốc tờ, tôi còn phải ở lại tra xét riêng cho phần tôi.
- Vậy thì chúc cho ông tìm được nhiều cái lạ
nhé!
- Cảm ơn ông.