← Quay lại trang sách

II - Những nét chữ Bức thư tình

Hôm đó tôi đẩy cửa bước vào thấy Lê Phong, bạn tôi, đang ngồi trước bàn giấy, một tay cầm cái kính hiển vi lớn đang soi từng nét chữ trên một bức thư màu xanh.

- Lê Phong làm gì đấy?

- Đọc thư của một cô.

- Của một cô?

- Ừ.

Tôi hỏi:

- Mà lại phải đọc bằng kính hiển vi?

Phong gật đầu và lại chăm chú làm cái việc kỳ khôi ấy mãi.

Không, anh ta không có ý đùa nghịch.

Vẻ mặt rất nghiêm trọng, trầm mặc, Phong như đang để hết tinh thần vào cả bức thư. Cái bản năng của con nhà nghề lại thấy rõ rệt phát lộ ra, tuy rằng ít lâu nay anh không có việc gì bí mật phải khám phá hết.

Lê Phong không được dịp làm phóng viên như trước, vẫn lấy làm bực dọc. Anh bèn đi viết tiểu thuyết cho đỡ buồn. Những tiểu thuyết tình thảm hay tình vui, tả những chuyện ân ái đắm đuối hay thơ ngây, anh lấy ở tưởng tượng ra nhiều hơn là ở sự từng trải. Nhưng chính vì thế mà Phong được công chúng, phần lớn về phái phụ nữ, rất hoan nghênh. Anh thường nhận được những bức thư ca tụng hết lời, lắm bức rất tình tứ, rất nhã nhặn, hay rất thiết tha. Nhưng Phong tỏ ra vẻ thản nhiên không chú ý đến.

Thế mà hôm ấy cũng nhận được thư của một cô con gái, anh lại cắm cúi đọc một cách rất khác thường!

Tôi toan hỏi thì anh bỗng ngửng đầu lên nhìn tôi, mặt sáng sủa, mắt lóng lánh như người vừa tìm ra được một điều rất mới lạ. Anh đưa bức thư cho tôi đọc. Đợi tôi đọc xong, bảo tôi đọc lại lần nữa rồi hỏi:

- Thế nào?

Bức thư ấy là của một cô thiếu nữ, chữ viết mềm mại, nhỏ và rạp về một chiều. Lời thư văn hoa, nhưng cũng có vẻ chân thực. Cô ta khen những truyện của Phong viết, khen cái tài giải phẫu tâm lý của nhà văn sĩ, và thú thực rằng văn chương của Phong đã làm cho cô và nhiều bạn gái biết bao lần mơ màng, thổn thức... Vậy nên tuy không được cái hân hạnh quen biết văn sĩ, cô cũng “đánh bạo viết thư này để ngỏ chút cảm tình thành thực và cảm ơn người đã thấu hiểu tâm sự của bạn gái chúng tôi”. Bức thư viết dày hai trang giấy to màu phơn phớt xanh, toàn một giọng như thế cả. Cuối cùng thêm một câu rất kín đáo ý vị, nhưng đủ ngỏ cho Phong biết rằng trong cái cảm tình của cô đối với nhà văn sĩ, không phải chỉ có sự kính phục mà thôi đâu.

Phong hỏi nữa:

- Thế nào?

- Thế nào? (tôi trả lời) Anh chỉ có việc sung sướng thôi, chứ còn thế nào nữa? Trong đời người làm văn mà có những lời êm dịu ấy ca tụng thì còn gì sung sướng hơn? Tôi xem ra thì người thiếu nữ viết bức thư này...

- Yêu tôi lắm, chứ gì?

- Phải.

Phong gật gù hỏi:

- Được, nhưng anh bảo nên xử trí ra sao?

- Tôi thì tôi viết thư trả lời liền.

- Tôi cũng nghĩ the.

Nói rồi, anh vặn bút máy thảo một lúc xong bức thư đưa tôi xem:

“Gửi cho Đào thị Kiều Anh.

Thưa... ông,

Tôi gọi ông là ông, vì tôi biết ông không phải là một người con gái. Những lời ông khen tặng tôi khéo lắm, êm ái lắm, tôi rất lấy làm cảm động, và cảm ơn ông. Nhưng nếu ông đợi tôi mắc lừa, và đợi một bức thư trả lời cho cô Đào thị Kiều Anh thì xin ông cứ việc mà thất vọng. Tôi biết rằng cô Kiều Anh ấy chính là ông, và hơn thế, tôi lại biết rằng ông viết thư cho tôi bằng thứ bút máy ngòi xấu và cong; ông cặp bút vào giữa ngón tay đeo nhẫn và ngón út. Ông viết được nửa trang giấy thì hết mực, nên ngừng lại một lúc, rồi mới tiếp theo và lúc gần viết xong thì trời mưa, một cơn gió thổi vào làm tờ giấy chực bay, ông phải vội lấy tay đè lên - vì ông ngồi viết gần cửa sổ.

Viết xong, ông còn đưa cho các bạn ông xem để cười với nhau. Thế nào các ông chẳng chế giễu tôi và bảo nhau rằng: anh chàng Lê Phong nhận được thư này thế nào chẳng phải ngẩn ngơ? - Hoặc một câu tương tự thế. Các ông muốn nghĩ ra một chuyện tình nhỏ để trêu ghẹo tôi đấy chứ gì?

Tuy vậy, tôi vẫn phải nhắc lại lời cảm ơn ông, và khuyên các ông, khi viết thư tình, nên mua giấy thẩm thực tốt. Không thì cứ dùng cục phấn bảng lăn lên cũng được. Chào ông và các bạn ông.

Một người văn sĩ rất đa tình, nhưng lại đa nghi.

Lê Phong, kính bút”

Lê Phong vân vê điếu thuốc lá, nhìn sự ngạc nhiên trên mặt tôi. Đoạn anh cầm bức thư bỏ vào cái phong bì đè cho “Mademoiselle Đào thị Kiều Anh số nhà 142 phố Hàng Đẫy”.

Tôi hỏi:

- Quái lạ! Anh biết trước việc này ư?

- Biết trước thế nào?

- Biết có người giả con gái viết cho anh?

- Không.

- Thế sao lại gọi cô Kiều Anh là ông, sao biết cô Kiều Anh không phải là con gái? Ngộ anh lầm thì sao?

- Tôi không lầm, vì bức thư này bảo cho tôi biết, lại bảo thêm cho tôi biết cả một vài điều lặt vặt tôi vừa nói ở trong bức thư trả lời. Mà cái đó cũng chẳng thần thánh gì, chỉ cần có tài quan sát như tôi là đủ. Đây này, anh nghe coi: vì một sự vô ý nhỏ của người viết, chữ ngoài phong bì rắn rỏi, ngang tàng hơn chữ trong thư, nhưng xét kỹ ra thì cùng một lối. Mà chữ rắn rỏi ấy là chữ của đàn ông. Vậy người viết thư là đàn ông. Một người đàn ông không được khỏe mạnh lắm, vì cái vết tay mờ mờ xanh ở một vài chỗ là vết của một bàn tay nhỏ thon. Tôi soi kính xem kỹ thì thấy có hai, ba thứ vết tay nữa mờ hơn và khác hẳn nhau - do thế tôi biết rằng, trước khi gửi cho tôi, “cô Kiều Anh” đã đưa cho mấy người khác đọc. Mấy giọt nước nhỏ hoen ở trang thứ nhất chính là mấy giọt nước bọt, họ cười làm bắn vào. Chữ ở trang giấy hơi nhòe, vì giấy thẩm của họ đã cũ quá. Bức thư viết gần cửa sổ là vì tôi thấy những giọt nước van vát tưới vào - mà cũng vì thế, tôi biết lúc ấy trời mưa bên ngoài. Còn như sự ngừng viết nửa chừng để lấy mực vào bút máy thì dễ đoán lắm. Tôi thấy chữ cứ dần dần nhạt, rồi bỗng ở giữa một câu thấy đậm hẳn lên. Nhưng điều làm cho họ chịu phục tôi hơn là cách cầm bút của họ.

“Người viết thư muốn cho chữ viết thành ẻo lả mà không mất tự nhiên, nên cầm bút theo... lối đầm. Nghĩa là cặp quản bút vào giữa ngón út và ngón đeo nhẫn. Mà bởi cố làm cho chữ ngả hẳn về một phía như chữ phần nhiều cô con gái, nên ngòi bút gại vào giấy và thỉnh thoảng làm bắn mấy điểm mực ra chung quanh. Nếu ngòi bút còn mới và không uốn cong thì không đến nỗi thế. Anh đã nghe ra chưa?”

Rồi bạn tôi mỉm cười, niêm phong bức thư trả lời trao cho tôi:

- Chốc nữa ra về, anh làm ơn bỏ thư này vào thùng dây thép hộ. Chiều hôm nay, họ sẽ nhận được, họ sẽ tưởng tôi mắc lừa họ, sẽ gọi các bạn hữu để thưởng thức cái mưu của họ và sẽ kinh ngạc khi đọc thư của tôi.

Anh ta nói thế một cách rất chắc chắn, vẻ tự tin của anh cho tôi biết rằng những điều anh đoán không thể sai được. Anh sung sướng vì đã biết trước mưu mô của một bọn người tinh nghịch và lại dùng chính cái mưu họ để giễu lại họ chơi.

Hứng chí, Lê Phong lại lấy thêm mấy bức thư nữa cho tôi xem, cắt nghĩa cho tôi biết tâm tính từng người, và tỏ ra anh là một tay xem chữ rất sành sỏi:

- Cô này người đa cảm, giàu tưởng tượng... Cô này còn ngây thơ quá... Cô này người yếu ớt, tính tình không được ngay thẳng... Cô này nhã nhặn, muốn tỏ ra mình là người lịch sự nên tháo một tờ giấy trắng trong vở đi học và xén theo khổ giấy viết thư... chữ viết dạng đột, thực thà cũng như tính người.

Mỗi người có một tâm tính riêng, anh cứ theo tự dạng mà cắt nghĩa cho tôi xem một cách rành rẽ.

Cách đó hai hôm, câu chuyện “Kiều Anh giả” chúng tôi đã gần quên, bỗng có một người đến tòa soạn hỏi Lê Phong có việc cần kíp.

Anh đưa tấm danh thiếp cho tôi xem. Dưới hàng chữ in:

ĐÀO ĐĂNG KHƯƠNG

Sinh viên trường thuốc

Còn một dòng chữ viết vội:

- Có việc khẩn cấp, muốn gặp ông Lê Phong. Người lấy tên là Kiều Anh viết thư cho ông mấy hôm trước.

Phong đứng dậy mắt đăm đăm suy nghĩ rồi nói:

- Ồ! Có lẽ là một việc lạ, xuống xem với tôi đi, Văn Bình.

Xuống tới phòng khách, chúng tôi thấy một người thiếu niên dáng người chững chạc ăn mặc lịch sự, đang ngồi tì trán lên lòng bàn tay.

Người ấy giật mình khi nghe tiếng giày bước vào, đứng dậy bối rối một lát rồi hỏi:

- Trong hai ông, ông nào là ông Lê Phong?

Bạn tôi chỉ vào mình:

- Tôi. Nhưng cần gì ông phải nói dối...? Ông có phải là người viết bức thư hôm nọ đâu. Người ấy bé nhỏ hơn ông nhiều.

Người thiếu niên nhìn Lê Phong trần trần, nhưng trấn tĩnh ngay được:

- Ông quả là người đoán giỏi. Vâng, tôi không phải là người viết bức thư ấy, nhưng tôi cần phải nói thế để được giáp mặt ông ngay. Người làm báo thường sợ người ta quấy rầy...

Rồi thong thả ngồi, Đào Đăng Khương nói tiếp:

- Thưa ông Lê Phong, đây là một chuyện riêng có quan hệ đến danh dự chúng tôi và cả đến cái chết đau đớn của một người nữa. Vì câu chuyện bức thư hôm nọ mà tôi tưởng tìm ra được một sự bí mật ghê gớm, và cũng nhân đó, tôi được biết cái tài suy đoán hiếm có của ông. Tôi muốn đem việc đó thưa với ông và nhờ ông xét hộ.

Giọng nói kính cẩn và chân thực, khiến chúng tôi hiểu rằng sẽ được nghe một câu chuyện khác thường. Nhưng đôi mắt buồn và thông minh của người ấy nhìn tôi có vẻ nghi ngại.

Lê Phong nói:

- Ông này là Văn Bình, bạn rất thân của tôi. Ông có thể tin ở sự kín đáo của Văn Bình cũng như của tôi, xin ông cứ cho biết đầu đuôi câu chuyện.

Rồi Lê Phong ngả người trên chiếc ghế bành, lim dim mắt để nghe.

Bài thơ

- Thưa ông, việc đã xảy ra từ mấy năm nay, người chết đã nằm yên dưới mồ, mà người nhà chúng tôi cũng đã quên được nỗi đau đớn. Duy có tôi là vẫn còn để tâm mãi mãi, bao giờ tôi cũng ngờ rằng người thiệt mệnh phải chết vì một cớ rất lạ thường.

“Xin phép ông cho tôi kể câu chuyện rành mạch và theo thứ tự như đã xảy ra, rồi sẽ nói vì sao bức thư gửi cho ông hôm xưa lại có thể có liên lạc - rất mong manh - với việc này được.

“Cách đây ba năm, người em gái lớn của tôi đang học ở trường nữ sư phạm, bỗng một hôm vô cớ xin bỏ trường. Thầy me tôi rất chiều con, và cũng không muốn cho em gái tôi theo đuổi mãi việc cử nghiệp là việc các cụ tin rằng chỉ dành riêng cho bọn con trai, nên bẳng lòng cho em Tuyết Mai tôi xin thôi cũng như đã bằng lòng cho em tôi xin thi vào trường ngày trước.

“Tuyết Mai là người con gái thông minh lắm, lại sớm có khiếu về văn thơ. Hồi ấy tôi là lưu học sinh ở trường Albert Sarraut, một tuần lễ, hai lần về thăm nhà, mà lần nào về cũng chỉ là để nói chuyện với Mai về văn chương, hoặc mỹ thuật. Thấy em thôi học, tôi hỏi, thì Mai bảo tôi rằng: ‘Học mãi trong trường cũng chỉ có thế thôi. Em không muốn đi dạy học như các bạn hữu em thì khoa sư phạm không có ích gì. Ở nhà, đem cái vốn học thức đã góp được bấy lâu mà đọc sách, viết văn, em thấy dễ chịu hơn cả’.

“Cái ý kiến mở khách thính (salon littéraira) ngày nay chúng tôi vẫn để tâm đến, ngay từ độ ấy em Mai tôi đã có rồi. Tôi thường thấy Mai nói đến những cuộc hội họp các bạn gái ở nhà một người chị em. Nhưng được ít lâu, các cô mỗi người một nơi, nên việc đó không có kết quả gì hết. Tôi cần phải nói rõ điều ấy để ông biết cho rằng em tôi là người nhiệt thành vui vẻ và yêu sống, trong gia đình không có điều gì làm cho Tuyết Mai buồn...”

Lê Phong ngắt lời:

- Ông chưa nói cho biết cô Mai năm ấy bao nhiêu tuổi.

- Em tôi năm ấy mười tám, nhưng trông người và xét tâm tính, tư cách thì khôn ngoan sắc sảo hơn tuổi nhiều. Đây là bức chân dung của Mai, chụp sau khi thôi học được ít bữa.

Người thiếu niên đưa ra một tấm ảnh khổ carte postale. Lê Phong cầm lấy xem, khen nước ảnh đẹp, lối chụp khéo và có tinh thần, rồi không có liên lạc chi, anh ta nói:

- Piano với violon, cô Mai ưa thứ đàn nào hơn?

Người thiếu niên và tôi kinh ngạc nhìn Lê Phong, tưởng anh nói đùa, nhưng mặt anh vẫn nguyên vẻ đạo mạo. Anh nhắc lại:

- Tôi muốn hỏi ông người nữ tài tử này hay dùng thứ đàn gì? Vì ít ra, cô Mai phải giỏi âm nhạc.

- Vâng, quả thế. Mai giỏi violon lắm và đang học đánh piano. Tôi biết ông đoán tài, nhưng điều tôi không thể hiểu được là sao ông trông ảnh lại biết?

Lê Phong làm bộ thản nhiên, nhưng xem ý ra trong lòng vui sướng, thong thả trả lời:

- Có lẽ nói ra khí dài dòng. Vì phải ôn lại cho các ông nghe các điều bí nhiệm của khoa “physiognomonie”, mà tôi tạm dịch là khoa xem tướng. Nhưng ông cứ biết rằng đôi mắt say đắm dưới cái trán cao rất đẹp này là đôi mắt của nhà nghệ sĩ. Mà cái tay thanh tú, mềm mại kia chẳng phải chỉ khéo nấu nướng mà thôi. Mà... hình như những hàng chữ viết sau bức hình này, cô viết trong lúc người đang yếu? Ông cho phép tôi đọc nhé.

Phong chăm chú đọc. Anh có vẻ đọc những nét chữ hơn là đọc lời văn. Song anh cũng lấy ngón tay gạch những câu mà anh muốn cho tôi chú ý. Đó là những câu tả cái cảm tưởng của một người trong lòng như buồn rầu, như bối rối: những câu trích ở một đoạn tư tưởng lúc nào cũng bồng bột trong lòng:

“Phải. Khi yêu, thì người ta có thể làm những điều không ngờ đến được... Trời, dẫu khe khắt, cũng dung thứ cho lòng yêu có những phút điên cuồng.

Trời ơi! Sao mà có nhiều điều khó hiểu thế? Tại sao, như chị ấy vẫn nói, tại sao Trời lại bắt chúng ta đau khổ? Nếu chính Trời là Hóa công thật, nếu Trời thật là đấng tạo nên thế gian, thì Trời sao lại tạo cả nên sự ác nghiệt, sự đau thương với điều tội lỗi. Tại sao người ta muốn sống vui, Trời lại bắt ốm, bắt chết.

Gió ở ngoài hiên nghe thảm quá... Lá bay xào xạc như rơi trong lòng tôi... Me ngủ yên đã lâu. Me ơi, chả nhẽ con cứ giấu me mãi. Me là một người đàn bà, và trong lòng cũng nghĩ như con...” (Viết lúc 11 giờ đêm)!

Tôi đưa mắt nhìn Lê Phong, thì thấy anh nhắm mắt, mím miệng lại một lúc, hai ngón tay cầm lấy tấm ảnh một cách đặc biệt như để cố tưởng đến tâm sự người viết những chữ chúng tôi vừa đọc xong.

Lúc mở mắt ra, câu thứ nhất của anh là:

- Trời! Một người đàn bà không tầm thường! Một tâm hồn rất lạ!

Rồi anh nói tiếp:

- Nêu tâm, trí, lương năng, trực giác của tôi vẫn không đánh lừa tôi như trước, thì cô Tuyết Mai đây quả là một người khác thường. Cô yêu, hay ghét, vui mừng, đau khổ, hay lo sợ, đều là ở trên một bực cả... nghĩa là đều không bình dị như mọi người. Trong lòng cô, lúc nào nguồn tư tưởng cũng sôi nổi. Cô ưa hoạt động, nhưng lại hoạt động ở tâm tưởng hơn... Chậc! Mà tôi nói toàn những điều chỉ riêng tôi thấy hay; điều ông muốn biết hơn, mà có lẽ ông cũng đoán biết rồi, là những lời văn trên này là một thứ văn nhật ký của một tâm trạng băn khoăn cần phải giãi tỏ ra. Mà bởi không giãi tỏ được với ai, nên phải viết ra hoặc vào sổ tay, hoặc trong thư, hoặc... lên sau tấm ảnh như đây, để trút những nỗi u ẩn lên mặt giẩy.

“Bây giờ xin ông kể nốt, tôi chắc những việc sắp xảy ra đáng cho ta chú ý hơn”.

Người thiếu niên kể tiếp theo:

- Nỗi u ẩn của Tuyết Mai? Tôi thường tự hỏi em tôi có điều chi giữ kín trong lòng không? Vì thường ngày, Tuyết Mai không tỏ ra thái độ chi khác cả. Em tôi vẫn tiếp các bạn gái và bạn trai nữa; tính Mai rất tự nhiên.

“Năm chừng mười họa, tôi mới bắt chợt được vẻ buồn trên mặt Tuyết Mai. Đó là những lúc em tôi ngồi suy tưởng một mình, hoặc sau khi đọc sách, đọc báo. Nhưng chỉ thoảng qua giây lát. Tôi cho là một sự rất thường.

“Không ngờ một buổi tối kia, sau khi cả nhà vui vẻ nghe Mai dạo đàn ở trong phòng khách, tôi thấy em tôi cứ đi đi lại lại ngoài hiên và có vẻ bối rối lắm. Hỏi, Mai nói là trong người khó chịu, không muốn nói chuyện với tôi như mọi bận và vội vã bước về phòng mình. Sáng hôm sau, trưa lắm, tôi vẫn chưa thấy Mai ra, vào thăm em, thì thấy mặt em sút hẳn đi, hai mắt quầng thâm và có vẻ hốt hoảng. Mai ngồi trên ghế đệm, ở giữa những báo chí đang xem dở. Cái hình chụp tôi đưa các ông xem đây thấy rơi dưới đất, nhặt lên thì thấy có những hàng chữ viết này.

Lê Phong hỏi:

- Ông có nhớ những báo xem dở ở gần cô Mai là tuần báo hay nhật báo không?

- Là nhật báo.

- Trong báo có tin gì quan trọng hay có tin gì đáng cho cô Mai để tâm đến không?

- Theo ý tôi thì không. Báo chỉ thông những tin thường xảy ra hồi bấy giờ, một vài vụ trộm, mấy việc khám xét bắt bớ, nghĩa là không có gì lạ hết. Nếu có thì tôi, là người đã đọc báo ấy, đã chú ý đến ngay.

- Ông có đọc những báo ấy sau khi thấy cử chỉ cô Mai như thế không?

- Không.

- Thế là một điều sơ ý đáng phàn nàn. Nhưng không hề gì. Xin ông kể nốt.

- Từ hôm đó, em tôi mất hẳn tính vui vẻ, ngày nào cũng ở yên trong phòng ngủ và có những lúc hốt hoảng lặng lẽ. Tôi có hỏi cũng không chịu nói ra vì đâu. Thầy thuốc chúng tôi mời đến xem bệnh cho Mai chỉ nói rằng Mai bị bệnh đau tim và đang trong lúc tinh thần rối loạn. Cả nhà tôi hết sức săn sóc, nhưng Mai càng ngày càng yếu, trong có hơn một tuần lễ, người rộc hẳn đi, trông rất đáng thương.

“Tôi hỏi riêng me tôi xem có biết gì về tâm trạng Mai về hồi gần đó chăng, thì me tôi nói rằng không. Tôi vẫn ngờ rằng Mai mới có nhiều việc kín về tình duyên muốn giấu, và tự hứa rằng sẽ tìm cách dò hỏi cho ra. Đó có lẽ không phải là công việc của một người anh, nhưng xin hai ông biết cho rằng, tôi thương em tôi lắm. Mai với tôi không những là người ruột thịt, chúng tôi tương đắc với nhau lắm, mà ở đời tôi chưa thấy có bạn hữu nào thân hơn.

“Trong lúc Mai yếu, tính tình như cũng thay đổi. Em tôi thường có những lúc dằn dỗi vô cớ với me tôi, với tất cả mọi người trong nhà, nhưng lại có những lúc hiền lành dịu dàng và nói những câu rất êm ái, rất cảm động. Tôi bàn với thầy me tôi cho em tôi đi nghỉ mát ít bữa, tuy lúc ấy chưa đến nghỉ hè. Mai nghe nói tỏ ra ý rất vui và bảo tôi: ‘Thế nào anh cũng đi với em. Anh phải đi với em, em mới bằng lòng... Mà không lúc nào anh được bỏ em một mình đó’. Tôi không lưỡng lự, định sẽ xin phép nghỉ học trước để lên Tam Đảo với me tôi và Mai.

“Bỗng nhiên, một hôm Mai nhận được bức thư, một bức thư cũng như mọi bức thư vẫn nhận được hằng ngày; nhưng khi mở ra coi, tôi thấy Mai tái hẳn mặt đi, hai tay run bật lên, ngơ ngác nhìn ra một cách kỳ dị không thể tả được! Tôi lo sợ lại gần hỏi thì Mai lắc đầu nói: ‘Không, em tự nhiên khó ở, anh để yên em nằm nghỉ, anh ra đi!’ Tiếng nói cũng có vẻ rất khác thường, giọng nói run run khiến tôi không thể nào cầm lòng được. Tôi nài xem bức thư gửi đến. Mai cười nhìn tôi một cách rất ảo não và đưa bức thư cho tôi xem.

“Thì ra nó là một bài thơ, thưa ông. Một bài thơ lục bát, như em tôi vẫn nhận được của các bạn gái gửi về, trong đó toàn những câu vẩn vơ buồn, chứ không có gì là khác lạ. Đây, bài thơ tôi vẫn còn giữ xin đưa ông coi”.

Lê Phong, đôi mắt sáng lên một cách phi thường, anh cầm mảnh giấy nhỏ người thiếu niên vừa trao cho mà tay hơi run. Tôi biết anh đã đoán thấy nhiều việc quan trọng.

Bài thơ viết trên một thứ giấy kẻ ô, chữ viết rõ ra chữ người con gái và lơ thơ, quả như người thiếu niên nói, chỉ có những nghĩa vu vơ:

Đọc xong, bạn tôi không nói gì cả, ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi đột nhiên hỏi:

- Ai đưa bức thư này đến?

- Nhà dây thép.

- Người gửi thư ở Hà Nội hay ở tỉnh khác?

- Ở Hà Nội, theo dấu đóng ngoài phong bì.

- Được, lạ lắm. Ông kể nốt câu chuyện đi.

Người thiếu niên thở dài:

- Thưa ông, tôi rất kinh ngạc sau khi đọc những dòng chữ này. Tôi không hiểu tại sao những câu tầm thường ấy lại làm cho em tôi sợ hãi quá đến thế. Tôi không biết duyên cớ để lựa lời khuyên giải em, vả em tôi cũng không muốn nghe tôi khuyên giải chi hết, chỉ lắc đầu đưa tay bảo tôi ra: “Không, em không hề gì hết, anh thu xếp mai đi Tam Đảo với em”. Lời nói có giọng thiết tha, van vỉ. Tôi không đời nào quên được đôi mắt Mai nhìn tôi lúc đó, cái miệng cười gượng với tôi lúc đó và ngay lúc đó, tôi như cảm thấy những điều thảm khốc vô cùng.

“Nửa đêm hôm ấy, tôi đang ngủ bỗng nghe thấy bên phòng Mai có tiếng rền rĩ. Tôi vội vùng dậy, đâm bổ sang vỗ cửa thì cửa khóa kín... Tôi không còn hồn vía nào nữa, cuống cuồng lên gọi cả nhà dậy, phá cửa vào thì Mai đang giãy giụa trên giường. Tôi không kịp hỏi được một lời nào, Mai nẳm trong tay me tôi chỉ nấc lên mấy cái rồi tắt nghỉ”.

Phong hỏi:

- Tự tử?

- Vâng, tự tử. Em tôi tự tử bằng các thứ thuốc rất mạnh trong nhà sẵn có, như teinture d’iode, cường toan, permanganate, trộn lẫn với nhau để uống. Không thể nào cứu được nữa, vì lúc ấy đã quá muộn rồi.

Nghe lời đó Lê Phong ngồi thẳng người lên, hai tay cầm mảnh giấy một cách cẩn trọng không biết ngần nào. Rồi ngẩng lên nhìn chúng tôi, anh nói:

- Bài thơ này giấu kín cả một tấn kịch, chưa biết là bi kịch hay hí kịch, nhưng là một tấn kịch rất lạ lùng... Xin ông để lại đó cho tôi xem, để cả tấm ảnh này đây, vì những chữ sau tấm ảnh này cũng sẽ giúp tôi tìm được đầu “mối dây”. Thí dụ... Tôi biết được rằng, cô Mai không phải là em ruột ông... và... lúc ông nói ông thương cô tức là ông yêu cô đó. Xin ông tha lỗi cho, câu chuyện của ông làm tôi cảm động và có thiện cảm chân thực với ông nhiều lắm. Tôi muốn giúp ông khám phá ra các điều kín nhiệm, vậy ông cũng nên chân thực với tôi.

Rồi không để ý đến sự kính phục của Đào Đăng Khương, Phong mỉm cười để hai tay lên vai người thiếu niên và nói tiếp:

- Xin ông cứ tin ở tôi. Bài thơ lục bát kia đủ làm một quyển sách thần bí để tôi xem đó mà đoán được các việc phi thường.