← Quay lại trang sách

- IV - Manh mối

Việc án mạng này, thực anh khám phá được rồi ư? Tôi vẫn ngờ là anh có ý gì khác...

Phong như đang nghĩ đi đâu, chợt tỉnh dậy:

- Tôi có ý gì được? Anh không tin tài của tôi một tí nào ư?

- Tin. Nhưng lần này tôi thấy cái tài ấy... “ngoa” quá. Phần tôi, tôi chưa thấy nảy ra tia sáng nào. Ba gian phòng, từ cửa lớn tới cửa sổ, đều đóng kín. Cửa sổ lại có chấn song sắt. Đào Ngung ngồi nói chuyện với người chị ở phòng giữa, không có việc gì xảy ra. Bỗng nhiên, trong có ba, bốn phút đồng hồ sau khi người thiếu phụ về phòng mình, Đào Ngung bị một con dao cắm sâu vào ngực. Thế mà không phải là một việc tự sát! Vậy hung thủ vào lối nào để giết người được? Giết rồi, ra lối nào được? Chỉ có cái cửa thông phòng giữa sang phòng ngủ là mở, nhưng lúc ấy, đèn sáng như ban ngày, người thiếu phụ dẫu vô ý đến đâu cũng trông thấy bóng hung thủ chứ. Bảo rằng hung thủ lẻn vào một chỗ trong ba gian phòng rồi thừa lúc Đào Ngung ở một mình phòng giữa nhảy ra đâm chết, đâm xong lại lẻn ẩn một chỗ? Nhưng cũng không xuôi. Trước hết, theo cuộc điều tra, hung thủ không để lại một dấu vết nào, trừ cái vết đầu gối trên cái bàn gần cửa sổ, là một chỗ không ai dại gì lại đến ẩn ở đó. Sau nữa, hung thủ lẻn ra lối nào? Nghe thấy tiếng vợ người khách lai kêu, người nhà đầy tớ đều đâm bổ lên cùng với Lường Duỳn vừa ở Hà Nội về... Hung thủ phải là người có phép biến hóa mới trốn thoát được. Nếu không, thì hung thủ chỉ có thể là...

- Là ai?

- Là vợ người khách lai!

Phong lườm tôi và gắt:

- Vợ Lường Duỳn? Không! Một trăm, một nghìn, một vạn lần không! Người thiếu phụ, không những không là hung thủ một li nào, cô ta lại là người thân yêu Đào Ngung hơn tình ruột thịt nữa.

- Thế nghĩa là?

- Nghĩa là yêu Đào Ngung chứ gì! Là tình nhân của Đào Ngung, anh nghe chưa?

- Ồ, có lẽ nào!

- Có lẽ lắm chứ? Đào Ngung không phải là em vợ Lường Duỳn. Việc gặp gỡ hắn và nhận ra hắn là con bà dì, việc đưa hắn về nhà chơi để nhờ chồng tìm việc cho, đó chỉ là những cách để cho hai người được gần nhau, gần nhau mà tránh được điều nghi kỵ. Điều đó tôi đã ngờ thấy ngay từ lúc giáp mặt người thiếu phụ trong lúc xảy ra án mạng; đến nay, sự ngờ đã thành ra sự thực rồi. Người thiếu phụ lúc ở nhà thương chiều hôm nay, đã thú nhận riêng với tôi hết.

- Nhưng tại sao anh ngờ được cái điều rắc rối ấy chóng đến thế?

- Đó là nhờ ở phép “phân đoán” và nhất là cái trực giác riêng của tôi.

- Tôi không hiểu.

- Anh thì chẳng bao giờ thèm hiểu gì hết. Mà có gì đâu? Tôi trông thấy người đàn bà trẻ tuổi kia, trước hết tôi phải khen phục cái nhan sắc kỳ ảo mà anh đã được thấy... nhưng tôi cũng chú ý đến cách trang điểm của cô ta. Một người đàn bà biết chồng đi vắng mà lại đánh phấn thoa son để khâu vá trước mặt em trai?... Đó, là một điều bất thường... Làm đỏm, vẫn là tính quen của đàn bà, nhưng không phải lúc nào cũng làm đỏm: đó là đầu mối thứ nhất. Nếu các nhà chuyên trách cũng chú ý như tôi lúc xem xét người bị giết, thì thế nào cũng thấy trên mình người ấy còn vướng một sợi tóc nhỏ, dài, khác hẳn với thứ tóc đen lánh, ngắn và cứng của người đàn ông. Không phải nghĩ nhiều cũng biết rằng đó là tóc của người thiếu phụ. Tôi quên không nói cho anh biết rằng vợ Lường Duỳn đêm hôm qua vấn tóc trần. Vậy thì sợi tóc ấy không nhưng nhảy sang cúc áo Đào Ngung được ư? Đó là đầu mối thứ hai. Lường Duỳn đi vắng, đầy tớ ngủ cả dưới nhà, duy có con sen ngủ ở cái buồng chứa đồ trước cửa phòng ngủ của người thiếu phụ. Cho nó uống thuốc ngủ làm gì? Chẳng là để cho câu chuyện ân ái của hai người trong lúc đêm khuya không ai biết đến? Còn gì nữa? Hai ly rượu mùi trên lò sưởi, cái giỏ đan áo để bên Đào Ngung trong lúc hai người còn ở phòng khách, cùng với những điều tôi nhận xét lúc nãy cũng thừa chứng ra rằng trước khi xảy ra án mạng, hai người đã sửa soạn đến những chuyện êm đềm hơn. Nhưng có biết đâu trong lúc ấy có đôi mắt căm tức đang rình hai người từng cử chỉ một?

- Ở đâu?

- Ở trên cây sấu trước cái cửa sổ trông ra sau nhà.

- Nhưng cửa sổ đóng ở bên trong kia mà?

- Cái khôn khéo của hung thủ là ở chỗ đó. Vì người rình trên cây sấu tức là hung thủ. Lúc ấy, cửa đóng, nhưng cái nắm cửa vẫn chưa vặn lại, hung thủ dùng một cái móc sắt dài kéo hé ra một chút đủ để trông thấy cảnh bên trong. Tôi đã có thì giờ xem xét lại cái cây ở phía ngoài tường và xem cả những vết đầu móc sắt sướt trên cửa sổ. Vào khoảng mười giờ đêm là lúc đầy tớ trong nhà ngủ yên cả, người thiếu phụ mới sang bên phòng ngủ trước, thì thừa lúc đó, hung thủ ở trên cây kéo cánh cửa sổ, khiến Đào Ngung nghe tiếng động, kinh ngạc quay ra. Lưỡi dao hung thủ giết Đào Ngung ngay lúc đó.

Tôi ngắt lời Phong và hỏi:

- Nhưng cái cây mà hung thủ ẩn trên đó ở ngoài bức tường, có cách xa cửa sổ không?

- Cách hơn hai thước.

- Vậy làm thế nào hung thủ giết được?

- Anh không xem xiếc bao giờ ư?

- Thế ra hung thủ nhảy từ cành cây bám lấy cửa sổ để đâm chết Đào Ngung?

- Không phải. Anh nên nhớ rằng Đào Ngung mới quay ra thôi, mà từ chỗ vũng máu là chỗ Ngung gục xuống chết cho đến cửa sổ cách nhau những một thước chín mươi. Mà cho rằng Ngung có đi ra phía cửa sổ thì hung thủ cũng không đâm được: cửa sổ có chấn song sắt, mà kề ngay đấy lại có cái bàn. Người chậm chạp đến đâu cũng tránh được... Nhưng đây hung thủ không ra mặt, vẫn lẩn trong bóng lá mà giết Ngung một cách rất nhậy, không tài nào kịp đề phòng.

- Bằng cách gì?

- Nói thế mà vẫn chưa nghĩ ra. Bằng cách phóng con dao vào ngực Đào Ngung, phóng trúng tim; hung thủ quả có con mắt tinh và có tài phóng dao hơn cả nhà nghề trong những phường xiếc... Đây tôi cứ theo cách hành động của hung thủ kể nối cho anh nghe.

“Giết xong Ngung, hung thủ lại lấy cái móc sắt đẩy mạnh cửa sổ vào, leo xuống đất, giấu cái móc vào một chỗ kín mà chỉ riêng tôi tìm thấy vì tôi vẫn có ý tìm. Hung thủ chạy theo cái ngõ nhỏ ở bên cạnh nhà ra đường cái, lúc ấy, trong nhà đầy tớ đã dậy vì nghe tiếng kêu của Lường Duỳn. Hung thủ gọi cổng chạy lên gác, chực vào phòng ngủ bên trái, rồi do lối cửa thông đi sang. Con dao đâm trúng tim, nhưng không sâu lẳm, hung thủ muốn cho người ta ngờ là Đào Ngung bị đâm một nhát rất mạnh, nên vực lấy tử thi, bảo người thiếu phụ sang phòng bên...”

Tôi giương mắt nhìn Lê Phong, toan hỏi nhưng anh lắc đầu, vẫn giữ nguyên cái giọng bình tĩnh và nét mặt thản nhiên nói tiếp:

- Anh đừng ngắt lời tôi vội. “Hung thủ” bảo người thiếu phụ sang phòng bên để tìm... hung thủ. Thừa lúc ấy, hắn ấn sâu con dao vào ngực người chết, nhưng không để lại vết tay trên chuôi dao, vì tay hắn đeo găng; rồi nhanh như cắt, hắn chạy leo lên cái bàn kê trước cửa sổ, vặn nắm cửa lại để cho câu chuyện thành rắc rối thêm. Hung thủ thực là có tài, có mưu trí và lần đâu giết người đã có “nghệ thuật” lắm. Nhưng hung thủ chỉ có một điều khờ là đi thú thực với tôi.

- Thú thực với anh?

Lê Phong chưa đáp vội, mỉm cười để ngắm vẻ ngạc nhiên trên mặt tôi. Một lát anh mới thong thả nói:

- Phải, thú thực với tôi rằng cái vết đầu gối in lên cái mặt bàn gỗ kê trước cửa sổ. Bàn đánh xi dày nên cái vết in cứ chú ý một chút là thấy rõ. Giá Đào Ngung hay một người nào vẫn ở trong nhà từ tối mà tì lên đó thì khó thấy vì quần áo họ khô. Nhưng quần áo của hung thủ lại hơi ướt. Anh lại nên nhớ rằng tối hôm qua, trời lâm râm mưa. Tôi lấy làm lạ rằng trong việc án mạng khôn khéo đến thế, mà hung thủ tính việc vẫn chưa được chu đáo.

- Nhưng hung thủ là ai mới được chứ?

- Câu hỏi của anh khó chịu quá, tôi nói đến thế rồi mà anh còn chưa đoán ra ai?

- Lường Duỳn ư?

- Chứ còn ai nữa? Lường Duỳn, người khách lai lanh lẹn, nhã nhặn mà anh với tôi gặp ở nhà thương vừa rồi. Hung thủ đấy.

- Nhưng sao anh bảo hung thủ bị bắt rồi?

- Đó là một cách nói. Nhưng cũng là một sự thực. Lường Duỳn tin ở cái mưu của mình lắm nên không trốn tránh. Thế thì muốn bắt hắn lúc nào nên lúc ấy, chỉ chờ có đủ chứng cớ nữa thôi. Chứng cớ thì tôi đã cho các nhà chuyên trách thấy một vài điều rồi. Thí dụ như bộ quần áo ướt của hắn. Hôm qua trời mưa, hắn khai rằng: ở Hà Nội về bằng ô-tô, mà ô-tô của hắn thì kín như trong phòng ngủ. Vậy thì tại sao quần áo hắn lại ướt như đã ở ngoài mưa ít ra là hai, ba giờ đồng hồ. Tôi chú ý đến điều ấy ngay từ lúc các nhà chuyên trách khám xét tử thi Đào Ngung, nhưng mãi sau mới thấy điều đó là rất quan trọng. Tôi đem ráp các việc xảy ra lại cho có liên lạc và thấy “những tia sáng” cứ vùn vụt hiện ra... Ngay đêm hôm qua tôi đã biết ba phần tư sự thực rồi, và có thể tố cáo ngay Lường Duỳn, nhưng tôi còn một vài điều vẫn chưa cắt nghĩa ra được: là con dao giết người kia sao lại ở trong tay người khách lai và bọn người buôn lậu có dính dáng đến vụ án mạng này không? Tôi nghĩ đến hai điều đó suốt sáng hôm nay, nhưng chỉ thấy những lẽ rất mập mờ chực hiện ra rồi lại biến mất. Bỗng cái tin anh đem ở nhà đoan về làm tôi tỉnh ngộ ra... “Ánh sáng của sự thực”, nói theo giọng văn chương, nảy ra một cách rất rõ ràng, rất chói lọi: Lường Duỳn cũng là một tay buôn lậu, hành động ở trong bóng tối và biết được các đường lối và ngày trở về của bọn buôn súng với thuốc phiện lậu ở bên Tàu. Hồi đi điều tra, tôi có nghe nói đến mấy tay đại phú thương đứng đầu cho bọn này, nhưng không ngờ rằng trong những tay ấy Lường Duỳn đây chính là một tay trọng yếu. Con dao kia Duỳn thiếu gì cách lấy được? Ngày, giờ của bọn đi rừng thì chỉ có người đã giao thiệp với chúng mới biết được: nên Duỳn mới viết thư, hay nói cho đúng, mới cắt lời trong báo, làm một bức thư nặc danh chỉ dẫn cho nhà đoan. Người khách lai tại sao tố cáo họ? Đó chỉ là một lối lợi dụng các trường hợp một cách tinh khôn: Duỳn biết rằng Đào Ngung trước cũng là một tay buôn lậu, nên có ý cho nhà chuyên trách ngờ rằng hắn bị giết là vì bọn buôn lậu trả thù cho mấy người bạn bị Ngung tố cáo. Hắn tính việc này có lẽ lâu lắm, vì có lẽ hắn chú ý giết Đào Ngung đã lâu... Giết vì ghen, vì biết rằng Đào Ngung mà trước hắn tưởng là em vợ mình, nay chỉ là một người tình địch của hẳn. Cái ghen như thế mới ghê gớm, không sôi nổi, không tăm tiếng, khoan thai trầm tĩnh hơn cái ghen của Hoạn Thư. Duỳn muốn triệt một người được vợ mình yêu, nhưng không muốn cho vợ biết chính mình là thủ phạm. Cái giận trong lòng được hả, mà đối với vợ cũng như đối với pháp luật, hắn vẫn là người tử tế như thường. Tôi thú thực rằng phải là một người thông minh, học thức lắm mới có những thủ đoạn như thế”.

Tôi hỏi:

- Bây giờ anh định ra sao?

- Bây giờ ấy à? Về chỗ trọ của tôi thu xếp va-li, rồi đến hiệu ảnh lấy mấy bức ảnh tôi chụp và đưa họ rửa, rồi về Hà Nội với anh.

- Ồ! Về ngay à?

- Việc của mình thế là xong, còn ở làm gì nữa?

- Thế còn Lường Duỳn?

- Hắn bị bắt hay không là tùy theo cuộc điều tra thứ hai của các nhà chuyên trách. Mà theo ý tôi thì cũng chỉ chiều nay hoặc sáng mai là xong. Tôi đã cho họ biết cả sự thực. Còn mình thì chỉ có việc mau về nhà báo cắm đầu mà viết bài tường thuật... và... đợi đến một vụ án ly kỳ hơn.

Chú thích:

[1] Những điều ghi chép qua.