← Quay lại trang sách

VỀ NHÀ

Về nhà, về nhà, về nhà

Nhà đâu? Chỉ có đường xa mịt mùng…

1.

Tới ngã ba đường ông cụ ngừng lại nhìn chú bé chăn trâu từ đầu tới chân: những sợi tóc vàng thưa, đầu nhỏ, trán hẹp, thân gầy bụng hơi ỏng, nước da sạm bẩn, chân đất, người mặc chiếc áo cánh nâu nhàu nhượi. Chú bé tay cầm một ngọn dong tre phe phẩy liên tiếp quất lên những ngọn cỏ may dưới chân:

– Thưa ông… chăn trâu…

Chú bé giật mình nhìn lên người đứng trước mặt: một cụ già, tóc bạc thưa, đôi mắt sâu, da mặt nhăn nheo, chiếc áo nâu cũ quá rộng với thân hình. Sao lại là ông chăn trâu? Chú bé miệng há hốc, đôi mắt như trợn lên không chớp:

– Dạ… dạ… cháu chào cụ.

Cụ già miệng cười như mếu với đôi môi khô thâm đen:

– Chào cháu, cháu làm ơn chỉ giúp đường ra bến sông.

Chú bé cầm ngọn dong tre chỉ về hướng trước mặt:

– Cụ đi thẳng đây, tới ngã tư quẹo tay phải, đi một đỗi gặp ngã ba, đi thẳng. Tới chỗ gặp một con mương, lần theo bờ mương tinh ý tìm một cột xi măng, tới đó thì lội qua. Chỗ đó xưa kia có một cái cầu nay chỉ còn một chân. Khi người ta lội qua chỗ ấy vì là nơi nông nhất, không biết lội lung tung có khi gặp hố sâu thì chết chìm. Qua mương, lên bờ tiếp tục đi về phía tay phải, đi một quãng gặp một ngôi mả lớn, cụ ngưng lại rẽ theo tay trái, khi ở ngã ba này…

Chú bé ngừng nói nhìn lên gương mặt cụ già: miệng hơi hé mở, mắt ngơ ngác nhìn khoảng không, cả thân hình như bất động. Chú bé nhìn cụ già. Thời gian im lặng kéo dài…

Chú bé nói với vẻ vội vàng:

– Thôi… cụ cứ đi là tới… Cháu chào cụ.

– Không… không… cháu hãy giúp ta…

Vừa nói ông cụ vừa bước tới nắm lấy tay chú bé như sợ chú bé bỏ chạy. Chú bé có vẻ mặt thất vọng với chính mình vì bất lực trong việc chỉ đường:

– Thôi cụ ạ… cứ đi là tới, nghe cháu nói rối quá phải không? Ông nội cháu bảo: đường ở miệng ấy… đường dài mà…

– Nhưng không gặp ai để hỏi?

– Thì cứ đi.

– Nhưng đi mãi không tới nơi… lạc đường.

– Tìm đường, nhìn lên trời định hướng.

Cụ già nhìn chung quanh: một vùng hiu quạnh. Nhìn lên trời: một bầu trời đen vần vũ.

– Trời này làm sao định hướng?

Chú bé ngừng nói, đưa tay chỉ về phía có ngọn núi cao:

– Cụ có thấy ngọn núi cao nhọn hoắt kia không? Ngọn núi nhô lên giữa hai ngọn núi thấp không đều nhau đó. Chính trên đỉnh nhọn đó là nơi mặt trời mọc buổi sớm. Cháu đã nhìn thấy mặt trời ở đó từ khi còn bé tí…

Cụ già đứng nhìn thẳng vào hướng núi:

– Trước mặt là đông, sau là tây, phải là nam, trái là bắc… Vậy bến sông ở hướng nào?

– Sông ở hướng đông. Muốn tìm bến thì trước hết phải thấy sông đã.

– Cứ nhìn hướng núi mà đi… cuối cùng thấy núi.

– Không, tới một ngã ba. Hóa ra cụ định lên núi à? Núi ấy kinh lắm, không ai dám lên đâu…

– Không, lên núi làm gì. Đã nói rồi: tìm bến đò…

– Tìm một nơi để rồi tới một nơi khác. Thôi cháu chào cụ.

– Ấy khoan, khoan đã… Cháu nói: núi ấy kinh lắm là thế nào?

Chú bé ngừng lại, vẻ mặt hoài nghi nhìn thẳng vào mắt cụ già.

– Cháu chỉ nghe nói vậy thôi, cụ hỏi làm gì?

– Vậy tại sao mình không tới đó xem kinh thế nào? Người ta nói gì cũng tin à?

– Người lớn đã nói thì phải tin. Thế cụ không tìm bến đò nữa?

Cụ già cười hắc hắc trong cổ họng ra vẻ ngạo chú bé:

– Thế bây giờ ta nói trong núi có một bà tiên cháu có tin không?

– Cụ đang đi tìm đường, chưa từng lên núi, cụ nói ai mà tin.

– Vậy chúng ta cùng tới đó. Phải chính mình thấy chứ sao lại tin vào người khác, cho dù đó là người lớn. Mà người lớn thì tin được sao. Ta lại tin trẻ con.

Chú bé gúc gúc cái đầu nhìn xuống đất.

– Cháu chẳng hơi sức đâu mà đi với cụ. Còn con trâu phải lo cho nó đầy bụng đã. Thôi chào cụ.

Chú bé bước đi vẻ dứt khoát. Cụ già nhìn theo lẩm bẩm trong miệng:

– Đi thẳng… ngã ba… ngã tư…

Cụ già quay nhìn chú bé dắt con trâu đen đi về phía có gốc cây cổ thụ. Chú bé đi xéo theo với hướng tới núi. Đi một quãng xa tới một ngã tư, ông cụ tần ngần lưỡng lự: một ngã ba, ngã tư, quẹo trái, quẹo phải…

2.

Thưa ông chăn trâu. Thưa cán bộ. Thưa… Sao vậy nhỉ. Đập cái nhà này đi ư? Tại sao? Có phải vì nó thờ những người họ Trần? Những người được thờ ở đây có cả những người từng có công với nước được các vua xưa kia phong tặng từ thời diệt Nguyên Mông. Có cụ từng là nghĩa quân Yên Thế, có cụ từng theo phong trào Đông Du… Phá, phá, bọn nó đều là phong kiến không bao giờ nghĩ tới những người lao động bị bóc lột… Thắp đuốc cho sáng khắp đường. Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay. Lôi cổ bọn chúng ra đây. Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôi…

Không khí ma quái của những đêm nào trong xa thẳm còn hằn ghi trong trí nhớ. Đả đảo. Đả đảo. Những con người trở thành những con rối, những thằng bù nhìn… Những tội danh khủng khiếp: hiếp dâm, bóc lột, hành hạ, cướp của, giết người… Những con người như đã mất hồn để cho ma nhập mà gào lên, thét lên mà căm thù như đầy trong tiếng la, trong con mắt đỏ lên với tức tưởi, như họ sắp biến thành một con hùm, một con lang sắp nhảy lên cắn xé, nhai nuốt những con người đang quỳ trước mặt họ…

Mình đã thoát ra được địa ngục đó như thế nào? Những kẻ thoát ra, sống sót họ có còn một đời sống như một con người? Họ có thoát được thân phận một kẻ tật nguyền sau khi bị tổn thương? Từng cái bát, cái chén được chia ra, kẻ vác chum người vác chỉnh, những viên gạch được cạy lên khỏi sân khuân đi… Những con mắt nhìn nhau gườm gườm. Những tiếng nói được giữ lại trong họng. Cha con, anh em, họ hàng, láng giềng, làng nước như chẳng còn ai đáng tin, những ngờ vực như thuốc độc lan tỏa. Rồi sửa sai. Những kẻ hôm qua hùng hùng hổ hổ bổng sợ sệt như tội phạm…

Mấy hạt gạo, những củ khoai trở thành vô giá. Rau dại không kịp mọc, vườn chuối bị đào cả gốc… Tiếng loa, tiếng kẻng thay cho tiếng mõ cầm canh, tiếng chuông thu không khi chiều xuống. Rồi bom đạn, những hầm trú ẩn. Ai nói: mười phần chết bảy còn ba đến lúc vua ra chết hai còn một. Lại vua? Vua nào? Cái thời buổi… Tôi chẳng thể hiểu được. Những ác mộng giữa ban ngày và trong giấc ngủ chập chờn… Tại sao không chết?

3.

Những ngã ba, ngã tư, quẹo phải… cuối cùng ông cụ đã tới được bờ mương. Nhìn thấy cây cột xi măng nơi giữa dòng nước ông cụ thở ra nhẹ nhõm. Ông cụ đứng nhìn chung quanh: cảnh đồng quê sao mà thanh bình. Bầu trời thấp trên đầu, gió nhẹ. Chợt nghe như có tiếng người gọi phía sau. Ông cụ quay đầu nhìn lại: một thanh niên đang vội vã đi tới. Người thanh niên thở hổn hển khi tới gần. Phải mất mấy phút người thanh niên mới nói thành tiếng trong hơi thở gấp:

– Cụ chỉ giúp cháu đường ra bến sông.

– Bến sông? Tôi cũng đang đi tìm đây.

Ông cụ và người thanh niên sau quãng đường dài đã tới được con đê cao, một bên là nước mênh mông mà ở chỗ nào đó là dòng sông nay nước đã tràn ngập cả những cánh bãi rộng lớn. Đứng trên mặt đê nhìn thấy nước đỏ ngầu với những lớp sóng nhẹ, ở xa thỉnh thoảng nhô lên những ngọn cây.

– Nước thế này còn đi đâu nữa?

Nhìn ông già buồn nản, người thanh niên nhìn mặt nước tới tận chân trời:

– Mặt nước cũng êm, nhưng có thuyền không?

– Anh ở xuôi lên?

– Vâng, cháu lên nhà ông chú, lên tới nơi mới biết ông đã bỏ về dưới. Thời buổi những ly tán. Lạ lùng thật. Ai ngờ…

Người thanh niên bỏ cái túi vải có vẻ nặng và cái túi vải nhựa nhỏ đeo trên vai xuống đất rồi ngồi lên trên lớp cỏ dày ven đê đầy những cỏ may cao tua tủa. Ông già ngồi nơi mép đê thả chân xuống dốc đê thoai thoải:

– Cho hai thằng chân này nó nghỉ một chút, tội quá, chỉ như hai ống sậy mà phải mang trên người cả một khối thịt nặng…

Ông già tụt người xuống sườn đê một chút, nằm xuống mặt cỏ, duỗi thẳng hai chân khi vươn hai tay lên quá đầu thì đụng vào cái bao vải của người thanh nhiên:

– Mang cái gì trong này mà cứng vậy?

– Đá.

– Đá quý?

– Của gia bảo.

– Ồ, thế thì tiền không, đá quý còn hơn vàng nữa.

– Chẳng phải hồng ngọc, mã não gì đâu, nó là hòn đá mài để cháu mài dao mài kéo kiếm ăn thôi.

– Đá mài, vậy cha truyền con nối à?

Người thanh niên cười lớn giọng sảng khoái, tiếng cười như vang động cả một vùng sông nước bao la. Chợt người thanh niên im bặt:

– Thế cụ có nghề gì cha truyền con nối không?

– Đánh giặc.

– Bây giờ cụ sống bằng nghề ấy? Vậy không có giặc thì chết đói à?

– Nói như thế là nói quấy, vì nếu cha truyền con nối thì tôi chỉ có nghề cuốc đất. Cha đi đánh giặc, con đi đánh giặc… cuối cùng là…

– Thì bố cháu cũng đánh giặc, cháu cũng ở trong quân đội ra, lúc về đâu có nghề gì, có hòn đá bạn thấy rủ đi mài dao kiếm sống qua ngày, thật cũng chẳng biết làm gì…

Người thanh nhiên thở ra. Ông cụ tìm một điếu thuốc châm hút:

– Sao cậu bảo của gia bảo?

– Đúng thế… nó dài dòng lắm. Đến lúc cháu cũng phải bỏ nghề thôi, cháu không muốn mình là kẻ giết người.

– Cậu mài dao cho sắc để đi giết người?

Người thanh niên đứng phắt dậy vẻ tức giận:

– Cụ nhìn kỹ xem: mặt này có phải mặt giết người không?

Cụ già ngồi dậy nhìn người thanh niên từ đầu tới chân:

– Người mình có câu: trông mặt mà bắt hình dong. Con lợn có béo thì lòng mới ngon. Trông cậu: mặt mày sáng sủa, ăn nói lễ độ, dáng vẻ hiền lành. Nhưng đó là bề ngoài. Người mình lại có câu: sông sâu còn có kẻ dò. Lòng người ai dễ mà đo cho cùng. Cậu giết người hay không chỉ có cậu biết. Nhưng người ta thấy cậu giết người mà người ta để cho cậu yên à? Mài dao mà can gì tới sát nhân?

4.

Một hôm đang vác ngựa tới gần một ngã tư, cháu nghe tiếng gọi. Cháu quay lại, một bà cụ tay cầm ba con dao nhờ mài: một con dao phay, một con dao bổ cau và một con dao mũi nhọn. Con dao phay chắc lâu không dùng nên rỉ sét, thân dao hơi vênh còn hai con kia chắc đang dùng nên lưỡi sáng nhưng cùn. Với con dao phay cháu đập cho thẳng ra, dùng bào lướt đi một lớp, trước hết mài trên đá nhám cho mỏng lưỡi, thân dao đều đặn rồi cháu mới đưa sang hòn đá mịn. Chỉ mới mài được vài lượt cháu đã thấy thân dao nóng rãy khác thường khiến cháu phải té nước liên tục. Cháu nghĩ: hẳn nó đã được thửa từ một lò rèn nào có nhiều kinh nghiệm với cách rèn luyện cẩn trọng, nhất là khi cháu soi lưỡi dao lên ánh sáng: màu thép có ánh xanh cùng những vệt tía, trông qua người ta đã thấy nó khôn. Cháu mài cho tới lúc thấy lưỡi dao đã đều. Cháu thử lên lưỡi và tự nhủ: dù là một con dao phay nhưng nó có thể cạo râu được. Mài tiếp, chỉ mới đưa mạnh mấy cái con dao bỗng nóng lên một cách khác thường, ở ngay tay cầm mà nóng cháu đã chịu không được, phần lưỡi như đỏ lên. Cháu vội bỏ dao vào trong thùng nước, nước như sôi lên, hơi bốc nghi ngút. Lấy dao ra, lau cho khô, cháu thử một lần nữa xem đã bén đều chưa.

Bà cụ mang tiền ra đứng bên coi cháu thử dao, cháu bảo: con dao này tuyệt tốt, cháu mài xong để một sợi tóc lên thổi nhẹ đủ để sợi tóc bị cắt đôi. Vừa nói cháu vừa đưa ba con dao cho bà cụ. Vừa lúc đó một người đàn ông cởi trần đứng lên cạnh bà cụ giằng lấy con dao phay trong tay bà cụ rồi chạy tót ngay vào một ngôi nhà gần đó. Cháu chưa hết kinh ngạc thì đã nghe tiếng kêu thất thanh: nó giết tôi, trời ơi, nó giết tôi. Tiếng kêu im bặt. Mọi người ùa về phía tiếng kêu. Cháu vội chạy tới: trước cửa ngôi nhà, người đàn ông cởi trần tay cầm con dai máu còn nhỏ giọt, đôi mắt vô hồn nhìn trừng không chớp: đứa nào nữa? Đám người lùi ra xa. Dưới đất, phía trong xác một người đàn bà còn động đậy, máu đang tuôn ra từ cổ…

Từ ngoài, bà cụ già lúc nãy đưa con dao cho cháu mài chạy ập vào: ối giời ơi, ối giời ơi, cứu tôi với… Người đàn ông vẫn đứng im không động đậy. Những người chung quanh nhìn sững, im lặng, vẻ kinh hoàng hiện lên nét mặt. Chen giữa đám đông một bé gái tay cầm que kem vừa mút kem vừa nhìn mọi người… Cháu vội vàng trở lại lấy đồ nghề vác lên vai chạy qua bên kia đường. Cháu nghĩ: có ai biết cháu đã mài con dao phay giết người kia không?

5.

Người thanh niên nằm trở lại xuống sườn đê, ông già nhổ rễ những bông cỏ may bám vào chân quần. Bầu trời đục. Không gian yên ả:

– Sau đó cậu bị bắt à?

– Cháu có làm gì đâu mà bị bắt?

– Mài dao.

– Mài dao chứ đâu phải giết người mà bị bắt?

– Nếu dao cùn sao người ta giết người được?

– Cụ đưa dao cùn đây cháu đâm xem cụ có chết không?

– Ờ hay cái cậu này, bỗng nhiên lại đòi đâm người là thế nào? Thế sao cậu nói cái gì giết người, rồi bỏ nghề?

Người thanh niên im lặng nhìn lên bầu trời, ông già thả những cánh cỏ may bay theo chiều gió:

– Bây giờ cháu còn nhớ như in con dao phay đó với lưỡi dao bén đến rợn người. Sau đó, xe có còi hụ chạy tới. Bấy giờ mọi người mới dám lại gần, cháu cũng tới. Người ta khiêng xác chết lên, cái đầu gần như lìa khỏi cổ. Cháu cũng không biết người đàn ông lúc đó ở đâu. Kinh hoàng với hình ảnh đã nhìn thấy cháu vác đồ nghề đi luôn, từ đó đến nay vẫn chưa dám trở lại chỗ đã xảy ra sự việc. Sao có thể cầm dao cắt cổ người ta? Khiếp quá.

– Sau đó cậu bỏ nghề?

– Chưa, lúc đó chưa. Nhưng những việc về sau khiến cháu nghĩ phải bỏ nghề. Lại nữa còn về hòn đá. Có phải hòn đá đã báo trước những con dao nào trở thành con dao giết người? Bởi vì cháu đã mài bao nhiêu là dao kéo mà đâu phải mỗi lần như thế đều có người chết đâu. Nếu vì cháu mài dao thì số người chết làm sao đếm cho xuể? Cái hòn đá và nửa kia của nó?

– Nửa kia của nó?

– Cháu đang đi tìm.

Người thanh niên đứng lên. Ông già cũng ngồi dậy nhìn mông về phía chân trời:

– Phải đi thôi…

– Đi đâu?

– Thế cậu không đi tìm bến sông đó sao?

Người thanh niên mặt ngơ ngác nhìn quanh rồi nói với ông già vẻ nghiêm trọng:

– Cụ tin có ma quỷ không?

– Tức cậu có tin ma quỷ?

– Cháu hỏi cụ mà?

– Trong đầu tôi chẳng bao giờ có chữ ma quỷ. Tại sao cậu hỏi thế?

– Vì hòn đá cháu mang theo đây. Không lẽ nó là hòn đá ma? Nó báo trước một con dao sẽ giết người.

Ông già cười thành tiếng:

– Thế bao nhiêu chuyện người ta giết nhau bằng súng, bằng bom đều được báo trước sao. Những con dao cậu không mài cũng vẫn giết được người. Xưa kia người ta đã đâm chém nhau, sau này người ta sẽ còn đâm chém nhau…

– Không thể làm cho người ta đừng giết nhau được sao?

– Tôi hỏi cậu: những con dao, cái kéo cậu thấy đó người ta làm ra để giết người sao? Không. Nó có công dụng của nó. Chẳng có dao kéo người ta cũng giết được người. Người ta giết người là từ trong bụng người ta: những thù hận, oán ghét… Cậu nói thực đi: bao nhiêu người đã chết có liên can đến cậu?

– Ờ, cụ nói gì lạ? Sao lại liên can đến cháu?

– Thì chính cậu nói cái việc mài dao của cậu có liên can tới chết người, và cả hòn đá nữa?

6.

Một lần cháu tưởng đã chết bởi con dao mình vừa mài xong. Hôm đó cháu tới một khi nhà tập thể, mới cất tiếng rao được vài lần đã nghe tiếng người gọi, cháu ngừng lại, để đồ nghề xuống hiên nhà và chờ đợi. Không phải một người mà mấy người cầm dao đi tới. Cháu cầm lấy từng con, nói giá, khi chủ nhân đồng ý cháu bắt đầu mài. Hầu hết những con dao ở khu nhà này đều bị lụt lưỡi nên mài mau sắc không cần phải bào, phải đập. Lần đầu cháu gặp một con dao ngoại kiểu dáng rất lạ. Con dao to bản hơi ngắn, sống dày, chuôi ngắn và nặng. Con dao vừa dùng để thái cũng như để chặt và cái sống thì dùng để dần. Không biết nó do nước nào sản xuất. Khi cháu liếc những lần cuối xuống hòn đá gia bảo thì cháu thấy con dao nóng lên.

Cháu nghĩ tới con dao phay hôm trước. Cháu không liếc nữa mà soi lên ánh nắng: cả thân dao như một tấm gương soi, thử lên lưỡi vào ngón tay trỏ cháu có cảm tưởng nếu lấy một lá cỏ dài chạm nhẹ lên lá cỏ đủ đứt ra làm hai. Lúc ấy có mấy người đứng coi mài dao ai cũng trầm trồ về con dao lạ. Một người đàn ông trung niên da trắng, mặt mày tỏ ra là người có học vừa đưa tay ra vừa nói với cháu: làm ơn cho coi thử con dao này chút. Cháu vừa đưa vừa nói: con dao lạ thật chẳng thể lộn với ai được. Người đàn ông nhìn hết bên này lại nhìn bên kia, rồi cầm ngược con dao ngắm nghía cái chuôi một cách kỹ lưỡng rồi hỏi cháu: ai đưa anh mài con dao này vậy. Cháu nhìn quanh tìm người đàn bà lúc nãy, chợt thấy bà ta đang bước xuống những tam cấp, cháu chỉ về phía người đàn bà mặc chiếc áo cánh màu xanh: của bà mặc áo xanh. Người đàn bà bước tới gần vừa đi vừa nói cho cháu nghe: xong chưa? Cháu chỉ con dao đang ở trong tay người đàn ông: xong rồi bà, con dao tốt quá ông đây thấy lạ đang coi. Người đàn bà nhìn người đàn ông vẻ mặt nghiêm lại. Người đàn ông nói: hàng xóm sát vách mà lại đi ăn cắp dao của người ta, mấy ngày kêu mất mà im đi, hôm nay thì lòi ra. Vừa nói người đàn ông vừa bước đi về phía nhà tập thể. Cháu vội chạy theo túm lấy ông ta: cháu mài dao cho người ta đâu phải mài cho ông? Người này quay lại tay phải cầm dao, tay trái túm lấy ngực áo cháu rồi giơ con dao lên cao. Cháu hoảng sợ vội giựt áo… chạy ngược lại. Lúc đó người đàn bà mặc áo xanh xông tới. Người đàn ông dứ dứ con dao vào mặt người đàn bà: đồ ăn cắp, con dao này tao mang từ bên Tiệp về không thể lẫn vào đâu được, cả khu này ai cũng biết con dao này của ai… Người đàn ông nói xong quay người bỏ đi. Người đàn bà đứng im một chút rồi đuổi theo túm lấy người đàn ông và tìm cách giằng lấy con dao, hai người giằng co nhau, người đàn ông vẫn cầm con dao giơ lên cao, hai người giằng co nhau cho tới khi người đàn ông vấp vào đường gờ của mương thoát nước áp sát tường nhà thì ngã nhào. Con dao trên tay rớt ngay xuống mặt người đàn ông. Mọi người xúm lại cố gắng kéo người đàn bà mặc áo xanh ra. Người đàn bà hung hãn vẫn xông tới và nhặt được con dao đầy máu. Có tiếng người kêu: vứt đi, vứt đi không ở tù, vứt đi… Người đàn bà cầm con dao đầy máu huơ lên, tiến tới những người đứng chung quanh với vẻ hung tợn, mọi người vội vàng tháo chạy, người đàn bà đuổi theo ra ngoài con đường lớn, tiếng kêu cứu vang lên…

7.

Người thanh niên nói như bị ma đuổi, có lúc hụt hơi không còn nghe được tiếng nói. Người thanh niên ngừng kể, ông già vẫn há hốc miệng như chờ nghe tiếp. Lúc sau ông già mới nói:

– Chạy tới đâu rồi, anh bị chém à?

– Ai chém?

– Người đàn bà mặc áo xanh.

Người thanh niên vẻ ngao ngán:

– Khiếp quá, cứ thấy ai ở gần là bà ta huơ dao lên dọa, cuối cùng bà ta chạy tuốt ra ngoài đường lớn và xe hơi đâm phải, cháu đã nhìn thấy bà ta nằm trên đường, tay còn nắm con dao…

– Sao nữa?

– Hôm sau cháu trở lại: cả hai đều chết ở nhà thương…

Mây đen kéo kín bầu trời, gió đầy hơi nước phả lên mặt. Phía chân mây như có một bức tường xám dựng lên. Người thanh niên nhìn ông già:

– Cháu hỏi cụ: có phải hòn đá có ma không?

Ông già không nói tiếp tục bước đi bên người thanh niên. Tới ngã ba có cây gạo lớn, những cành không lá như xương khô vươn cao lên bầu trời, dưới gốc có một người ngồi dựa lưng vào thân cây. Hai người đi tới, người đàn ông đang ngồi đứng vội lên:

– Cụ với anh ra bến sông?

– Phải, sao anh biết?

Người đàn ông khoảng trên dưới bốn mươi tuổi hơi mỉm cười. Khuôn mặt khô khan, đôi mày thưa trên đôi mắt sâu trắc ẩn, chiếc bộ áo lính cũ, chiếc ba lô cũ rách khoác trên vai, đầu tóc vàng khô:

– Vì thấy cụ với anh có xách đồ nên đoán thế… Còn xa không cụ?

– Tôi cũng không biết, người ta chỉ đường thì cứ thế mà đi thôi, chưa biết là tới đâu.

– Đi thì phải tới. Cụ không phải người trên này?

– Tôi với anh bạn trẻ đây đều là người dưới xuôi gặp nhau khi đi tìm bến sông, anh cũng tìm bến sông?

– Dạ vâng.

– Thế thì cùng hội cùng thuyền rồi. Anh lên trên này chắc có việc?

– Vâng, cháu đi tìm mẹ một người đồng đội cũ.

– Chà quý hóa…

Vừa trò chuyện ba người cùng bước về phía trước với bầu trời đày hăm dọa. Người thanh niên như chợt nhớ ra điều gì:

– Vậy cụ ở dưới xuôi sao lên trên này làm gì.

Ông già tép miệng:

– Thật chẳng ra thế nào, tự nhiên lại bò lên đây loanh quanh đi tìm đường cho cực cái thân già, biết thế cứ nằm dưới bến xe chờ nước rút rồi về có chết ai…

– Bây giờ cụ trở lên bến xe cũng đâu có sao.

– Đã tốn công còn quay lại làm gì. Tới luôn bác tài…

– Sao cụ lên đây làm gì cho khổ vậy?

– Tìm thằng con.

– Vậy cụ được mấy anh chị?

– Nhiều, nhưng chỉ còn mình thằng út.

– Anh út ở trên này, như vậy là cụ lên chơi với con chứ sao lại bảo đi tìm?

– Đi tìm mà, có khi nó chết rồi cũng có.

– Chết rồi sao còn tìm. Như vậy muốn tìm phải xuống âm phủ kia. Sao cụ không giữ anh ấy ở nhà?

– Giữ, chờ cho cậu có con mà giữ. Đến tuổi nhập ngũ: giữ được à? Đi lao động hợp tác kiếm ăn: giữ được à? Đi kiếm cuộc sống mới: giữ được không? Đi làm ăn: giữ được chắc? Đấy là chưa kể tới những đứa con đi vì lý tưởng của nó hay vì tình yêu nó chọn… Giời ơi, nước chảy xuôi mà… Lại là cái thời mình phải sống này, có chọn được gì đâu. Có lúc tôi nghĩ về con nát cả ruột, có lúc nghĩ: biết thế này thì cắt bỏ cái con cặc vứt cho chó nó ăn.

– Chết, chết, cụ nói cái gì nghe ghê quá.

Người thanh niên giơ hai tay lên như đầu hàng. Người mặc áo lính thì cười hắc hắc, ông cụ cũng cười.

Những bước chân tiến về phía trước như nhanh hơn, vui hơn.

8.

Hai cậu hãy nghe tôi nói đây: tôi có năm thằng con trai, thằng cả đi đánh giặc gãy một chân, mất khả năng sinh con, thằng thứ hai đi lao động hợp tác không chịu về, thằng thứ ba vượt biên, thằng thứ tư sang K. mất tích, … chỉ còn thằng út ở lại với tôi, tôi đã nói với nó nhiều lần: bé cậy cha, già cậy con, hãy thương bố mà sống cuộc sống bình thường có cha có con. Mới đầu nó nghe tôi chọn nghề đi dạy. Khi ra trường nó rất hăm hở… Năm rồi, khi mùa tựu trường đến tôi thấy thằng út vẫn ở nhà. Tôi hỏi: sao vậy? Nó bảo: thời này còn làm thầy bà gì cho nhọc thân tủi phận… Nghèo nhục lắm.

Tôi chẳng biết nói sao. Ít lâu sau nó đi, trước khi nó rời nhà nó ôm lấy vai tôi mà khóc, không nói một lời. Tôi biết nó là thằng có đọc sách, có nghĩ. Vì thế tôi không gì làm cho nó phải nghĩ ngợi, tôi chỉ khuyên nó là phải sống lương thiện và giữ mình. Trong những đứa con, thằng út vốn là đứa tình cảm hơn những thằng anh, khi mẹ nó còn sống nó cũng thương tôi nhiều hơn. Vợ tôi thường bảo: nó là con ông chứ không phải con tôi. Như vậy các cậu đủ biết. Nó thấy tôi vất vả, lo toan thì than: sao số bố khổ thế, con đâu có làm được gì. Nó đi được đâu ba tháng thì về nhà, tôi trông thấy nó mà hoảng: gầy, da vàng ệch, tóc như đã qua hơ lửa. Nó về mang cho tôi mấy gói thuốc, ít mật ong và một gói tiền, nó cười với nét mặt rạng rỡ. Tôi muốn vứt hết những thứ đó đi và bảo nó: bố chỉ cần con ở nhà với bố thôi. Nhưng trông gương mặt rạng rỡ với nụ cười hài lòng của nó tôi chẳng thể tỏ thái độ như tôi muốn. Nó có vẻ mãn nguyện về điều nó làm, hẳn nhiên thằng út của tôi không trọng tiền bạc, nhưng trước một thực tế nó phản ứng lại.

Nó nói với vẻ buồn: bây giờ người ta chỉ lấy tiền làm trọng: bố để cho con kiếm thêm ít nữa rồi về sống với bố. Phá cái nhà lá này đi đào một cái ao thả cá, con sẽ dạy cho những trẻ thất học, bố rủ bạn chơi cờ… Nhưng tiền ở đâu ra? Tôi thấy lo, tôi vốn tin con nên không thể hỏi, nhưng sau chót tôi căn vặn nó, cuối cùng nó nói: nó cùng với đám bạn vào một tỉnh ở trong Nam đi nhặt, thu gom phế liệu, phá mìn, cưa bom… Nó cười cười bảo: quà tặng của chiến tranh, của để dành của những người đã chết để lại. Tôi bảo làm việc khác không được sao? Nó bảo: đi ăn cướp, tham ô ư? Sao lại bỏ việc đi dạy? Nghề ấy tự nó cao quý, nhưng bố có biết rằng người ta hỏi con như thế nào không? Học chữ có kiếm ra gạo không? Chưa đầy bao tử thì học chữ để làm gì? Họ hiểu sai, nhưng thực tế con không thể trả lời được. Ở vùng đói cha mẹ cũng như học sinh có ai ham học đâu. Vậy đi dạy nào có ích gì, nay học mai quên… Tôi không đủ sức thuyết phục con mình. Đâu phải nó vô lý…

Tôi tưởng tượng tới cảnh một hôm nào đó nó tan xác bởi một trái bom, một quả mìn… Tôi bảo nó: không bỏ thì cho bố đi theo con. Nếu có điều gì thì bố con cùng chết. Nghe giọng tôi khô cứng, nó hiểu tôi muốn nói gì với nó. Nó lắng nghe và im lặng. Mấy ngày sau nó rời nhà, nó nói với tôi: con nghe lời bố, con chọn việc khác. Mấy hôm sau tôi vào nơi nó từng ở: nó không có đó, đúng như nó đã nói với tôi. Nhưng bạn nó nói: anh ấy đi đào vàng rồi… Thế là tôi lên thẳng trên này. Lên tới bãi vàng tôi chỉ thấy một khung cảnh hoang tàn, thiên nhiên bị tàn phá. Có người ở gần đó cho tôi hay: bãi vàng đã bị đóng cửa, không biết những người đào vàng đi đâu… Vừa định về nhà thì bão lụt…

9.

Ông già không nói nữa, ông bước đi đầu hơi cúi. Hai người đồng hành với những bước đi đều. Phía trước không xa như có một ngôi nhà nằm sát với mặt đê. Người thanh niên ê a thành tiếng:

– Anh Trương Chi chở đò ngoài sông.

Gác chèo trên mạn anh mới hát giải lòng một câu

Kiếp này đã dở dang nhau thì xin kiếp khác duyên sau lại lành.

Ông cụ quay đầu lại, chân vẫn bước:

– Cậu nói cái gì vậy?

– Cháu đâu có nói gì. Cháu nhớ tới một câu hát từng được nghe mối tình của anh Trương Chi, người thì thật xấu hát thì thực hay… Bố cháu bảo: tại kiếp trước không tu…

– Người mình chịu cực khổ mấy chục năm, không lẽ kiếp trước đều làm việc ác? Không tu? Bố cậu, chú cậu, tôi, những đứa con tôi, có khi cả ông bà cậu, bố mẹ cậu, và chính cậu có ai được sống một cách đường hoàng sung sướng không? Thế là thế nào? Trời có nói gì đâu? Đất có nói gì không? Vậy hỏi ai?

Ngừng một chút, ông già nói tiếp giọng thân mật:

– Ông thân cậu thế nào?

– Ông chết rồi.

– Vậy là bố cậu sướng…

– Chết mà sướng?

– Vì sống khổ quá thì sống làm gì? Đa thọ đa nhục. Mãi sau này tôi mới vỡ lẽ ra về điều này của Khổng Khâu.

– Chết sướng, cụ nói nghe ngược đời. Khi biết mình sắp chết, bố cháu cầm tay cháu, nước mắt lưng tròng: bố đã chẳng làm được gì nhiều cho con. Con hiểu giúp bố… cái thời buổi bố sống… Cháu nói: không phải thế… không phải thế… Lúc đó hình như bố cháu đã không nghe thấy nữa. Có ông bố nào lại không lo cho con, thương yêu con? Lại không muốn nhìn thấy đời sống con mình tốt đẹp. Nhưng nhìn đời sống của cháu hẳn ông không vui. Cháu nhìn cháu cũng thấy mù tịt.

Trời vần vũ, mưa đổ xuống, nhìn về phía trước thấy ngôi nhà nhỏ trên mép đê đã gần ngay trước mặt, không ai bảo ai cùng chạy nhanh về phía trước. Vừa bước vào nền nhà cao, người mặc áo lính vấp phải mô đất ngã chúi xuống, cái ba lô trên vai văng mạnh ra xa làm những đồ đạc ở trong bắn ra tung tóe, một gói bọc tấm vải đỏ cũng bung ra. Ông cụ kêu lên:

– Cái thì thế này?

Dưới mặt đất là những đốt xương người, miếng xương lớn là một nửa hộp sọ.

– Đồng đội của cháu.

Người mặc áo lính ngồi dậy tới lấy cái gói vải đỏ mở rộng ra rồi nhặt những mảnh xương lại. Anh ta làm một cách cẩn thận nhẹ nhàng, đôi mắt dọi khắp chung quanh để không bỏ sót một mảnh xương nào dù nhỏ. Ông cụ và người thanh niên cũng giúp một tay. Ông cụ nói:

– Vậy là thế nào?

Người mặc áo lính sắp xếp những mảnh xương ngay ngắn gọn gàng rồi túm từng góc tấm vải đỏ buộc lại:

– Cháu đưa bạn bè về với mẹ. Nếu ra sớm được bà cụ đã có thể ra đi yên lành. Nhưng bà cụ đã mất…

Người mặc đồ lính sửa lại quần áo, xếp đồ đạc vào trong ba lô. Ngoài trời mưa như đánh trống. Trời mù mịt. Nhìn người trước mặt không xa chỉ thấy lờ mờ. Người thanh niên thở ra. Ông cụ mệt mỏi ngồi ngay xuống đất dựa lưng vào vách. Người mặc đồ lính nói giọng đều đều:

– Lúc anh bạn chết chúng tôi đâu có thể làm gì khác là đào vội cho anh một cái huyệt và tìm cách ghi dấu vì chung quanh tiếng súng vẫn đang nổ và những người bị thương đang cần phải được giúp đỡ ngay…Cuộc chiến rồi cũng kết thúc. Kẻ chết đã xong, người sống mỗi người một ngả. Cháu trở về nhà. Trong đời sống, có những lúc cháu khựng lại, hình ảnh những đồng đội cũ hiện ra, ngày tháng cũ và tiếng bom đạn như còn âm vang… Một hôm có người bạn cũ đứng trước cửa với một bà cụ già. Người bạn giới thiệu với cháu mẹ người bạn đã nằm xuống trong một trận giao tranh. Bà cụ đã đi tìm hài cốt người con duy nhất của mình từ nghĩa trang này tới nghĩa trang khác. Tìm đơn vị cũ, vùng đất đơn vị đã đóng quân, những nơi liên hệ tới những người đã chết, tất cả chẳng tìm ra một chút tin tức gì. Sau cùng bà cụ lần tìm những người bạn từng chiến đấu với con mình, nhưng cụ biết đó: kẻ chết, kẻ mất tích, kẻ đi, người đến, đơn vị thay đổi, có những đơn vị đã hoàn toàn bị xóa. Vậy mà sao bà cụ lại tìm ra được cháu… Cháu chợt nhớ rất rõ về những đồng đội này. Một viên đạn đã găm vào bả vai anh. Bà mẹ lắng nghe tôi kể mọi điều tôi được biết về anh. Khi nhắc tới cái bớt xanh nơi mang tai anh, bà cụ đôi mắt như dại đi. Cháu tự hỏi: có phải lúc đó bà cụ đang nhìn thấy con mình ở trước mặt? Tôi kể cho tới lúc không còn gì để kể, nhưng với bà cụ, thì hình như bà muốn tôi tiếp tục kể, nói về con mình… Tôi hiểu dần ra về lòng một bà mẹ dành cho con mình như thế nào. Tôi bỏ hết công việc cùng bà cụ lên đường tìm kiếm, nhưng tìm mãi tôi vẫn không tìm ra nơi chúng tôi để anh ấy nằm lại. Mặt đất bỗng mênh mông vô tận đối với tôi. Sau bao nhiêu ngày không tìm được bà cụ thấy yếu hẳn đi và đành trở về quê với lời căn dặn tôi. Suốt thời gian ở bên bà cụ tôi không thấy bà cụ khóc, nhưng có những giây phút bà lặng đi với nét mặt vô hồn. Có một câu tôi nghe bà cụ nói nhiều lần: tội nó phải nằm ở nơi xa lạ lạnh lẽo. Tôi tiếp tục công việc tìm kiếm. Tôi vẫn nghĩ: chết là hết, nằm ở đâu cũng được. Tôi đi tìm anh ấy thực ra là vì người sống chứ không phải vì người chết. Tôi đi tìm hài cốt người đồng đội là để cho người mẹ già kia được thanh thản sống những ngày cuối đời sau bao nhiêu hy sinh đau khổ… Thế rồi tôi đã tìm được nơi anh nằm trong vùng đất hoang vu không có bóng người mà nơi đó đã từng có lúc là chiến trận. Có được hài cốt tôi vội vàng lên đường về quê bà cụ. Tới quê thì bà cụ đã lên trên này sống với người con gái. Tôi đi ngay, tới nơi thì bà cụ đã mất mấy năm rồi, ngay từ sau chuyến đi hồi đó. Người con gái kể cho tôi nghe về những ngày tháng cuối đời của mẹ mình: lòng thương xót đứa con trai. Tôi lặng đi. Có điều tôi cảm thấy chỉ có bà cụ là nghĩ tới người đã khuất, nghĩ tới hài cốt đứa con thân yêu của mình. Tôi không nói gì về bộ hài cốt tôi mang theo người. Tôi nghĩ nên đưa hài cốt của anh về một ngôi chùa nào đó vì tôi cũng không muốn gợi lại nơi người em gái đồng đội của mình một nỗi xót thương. Thời gian của cuộc chiến cũng đã xa, chẳng nên khơi gợi bất cứ điều gì, bởi vì quá khứ đâu có làm thành cuộc sống của những người đang sống, hãy để cho những tro tàn bay đi…

Người mặc đồ lính ngừng nói. Ông cụ lấy ra một điếu thuốc châm hút. Đốm lửa như đầu một ngọn nhang đang cháy. Giọng ông cụ như lạc hẳn đi:

– Chỉ có những bà mẹ…

Người thanh niên nói:

– Mẹ cháu mất sớm, cháu chẳng nhớ được gì nhiều… Cháu nhớ bố cháu. Cháu nhớ như in ngày trở về nhà…

10.

Trở về. Từ xa nhìn về làng cũ, mường tượng tới mái nhà thân quen, lối đi, hàng cây, người thân… sao nó rộn rã… Lúc đi đã không dám nghĩ tới ngày về, đâu phải một mình cháu như thế? Bước qua cổng nhà, vượt qua khoảng sân đất hẹp. Từ trong nhà bố chạy ào ra ôm lấy cháu, ông ghì chặt lấy người con trai của mình rồi xoa đầu, nắn vai, cầm tay để thấy nó là con mình: có da, có thịt, có hơi ấm… Bao nhiêu người con đi không trở về? Bao nhiêu đứa con trở về không như xưa: đứa tàn phế, đứa bệnh tật, có đứa là một người khác. Bố cháu bảo: khỏe rồi, bố chỉ trông vào một lúc như thế này để bố kể cho con nghe những gì con chưa biết… đã đến lúc con phải trở về quê nội một chuyến…

Bố cháu đã xung phong đi đánh Tây vào lúc còn rất trẻ, Tây thua phải ký hiệp định. Hòa bình bố cháu nghĩ tới gia đình nên sửa soạn để trở về. Bạn thân cũng là đồng đội cản lại: ở quê không bình thường, phải chờ một thời gian nữa. Ở quê bố cháu lúc đó đang phát động một phong trào gì đó như là kêu nghèo, kể khổ, nhớ thù xưa… Sau đó bố cháu cưới em gái người bạn thân và chọn quê vợ làm quê mình. Bố cháu dấu kín mọi điều cho tới mấy chục năm sau mới nói. Trước khi về quê nội, bố cháu mở ra trước mặt cháu một tờ giấy trắng lớn, tay cầm hai cây bút đen và đỏ. Bố cháu vừa nói vừa vẽ: con đường về làng, ngôi làng nằm ven con đê với những ngõ làng ngang dọc ông đã từng đi, ngôi chùa ông đã từng tới lễ Phật, ngôi đình với những ngày hội ông đã được dự ở trước sân có một cây muỗm lớn mà ông từng cùng đám trẻ dành nhau những trái muỗm rụng mỗi khi có gió lớn, cái ao sen trước cửa đình.

Sau chót ông vẽ ngôi nhà ông đã được sinh ra và lớn lên trước khi bị cuốn vào cuộc sống. Đây là con ngõ nhỏ để vào ngôi nhà ba gian hai chái, nơi gian giữa thờ tổ tiên, gian bên trái thờ thổ công, gian bên phải thờ thầy học ở phía trước có kê bộ tràng kỷ để tiếp khách. Ngôi nhà chính nhìn ra khoảng sân rộng lát gạch, nơi ngày mùa dùng để phơi lúa. Bên phải sân là dãy nhà ngang hẹp lòng nhưng dài gồm chỗ để cối xay lúa, cối giã gạo bên cạnh kê khung cửi… phía ngoài sân là vườn, là chuồng trâu, nhà bếp… bên khoảng vườn rộng là ao thả cá, trên bờ là những cây ổi, cây chanh, cây khế, cây mít. Mọi hình ảnh xa xưa như đang hiện rõ trong trí nhớ bố cháu, những hình ảnh mà trong bao nhiêu năm ông giữ lấy trong đầu…

Bố cháu ghi vào giấy tên ông nội, bà nội, ông chú, ông trưởng họ… Những người gần nhất với bố cháu có thể giúp nhau tìm ra những gì cháu cần biết. Cháu hỏi: sao bố không về? Bố cháu bảo: sợ phải thấy những đổi thay đau lòng mà tuổi già không đủ sức chịu đựng… Cháu đã trở về. Quả là chốn quê đã ghi khắc không sai trong trí nhớ bố cháu. Con đê còn đó nhưng hai bên đã dày kịt những ngôi nhà mái tôn. Đình làng còn đó nhưng không còn là nơi thờ tự, cây muỗm đã bị đốn hạ, lũy tre là nơi chẳng có dấu tích gì rằng nó đã tồn tại. Ngôi nhà mà bố cháu được sinh ra và lớn lên không còn, nền nhà và sân đã được chia ra cho nhiều gia đình sinh sống với những ngôi nhà nhỏ. Hỏi tới ông chú mới hay ông đã bỏ làng đi từ lâu… Tìm tới nhà ông trưởng họ. Cháu gặp một ông già chắc hơn tuổi bố cháu nhiều. Sau khi xưng tên và nói về bố cháu, ông già há hốc miệng ngạc nhiên, hỏi đi hỏi lại mấy lần cháu là con ông giáo? Bố cháu còn sống? Sao người ta bảo bố cháu chết ở Điện Biên rồi? Cháu phải trả lời không biết bao nhiêu câu hỏi. Sau đó ông trưởng họ dẫn đi thăm những người trong họ, những bà con bên nội…

Bao nhiêu người xúm lại để coi mặt mũi một người có máu mủ lưu lạc nay trở về tìm lại họ hàng… Cháu biết gì nói thế. Có một điều bố cháu không biết: ông bà nội cháu đã chết sau cải cách ít lâu, sống ở làng không được vì đã bị quy kết thành phần nên ông chú để lại nhà cửa cho gia đình bên vợ rồi lên tuốt trên này sống. Suốt từ đó cũng không về làng… Ông trưởng họ dẫn cháu về nơi trước kia là nhà cháu. Những người có tuổi ở đây rất ngạc nhiên. Có người nói hồi xưa từng đi thả diều, chăn trâu với bố cháu. Có người nhận đã học vỡ lòng nơi bố cháu… Một người nhận là đồng niên thì bảo: nói bố cháu về quê chơi, ai cũng nhớ và quý ông giáo, đằng nào thì làng này cũng là nơi chôn nhau cắt rốn, còn họ hàng, làng nước từ bao nhiêu đời mà mồ mả tổ tiên…

Bao nhiêu điều được thấy, được nghe như chẳng liên hệ gì tới mình. Tất cả như ở một thế giới khác. Nếu người trở về là bố cháu thì hẳn khác vì đời ông đã từng gắn bó với những con người này, cảnh vật này. Còn cháu, cháu đã sinh ra và lớn lên với những con người khác, trong một khung cảnh khác… Ngủ lại nhà ông trưởng họ một đêm, thực ra cháu đâu được ngủ, cháu phải nói chuyện với rất nhiều người, trong những câu chuyện đó cháu biết về ông nội cháu: một nông dân nghèo với hai bàn tay trắng và sự bền lòng đã có thể thoát khỏi đời sống tá điền, có của nuôi con đi học. Bà nội cháu là con một gia đình có học nhưng quý đời sống cần cù lương thiện của chồng mà một lòng chung sức lập nghiệp nuôi con… và bố cháu ngày xưa, một người còn học nhưng chẳng bao giờ khinh thường cuộc sống vất vả của người nông dân, biết chữ đấy nhưng vẫn sắn quần lội xuống ruộng, đêm khuya cùng cả nhà chờ tát nước, hay xay lúa giã gạo…

Sáng hôm sau cháu rời quê, ông trưởng họ đưa cháu ra tận đầu làng ân cần dặn cháu nhớ ngày giỗ tổ, nói bố cháu phải về. Vừa bước đi được ít bước thì có tiếng người gọi sau lưng. Một người đàn ông chạy tới đưa cho cháu một hòn đá. Chính là hòn đá cháu mang theo đây. Đây là người đàn ông từng nói là đi thả diều, chăn trâu với bố cháu. Ông ta bảo: tôi giữ nó từ hồi đó đến nay và vẫn tin là sẽ được đưa lại tận tay ông nhà, bây giờ đưa cho cậu thì cũng thế. Lúc cải cách, những thứ trong nhà cháu đều bị chia, ngay hòn đá cũng được chia. Nhưng đá thì chỉ có một hòn, người ta đập ra, một nửa đây và một nửa chú cháu giữ. Anh mang về, ông già thấy thì nhớ ngay. Qua cách biểu lộ tình cảm của mọi người cháu thấy ai cũng chân tình, chẳng ai muốn nhắc lại chuyện đau lòng của những năm tháng trước… Suốt đường trở về cháu nghĩ: vậy người ta đã làm thế nào để cho những người dân quê chân chất kia trở thành những kẻ hung hăng, thù hận với nhau?

11.

Ngoài trời mưa nhẹ hạt, những mảng mây đen đã nhường chỗ cho những đám mây trắng vần vũ. Ông già nói:

– Bố cậu sau đó có về quê không?

– Không. Cháu kể lại tất cả những gì đã thấy, đã nghe. Cháu nói: bố về một chuyến đi. Bố cháu bảo: để thong thả… Nhưng bố cháu đâu còn thời gian và cơ hội. Tất cả đã khép lại. Khi thấy nửa hòn đá bố cháu gật gù nhìn chăm chú: hòn đá mà cũng không thoát sao? Cháu kể lại lời người giữ nửa cục đá rồi nói: hòn đá chứ có gì giá trị? Bố cháu lặng đi không nói. Nếu cụ là bố cháu?

Ông cụ giọng buồn nản:

– Có lẽ tôi cũng không về. Chính tôi, tôi cũng không muốn nhắc lại chuyện ngày xưa nữa: những chuyện căm thù không nhớ tên… Nhưng còn cậu?

– Cháu chẳng chọn để sống như cụ hay bố cháu đã sống. Biết thêm những sự thật về gia đình, về tổ tiên mình. Cháu nghĩ: bố cháu đừng nói, cháu không biết gì cả có khi còn tốt hơn cho cháu. Cuộc sống đâu phải là quá khứ. Đâu đã hết, còn chuyện hòn đá nữa, nó đâu chỉ là hòn đá, nó còn cả một lịch sử…

– Cậu nói gì tôi chẳng hiểu…

12.

Để cháu lôi hòn đá ra cho cụ và anh đây coi. Nó đấy. Cụ sờ tay vào cái cạnh thẳng này đi. Cụ thấy nó mấp mô phải không? Đây là dấu vết của lần hòn đá được đập vỡ ra. Nó đã như thế này từ lúc cháu chưa ra đời. Cho nên những gì cháu kể cho cụ và anh đây nghe là những gì cháu được nghe từ bố cháu, có những điều bố cháu được ông nội cháu kể. Cũng tới ba đời kể lại. Nghĩa là câu chuyện được truyền miệng, như thế không có những thêm thắt hay bỏ bớt…

Câu chuyện cũng chẳng hề được ghi trong một cuốn sách nào, hay là trong gia phả của họ tộc. Bố cháu nói từ lúc còn rất nhỏ đã thấy hòn đá, nó tròn như cái thớt, một mặt lồi, một mặt phẳng. Trên mặt lồi có một cái rãnh sâu có thể đút đầu ngón tay trỏ xuống đó. Hòn đá được để trong một cái khay gỗ hình vuông để dưới gậm bàn thờ. Vào những ngày giỗ ông lấy ra lau chùi bụi bậm, đặc biệt mang ra rửa bằng nước mưa kinh niên được dùng làm nước cúng. Ông bảo: hòn đá do các cụ để lại. Nó là hòn đá thiêng, nhờ nó mấy lần dịch bệnh trong nhà không có ai chết, nhờ đó mà mình nhiều đời được sống bình yên, thoát được những tai ương. Theo như lời các cụ truyền lại: đây là hòn đá Đức Thánh Trần đã mài thanh bảo kiếm để chém đầu tên giặc Phạm Nhan. Sử có chép: sau khi đánh bại đại quân của Tàu, có một tên tướng giặc bị bắt, quân ta đem ra chém đầu, nhưng chém đầu này nó mọc đầu khác vì giặc có yêu thuật. Quân lính thấy thế thì hoảng sợ. Đức Thánh Trần mới mài thanh bảo kiếm rồi chém Phạm Nhan. Chỉ một lần, Phạm Nhan không thể mọc đầu. Cụ tổ nhà ta vốn theo hầu đức Thánh Trần đánh giặc có nhiều công trạng nên được giao cho giữ hòn đá mài. Chính hòn đá trong nhà mình là hòn đá đó. Về hòn đá chỉ có một ít người của dòng chính được biết đến, không ai được nói ra ngoài. Những năm chạy loạn ông mang hòn đá đi theo không rời. Đời trước nói sao đời sau nghe vậy coi như vật gia bảo linh thiêng. Khi thấy mình đã yếu, bố cháu bảo dù gì thì con cũng phải tìm cho được ông chú…

Cháu muốn đi tìm ngay người chú vào lúc đó, nhưng bố cháu bệnh nặng chẳng thể đi, ít lâu sau bố cháu mất. Cháu loay hoay với việc kiếm sống. Chẳng có nghề gì, với ít ruộng và một lao động thật khó để giải quyết, lúc ấy có một người trong làng làm nghề mài dao kéo, mỗi ngày từ quê ra thị xã, tối về cũng kiếm đủ ăn, có sẵn hòn đá mài, cháu nghĩ sao mình lại không có thể làm việc này, thế là cháu theo chân người bạn… Mãi tới tận bây giờ cháu mới đi tìm ông chú, mà cũng tại hòn đá. Chắc cụ sẽ nghĩ: sao lại không nghĩ đến lời dặn của bố và ông chú? Cháu cũng không biết nữa. Nhưng lên tới đây, tìm ra nơi ông chú ở thì ông đã đi rồi… rồi cũng không biết có tìm ra không.

– Gặp được ông chú, tìm thấy phần kia của hòn đá mà gắn lại, biết đâu đời cậu sẽ thay đổi?

– Cụ tin thế sao?

– Những câu chuyện như: mẹ Âu Cơ đẻ một trăm trứng, Rồng vàng xuất hiện, rùa thiêng trả kiếm… những cái đó có tin được không. Tôi nghĩ: người kể ra những chuyện đó, lúc kể hẳn là có một mong ước: mình là anh em cùng mẹ đừng giết nhau, kiếm đã trả rồi không còn chiến tranh giết chóc, mọi người được sống trong hòa bình. Cũng như hòn đá thiêng của nhà cậu… có khi những điều nói về nó không thật, nhưng nó được truyền từ đời này sang đời khác là có thật, chính sự truyền lại đó mang một ý nghĩa. Riêng tôi, tôi cũng có những điều để tin… Nhưng, tạnh mưa rồi, mình đi thôi.

Ba người trở ra, mặt đê đầy những nước, trời mù đục, ba người cùng bước không nói một lời.

Bỗng người thanh niên reo lên:

– Chắc bến đò kia rồi.

Cụ già đưa tay lên che tầm mắt:

– Có cái quán phải không? Hy vọng bến đò.

Khi ba người tới gần quán, nơi con đường đất từ ngôi làng mé bên này đê có một toán người đang đi tới, họ lên đê đi về phía ngôi quán lá. Toán người mặc đồng phục nhưng không được chỉnh tề, người đội mũ, người không, người đeo súng trên vai, kẻ cầm súng nơi tay, họ đi cách nhau không đều vẻ nhàn hạ. Tới trước quán nước toán người dừng lại, ba người đi vòng vào phía sau. Một người cao, trắng tiến tới cửa quán lấy tay đập lên tấm phên che trước cửa. Lúc sau một người đàn bà lớn tuổi đẩy tấm phên cho rộng ra rồi bước ra ngoài. Người cao trắng nói vu vơ:

– Mấy người ở đây đâu rồi?

Người đàn bà tay vừa vấn tóc vừa nói:

– Tôi không rõ.

Tiếng cười khô nhạt, người đàn ông tay vỗ đều đều lên tấm phên nói:

– Bà không rõ thì ai rõ? Họ đi đâu?

– Đi đâu, khách qua đường thấy quán thì dừng chân, làm sao tôi biết họ đi đâu.

– Họ ở đây, uống rượu, nói cười rổn rảng…

Người đàn bà đẩy hết tấm phên ra khỏi khung cửa, cầm cái chổi cúi người xuống quét mấy vũng nước đọng. Người đàn ông im lặng đi vào trong quán một lúc rồi trở ra. Người đàn bà vừa quét nước vừa nói:

– Anh coi kỹ cái gậm giường chưa…

Người đàn ông bước trở lại đường cũ đưa tay ra dấu cho cả toán cùng rời đi. Người đàn bà đứng thẳng người nói:

– Có rượu đó mấy anh uống đã rồi hãy đi.

Lên tới giữa đê, một người trong toán giơ cao cây súng bắn một loạt đạn lên trời. Tiếng nổ khô xé rách không gian yên tĩnh. Người thanh niên ngơ ngác. Ông già đứng im như trời trồng. Người mặc áo lính nhìn theo ngơ ngác. Cho đến khi toán người đi khuất ba người vẫn còn đứng trên mặt đê. Tiếng cười của người đàn bà nơi cửa quán như kéo ba người trở lại với thực tại. Cụ già chỉ tay lên trời:

– Họ bắn trời.

Người thanh niên bước về phía cửa quán:

– Bắn trời. Cụ nói gì nghe ghê quá. Bắn được trời thì bao nhiêu người đã bắn rồi. Có khi cháu cũng bắn một phát. Người ta nói bắn như vậy là bắn chỉ thiên, bắn thị uy…

– Mời mấy ông vào xơi nước.

Giọng người đàn bà ngọt ngào dễ nghe. Người mặc đồ lính:

– Nghe bà nói có rượu mà sao lại mời uống nước?

Ông cụ và người thanh niên cùng cười thành tiếng. Người đàn bà nói:

– Dạ, có nước có rượu, uống gì cũng có…

Ba người cùng bước vào quán và ngồi xuống cái ghế dài để trước một cái bàn nhỏ trên có mấy lọ kẹo, thuốc lào, lạc rang… Ông cụ nói:

– Bà cho chúng tôi mấy bát nước thôi, rượu với chè gì… Chúng tôi tưởng đây là bến đò.

– Có thuyền tất có bến thôi. Đưa mắt nhìn xuống sông, nước vẫn lặng lờ và hình như đã dâng cao hơn ngày hôm qua. Cụ già nói:

– Thế ở đây có đò dọc không bà?

– Ở đây không có, phải xuống dưới ngã ba, nhưng trời mưa lớn nước đang cao e cũng khó. Bè chắc có nhiều, họ đưa tre lứa với gỗ theo nước xuống mạn dưới, nước càng cao càng dễ đi. Hôm qua cũng có mấy người ghé đây trên đường tìm bến đò. Buổi chiều họ mua rượu uống trò chuyện tới khuya, rồi chẳng hiểu sao đêm tối như thế mà kéo nhau đi, không biết có người nào lăn xuống sông không? Trời thật ác…

Ông già cúi người lấy một chiếc dép lên:

– Bà có con dao nào sắc cho tôi mượn một chút.

– Cụ cắt gì?

– Một cái quai dép nó đứt.

– Quai dép đứt thì phải khâu lại mới đi được chứ sao lại cắt?

– Dạ không sao, vì nó có tới hai quai, một quai đủ về tới nhà rồi, để nó vướng bực mình…

Người đàn bà lúi húi mãi dưới gậm bàn mới lấy lên được một cái lưỡi lê. Người thanh niên kêu lên thành tiếng:

– Sao bà có cái của này?

– Có ông khách qua đường tặng cho. Cái lưỡi lê này sắc lắm cụ cầm khéo không đứt tay như chơi. Mấy tay cửu vạn từng năn nỉ mua tôi không bán, để nó trên bàn người ta thấy cũng trợn… Nó không bao giờ rỉ, mài sơ là sắc, dùng được cả hai lưỡi, lưỡi dao trông vậy mà rất cứng, chưa bao giờ bị mẻ…

– Thế bà giữ nó làm gì?

– Tôi để nơi đầu giường, đêm hôm khuya khoắt ở nơi vắng vẻ thế này anh tính…

Người thanh niên cầm lấy lưỡi lê giúp ông cụ cắt bỏ cái quai dép đứt. Ông cụ đưa tay thử độ sắc của lưỡi lê rồi nói:

– Bén thật, nặng thế này chắc là bằng thép ròng chứ không phải chơi.

Người thanh niên lật lên lật xuống rồi để lưỡi lê lên mặt bàn, kéo tay ông cụ đứng lên:

– Uống nước rồi mình đi thôi…

Ba người ra khỏi quán đi tiếp về phía bến đò ở dưới ngã ba sông, người thanh niên nói:

– Cụ tưởng tượng xem: với cái lưỡi lê đó mà đâm vào bụng? Cháu đã từng bán một lưỡi lê như thế cho người ta.

– Cái lưỡi lê vừa rồi?

– Không, một lưỡi lê chắc cũng được đúc cùng một khuôn như thế. Người mua của cháu lưỡi lê đó đã chết…

– Sao mua lưỡi lê của cậu mà chết?

– Ông ta dùng lưỡi lê