← Quay lại trang sách

KẺ KHẮC MẶT QUỶ I

Ở Lý Ô có dòng họ Đồng làm nghề chạm khắc nổi tiếng một vùng, nhưng có ai hỏi Đồng Cát Sỹ, người trưởng họ về nguồn gốc của nghề, ông cũng không tường tận. Ông bảo: thoạt kỳ thủy đâu như các cụ tổ nhà chúng tôi làm nghề đẽo cày, cuốc, đóng bàn ghế. Ở nhà thờ họ hiện còn một cái hương án, một cái ngai thờ của một cụ tổ làm ra coi như gia bảo lâu đời nhất…

Nghề này đâu có bí truyền hay sách vở gì, chỉ là cầm tay chỉ việc, cha truyền con nối. Trong các cụ tổ cũng có nhiều người đi học, nhưng chẳng thấy nói đỗ đạt gì, lại nữa trong số còn có cụ đã từng đi ăn cướp vậy mà sau theo nghề cũng trở thành một tay thợ cả tiếng tăm… Cứ như thế hết đời này sang đời khác. Nhưng không phải ai trong dòng họ cũng theo nghề.

Đồng Cát Sỹ sinh được bốn người con trai. Ngay từ nhỏ ông đã cho các con đi học chữ. Ông bảo: làm nghề gì đi nữa thì ít ra cũng phải biết viết tên mình, đọc được cái văn tự. Người con cả là Đồng Hạo Thiên được cha gửi qua học chữ bên nhà họ Danh, một dòng họ có năm đời tiến sĩ, nổi tiếng khoa bảng một vùng. Hạo Thiên thông minh, học đâu nhớ đó, được thầy yêu. Có lần thầy đồ nói với Đồng Cát Sỹ chắc đến đời con ông thì họ Đồng có người làm quan. Năm 18 tuổi Hạo Thiên thi đỗ đầu xứ, hay chữ nức tiếng trong vùng. Nhưng đột nhiên Hạo Thiên khăn gói trở về nhà, bỏ đường khoa hoạn. Ông bố sửng sốt, thầy đồ ngạc nhiên, gặng hỏi lý do, Hạo Thiên thưa: Con chịu ơn thầy đã khai trí cho. Học chữ, hiểu được nghĩa sách để sống cho phải đạo làm người, cái học cốt là ở đó. Đi học đâu phải là để đậu Tú tài, Cử nhân, Tiến sĩ… mà ra làm quan có được nhiều bổng lộc. Bon chen chốn quan trường có lẽ không hợp với người vốn sinh sống ở nơi thôn ổ…Thầy đồ mỉm cười nhìn người môn sinh hiếm có trong đời dạy học của mình. Đi học mà chỉ nghĩ đến đỗ đạt, làm quan để sống sung sướng, thực tủi cho đèn sách, chữ nghĩa. Thầy đồ nói: Thầy mong con sống được như con muốn.

Hạo Thiên trở về sống bên cha già, cởi bỏ áo dài làm bạn với cái cưa cái đục. Thỉnh thoảng có bạn đồng môn tới chơi, Hạo Thiên pha trà ngồi nói chuyện kinh sách một cách hào hứng, có khi cùng nhau xướng họa thơ phú. Có ai nhắc đến chuyện thi cử, con đường khoa hoạn chàng chỉ lặng lẽ mỉm cười. Đồng Cát Sỹ thấy tay nghề của con cả tiến bộ từng ngày, cái vốn chữ nghĩa hình như cũng là cái vốn tay nghề của Hạo Thiên.

Sau một thời gian Hạo Thiên được giao tạc những pho tượng nhỏ, như tượng la hán… Với những tượng này người thợ được tự do nhiều hơn, ít phải tuân thủ những qui định nghiêm ngặt. Qua tay Đồng Hạo Thiên, Di Lặc như mập mạp hơn đôi mắt to hơn, hai tai dài hơn nhưng tươi cười và thanh thoát hiền hòa. Tượng Tuyết Sơn gầy gò xương sát da mà thần thái mạnh mẽ, trầm mặc mà thoát tục. Đồng Cát Sỹ nói với con trai mình: con đã nối được nghiệp cha, chắc chắn con sẽ hơn cha, con làm cho thân gỗ có thần sắc.

Người con thứ hai của Đồng Cát Sỹ ra đời khi gia đình đã đủ ăn, ông đặt tên con là Bái Nhật, người con thứ này chỉ nhìn gương mặt không thôi đã thấy vẻ chân chất, thực thà. Khi được đi học chữ anh ta rất khổ sở, học mãi mà không được bao nhiêu, chỉ mới viết được tên mình đã lấy làm hài lòng. Bái Nhật nói với cha: nhìn vào trang sách là con thấy chóng mặt, học chữ thực cực hơn đi cày. Người cha nhìn con với vẻ khoan dung độ lượng và cho anh thôi học ở nhà lấy nghề nông làm căn bản. Bao nhiêu việc nặng nhọc trong nhà một mình Bái Nhật vui vẻ đảm đương, chẳng ai phải mó tay vào. Mỗi lần thấy Bái Nhật cầm tới cái cưa cái đục thì Cát Sỹ vội lên tiếng bảo anh ta bỏ xuống vì đã có lần anh ta ngứa ngáy tay chân làm hỏng một pho tượng đã gần hoàn chỉnh: con đụng vào cái gì thì chỉ thành củi đun thôi.

Đồng Tuệ Nhân, người con thứ ba của Đồng Cát Sỹ, rất ham học nhưng tối dạ. Ngay từ những ngày đầu anh ta đã nhận ra thế, nhưng anh ta nói với cha một cách cương quyết: người thông minh chỉ học một lần là nhớ, con tối dạ thì học ba bốn lần phải thuộc. Những nỗ lực không ngừng của những ngày đầu kết quả phần nào, nhưng càng học lên anh ta càng nhận ra rằng: giỏi chữ không phải ai cũng có được. Thấy con cố gắng thức khuya dậy sớm đèn sách miệt mài cha nhiệt tình khuyến khích những mong con đạt được ước nguyện. Sau bao cố gắng hao công tốn sức anh ta nhận thấy mình không thể lập thân bằng con đường khoa cử. Tuệ Nhân từ biệt thầy học trở về nói với cha: sức người có hạn phải không cha? Chữ nghĩa không có duyên nợ với con thì đành chịu chứ biết làm sao? Nhiều ngày buồn chán anh ta lấy rượu giải khuây. Một buổi sáng, trong tuần trà sớm mai Tuệ Nhân nói với cha: con nghĩ kỹ rồi, người ta phần lớn đi học là để thi đỗ làm quan, để được vinh hoa phú quý, sống sung sướng, vợ đẹp con khôn. Nhưng bổng lộc triều đình thực ra đâu được bao nhiêu, cứ nhìn đời sống những vị quan thanh liêm thì rõ. Muốn giàu có, nhà cao cửa rộng, quần là áo lụa, châu báu đầy người thì phải đục khoét dân đen. Như thế thì tệ quá. Thánh hiền có chỗ nào dạy vậy đâu.

Phú quý sinh lễ nghĩa, phi thương bất phú, những câu ấy người ta nói nhiều rồi, chắc không sai? Con tính: đi buôn có lẽ hợp với con hơn. Đi buôn kiếm tiền, những đồng tiền của mình kiếm được là do công khó mua tận gốc bán tận ngọn, sòng phẳng, thuận mua vừa bán, không lừa gạt, dối trá, giữ tín nhiệm, như thế đi buôn làm giàu là hơn. Người cha nghe con nói thì yên lòng. Bàn tay còn có ngón dài ngón ngắn, sinh con ra mỗi đứa có con đường của nó biết làm sao được. Cát Sỹ dồn được ít vốn cho con khởi nghiệp. Thức khuya dậy sớm, vén khéo, tiết kiệm, giữ lời hứa, chẳng bao lâu Tuệ Nhân đã dần dần gây được sản nghiệp, việc buôn bán mỗi ngày một thịnh vượng. Thỉnh thoảng Tuệ Nhân cũng có lúc thong thả nhưng tuyệt nhiên không bao giờ đụng vào cái cưa cái đục, có chăng là đứng trước những khúc gỗ, những pho tượng anh thường có lời phẩm bình: Làm sao mà trên thực tế có một vị Di Lặc mập như thế này được. Với những khúc gỗ lớn do các chùa đưa đến để làm tượng, anh ta liên tưởng tới những cánh rừng và từ đó nảy sinh ý định đi buôn gỗ, tre nứa… những thứ bán cho người ta làm nhà cửa. Anh ta nói với cha: chưa chừng con mua được nhiều gỗ quý thì nhiều nơi sẽ làm tượng, nhà ta sẽ có nhiều việc làm, dân gian có nhiều tượng. Sao con không nghe nói có một vị la hán nào xuất thân từ đám thương lái nhỉ? Người cha nhẹ nhàng nói với con: bố có nghe sự tích một tay đồ tể bỏ đao xuống làm việc thiện sau thành Phật. Chắc những người đi buôn kiếm tiền không chịu ngừng kiếm tiền để đi tu nên chưa ai thành Phật cả. Thế khi nào thì con định ngừng đi buôn kiếm tiền? Người con có vẻ ngượng thẹn một cách chân thật. Ông bố cười: ham lợi, có lẽ vì thế không có vị la hán nào xuất thân từ đám con buôn. Người ta còn buôn thần bán thánh kia mà.

Mạnh Tông là con út của nhà họ Đồng, Đồng Cát Sỹ đã lấy tên một giống tre đặt tên cho con mình với một mong ước như thánh hiền đã từng nói về tre: tiết trực, tâm hư. Từ nhỏ Mạnh Tông đã có phong cách một tay tài tử: mắt sáng, môi đỏ, da trắng, những ngón tay búp măng thuôn thả. Bà mẹ bảo: nó mà là con gái thì bố tha hồ uống rượu… Khi người anh cả không đi học nữa trở về nhà thì Mạnh Tông quanh quẩn bên anh, theo anh đọc sách, theo anh học nghề, nghe anh nói chuyện, nghe lỏm những buổi đàm đạo của anh với bạn học. Điều gì không rõ thì hỏi, chỉ nghe, nhìn. Bố bảo Mạnh Tông đi học, chàng lần khân và thưa: xin cho con học anh con trước đã. Đồng Cát Sỹ cũng không ép con. Có thì giờ Mạnh Tông học thổi sáo trúc với một cụ già trong làng, chàng còn mê hát chèo, hát xẩm. Nghe ở đâu trong vùng có phường hát về là chàng rủ đám bạn cùng đi, mỗi lần như thế chàng lại thuộc một vài bài hát mới để ngâm nga khi làm việc.

Với đôi tay khéo léo, con mắt quan sát tinh tường, chẳng bao lâu Mạnh Tông đã là một tay chạm khắc có nghề vững. Chàng đã có thể thực hiện những họa tiết sắc sảo tinh vi trên những nếp áo, chóp mũ… Nhưng khốn nỗi chính tài hoa sắc sảo của mình khiến cho nó lạc lõng khi đi với những chi tiết do người khác thực hiện, Không là một tổng thể, có những pho tượng chân tay mặt mũi đi một đường, trang phục đi một nẻo. Cái chân chất mộc mạc khó đi với cái tinh xảo tài hoa. Đồng Hạo Thiên và cha nhận ra điều đó.

Năm Mạnh Tông 17 tuổi, sư thầy chùa Mai Tụng tới mời Đồng Cát Sỹ lên chùa về việc tạc mấy pho tượng Phật. Vị sư già nói:

– Từ nhiều năm nay thiện nam tín nữ ở vùng tôi đã cùng nhau quyên góp để đúc một pho tượng đồng, phường đúc đã khởi công, nhưng cả ba lần rót đồng vào khuôn mà không thành. Lần đầu: một nửa mặt và một bên vai bị khuyết, lần thứ hai: thiếu hẳn một tay, lần thứ ba: mũi và tai không ra hình dạng… Chúng tôi đã thiết đàn cầu kinh nhưng không linh ứng. Có người bảo: trong cúng dường có của bất chính, có người bảo tại mấy cân vàng quan tri huyện bỏ vào là mồ hôi nước mắt dân lành. Đám phường đúc sợ không làm tiếp, những phường đúc khác nghe nói lại cũng không dám nhận làm… Không lẽ chùa không có Phật. Tôi nhờ ông mang công đức giúp cho. Cái khối đồng mình hãy để đó sau này sẽ đúc chuông. Dân làng nay đã lên rừng đốn được gỗ quý, cho xuôi theo sông cái về. Xin ông tính cho.

Đồng Cát Sỹ nhận lời đưa thợ lên chùa Mai Tụng. Cây gỗ quý lớn ngoài sức tưởng tượng của ông. Sư thầy nói:

– Mang được cây gỗ về tới đây bốn người đã chết vì ngã nước độc. Công đức ấy chùa sẽ ghi ơn. Pho tượng Thích Ca là chính, còn là những tượng la hán và còn lại xẻ ra khắc bộ Thập Điện Diêm Cung. Ông thấy thế nào?

Đồng Cát Sỹ thấy công trình lớn quá có vẻ lo. Sư thầy nói tiếp:

– Cả vùng này chỉ có gia đình cụ là theo nghề của tổ tiên đạt đến cái tinh xảo, cụ hãy hết sức giúp cho nhà chùa. Một tháng không xong thì một năm…

Với cái thước trên tay, Đồng Cát Sỹ tính toán, phân ra từng phần gỗ rồi cho thợ bắt tay vào việc. Mái chùa Mai Tụng từ đó vang lên những âm thanh đều đều của cưa của đục, suốt từ sớm mai tới khi chuông thu không hòa vào không trung bao la.

Đồng Cát Sỹ và người con cả dành hết tâm trí cho pho tượng Thích Ca, Mạnh Tông phụ giúp những việc lặt vặt. Thấy còn những tượng nhỏ khác, Mạnh Tông xin cha cho mình làm một pho tượng La hán. Mạnh Tông nói:

– Có sẵn mẫu, cha cho con thử tay nghề…

Thấy cha ngần ngại, Đồng Hạo Thiên nói vào:

– Con thấy chú út tay nghề đã khá, lại thêm có cha con mình ở đây để mắt thường xuyên cha còn lo gì…

Đồng Cát Sỹ giọng điềm đạm:

– Tay nghề của thằng út thì có chỗ còn hơn cả cha và anh, nhưng nó còn trẻ, lòng chưa tĩnh. Chỉ cần một đường nét nhỏ đủ làm cho thần sắc pho tượng thay đổi. Như con đã thấy: chỉ cần lượn mỏng hơn, hay để dày đã làm thay đổi cái nhìn của một đôi mắt… Được, cha để út làm, nhưng trước hết con hãy tĩnh tâm, con hãy nhớ nằm lòng điều cha đã nói với các con: người ta thờ cái đẹp, cái thiện.

Mạnh Tông hớn hở với công việc mới. Trước hết chàng quan sát pho tượng la hán đã bị hư hỏng nay làm lại, pho tượng là một vị già cởi trần, tay chống một cái gậy, thắt lưng đeo một cái giỏ tre, rõ ràng là một ông già đi bắt cá, người gầy nhưng khỏe mạnh. Mạnh Tông hỏi cha:

– Hành trạng của vị La hán này là như thế nào?

– Ở các chùa luôn luôn có những pho tượng La hán, thường là 18 vị, mỗi người mỗi nghề, và mỗi người một con đường tu tập, hành đạo để cuối cùng thành Phật. Nên chúng ta thấy trong Thập Bát La Hán có vị gầy, quần áo rách rưới như kẻ ăn xin, có người vác cần câu, có người đánh dậm, có người chăn nai… Hành trạng của vị La hán này như thế nào cha không rõ, có lẽ phần lớn người dân quê mình đều thế, các vị sư chắc am tường. Nhưng có một điều chắc chắn là: các vị ấy trước hết là những con người thường sau đó dốc tâm làm điều thiện mà thành Phật. Ai dốc lòng tu đều đi tới đó… Nhưng người hiền dốc lòng tu đâu có nhiều… Bố nhắc lại với con: mặt các pho tượng thờ bao giờ cũng phải tuân thủ một điều căn bản: thượng bi hạ hỷ.

Từ một thân gỗ, Mạnh Tông đã phác xong những nét lớn cho toàn thể pho tượng, tỷ lệ cân xứng từng phần đã hình thành nhưng chỉ tới đó chàng ngừng lại. Pho tượng cũ đã hư hỏng nhiều chỗ, cái giải lưng đã gẫy không biết dài ngắn thế nào, một bên tai đã sứt, một bên mặt mối ăn nham nhở không còn mũi và mắt. Chưa dám trực tiếp hình thành đường nét ngay trên thân gỗ, Mạnh Tông cẩn thận dùng bút giấy phác thảo trước. Tôn trọng giữ nguyên những nét có sẵn, nhưng với óc sáng tạo, Mạnh Tông cũng có chút thêm bớt. Nhìn ngắm phác thảo, Mạnh Tông rất hài lòng. Chẳng đưa cho Đồng Hạo Thiên coi. Người anh cả hết sức ngạc nhiên thấy em mình còn có tài vẽ, đặc biệt là vẻ linh hoạt của nét bút. Hai anh em mang tấm phác thảo trình cha. Đồng Cát Sỹ mới nhìn thoáng thì vui mừng, nhưng sau khi ngắm kỹ ông hơi chau mày:

– Nét mặt, tất cả là nét mặt, sắc sảo quá, tinh ranh quá, người quá… Những điều này không nên có nơi tượng thờ. Thượng bi hạ hỷ, con nhớ lời cha không? Con nhìn những tượng thờ trong chùa xem, ngay cả tượng Ác Lai, rồi tượng ông Thiện. Ác mà không phải ác. Có cái dũng mãnh, nghiêm trang mà vẫn khoan hòa, có cái tươi tắn mà không ham hố, có cái gì không phải vui mà không phải buồn… Thiện nhưng đầy uy dũng.

Nhìn vào những nét phác thảo của mình, Mạnh Tông nhận ra những điều cha nói. Không biết phải mô tả thế nào nhưng chắc chắn không có được cái dáng vẻ của một vị La Hán ngồi nơi bệ thờ chốn thiền môn.

Mấy ngày liên tiếp ngồi trước pho tượng cũ với bút và giấy trên tay chàng vẫn không sao phác họa được một vị La hán phải có. Sự gắng sức không thành khiến chàng bực dọc bụng nóng như lửa đốt, và có những gương mặt được phác thảo bỗng trở thành hung dữ, ác độc khác thường… Mạnh Tông mạnh tay vò hết, xé nhỏ không để cho cha và anh thấy. Nhiều ngày liên tiếp Mạnh Tông không thiết nhìn đến công việc còn dở dang của mình. Chàng rong chơi trong vùng cho khuây khỏa, hy vọng lòng mình được thanh thản, chiều lại ngồi trên bờ đê cao, gió lộng chàng lấy cây sáo trúc ra thổi, âm thanh dìu dặt và vẻ vắng lặng của đồng quê làm cho chàng thấy dễ chịu hơn. Một hôm Đồng Cát Sỹ nói với Mạnh Tông:

– Pho tượng La hán con hãy để đó đã. Mình bắt tay vào bộ tranh khắc Thập Điệm Diêm Cung. Cái này có thể thích hợp với con. Ở đây chỉ có quỷ, kẻ ác, nhân vật nhỏ và cảnh rộng khiến con dễ làm hơn.

Hai bên tả hữu của chùa Mai Tụng cũng giống như nhiều ngôi chùa khác là cảnh Thập Điện Diêm Cung, mỗi bên vách chùa có năm cảnh, mỗi cảnh như một câu chuyện kể về sinh hoạt nơi Diêm Cung. Mô tả cảnh địa ngục không biết do ai và từ đời nào nhưng nói chung những tranh khắc, hoặc tranh vẽ, có nơi là tượng được bài trí thường gần giống nhau, dù cách diễn tả thì mỗi nơi một khác, tùy theo óc tưởng tượng và tài năng thực hiện của người thợ. Thập Điện Diêm Cung là một bộ tranh khắc nổi, đã được tô sơn nhưng lâu ngày mối mọt đã làm hư hỏng gần hết.

Bắt tay vào việc mới nhưng đầu óc Mạnh Tông vẫn không quên đi pho tượng La hán còn dở dang. Chỉ qua vài ngày cảnh đầu tiên của địa ngục đã hiện ra: những tội nhân đang được lùa qua một cây cầu cao, dưới sông là rắn rết, ba ba thuồng luồng. Hai đầu cầu quỷ đầu trâu mặt ngựa, có người đang bị dí dao vào lưng, có người đang rớt xuống sông, có người đang bị rắn quấn, có người bị quỷ thọc giáo vào bụng đổ ruột máu me tuôn chảy… Đồng Hạo Thiên nói với em:

– Nét khắc họa của chú linh hoạt khác thường…

Người cha nói:

– Chắc quỷ thật mặt mày cũng không thể hung ác dữ tợn hơn. Trông mà khiếp quá.

Sư thầy bảo:

– Mắt cháu đã nhìn thấy địa ngục chưa?

Một cụ già chân chất gật gù cái đầu:

– Trông thấy cảnh địa ngục như thế này người ta sợ mà không làm ác… Nhìn xong có khi quên ngay.

Rồi tới cảnh leo cột lửa, người bị xé xác, moi ruột, người bị chó ngao cắp ngang cổ, đám đông chen lấn ăn cháo lú. Mạnh Tông nói với cha:

– Làm sao người ta biết được cảnh địa ngục? Đã có ai từ địa ngục trở về?

Đồng Cát Sỹ cười ngất:

– Địa ngục ư? Nó ở ngay trần gian này. Người ta đã chẳng nói: địa ngục trần gian. Những cảnh mô tả địa ngục kia đã xảy ra trên đời, hoặc do những kẻ ác tâm nghĩ ra, hoặc có người tưởng tượng ra, kể ra, viết ra…

Đồng Cát Sỹ giữ lấy vai người con út:

– Cha thấy con khắc mặt quỷ mỗi lúc một ác hơn, hung dữ hơn…

Đồng Mạnh Tông thừ người ra không biết trả lời sao. Đồng Hạo Thiên sau khi hoàn tất tượng Thích Ca, rồi tượng La hán đã phụ với Mạnh Tông làm bộ tranh khắc. Mạnh Tông nói:

– Chắc Diêm Vương phải khác quỷ, khác những kẻ có tội, anh làm hộ em đi, em không mường tượng được con người ấy như thế nào.

– Mình dựa vào mẫu tranh cũ đó. Mặt phương phi, vẻ nghiêm trang đường bệ, trán rộng, râu dài, quần áo chỉnh tề. Phải thế không. Diêm chúa thì phải khác chứ.

– Anh muốn nói, vua thì phải khác? Nhưng vua của quỷ thì cũng là quỷ chứ khác sao được. Vua của quỷ phải tàn ác hơn chúng quỷ, có thế mới sai khiến được chúng quỷ. Không lẽ lại còn có quỷ hiền, quỷ ác. Người ta thường nói tới những minh quân. Em thấy hiếm lắm. Đã là tay không mà lập nghiệp thì không thể can vào việc giết người, không một ai tự nhiên mà lên làm vua, ngay cả những tên vua ai cũng biết là ác nhưng lúc nào nói thì tên này cũng chỉ nói nhân nghĩa, nhưng làm nhân nghĩa mới là chính chứ, nói nhân nghĩa dễ quá mà. Phải mưu mô quỷ quyệt, phải giết người mới có thể làm vua được. Để giữ ngôi vua người ta phải giết kẻ chống mình, kẻ muốn làm vua thay mình, giết bầy tôi giỏi hơn mình, có khi giết cả cha mẹ anh em để được làm vua, để giữ ngôi vua. Anh đọc sách nhiều không thấy điều đó sao? Cảnh địa ngục chẳng qua cũng chỉ là cảnh trần thế, có điều người ta làm với mục đích khuyến thiện, răn con người không nên làm ác. Đó là cảnh thực chẳng ai tưởng tượng ra được… Răn không nên làm điều ác, nhưng còn khuyến thiện. Cực lạc sao không được nói đến? Không được mô tả? Phải chăng ở trần thế người ta không có kinh nghiệm cực lạc mà chỉ có kinh nghiệm địa ngục?

Mạnh tông hoàn thành mười cảnh địa ngục thì Hạo Thiên cũng đã xong những phần việc khác: mười vị Diêm Chúa. Mạnh Tông nhìn kỹ, so sánh từng ông thì thấy những đường nét khắc của anh khác hẳn mình, nhưng có điều, Diêm Chúa chắc chỉ có một nhưng sao những khác biệt hiện ra nơi mỗi nét mặt, không ông nào giống hẳn ông nào. Mặt nào cũng vuông vức, lông mày thanh nhã, mắt nhìn nghiêm khắc, dáng vẻ oai vệ. Mạnh Tông nói với anh:

– Sao Diêm Vương không giống nhau, không lẽ có tập đoàn Diêm Vương?

– Có một Diêm Vương thôi, nhưng lúc thế này lúc thế khác. Chứ Diêm Vương mà kiểu anh hùng cát cứ người ta chịu gì thấu.

Hạo Thiên cười phá lên khi đứng nhìn cảnh cuối cùng ở địa ngục: người ta đứng chờ ăn cháo lú, ở bên này sông xô đẩy chen lấn nhau, mặt mày đau khổ. Qua bên kia sao mặt mày vui sướng, khoa chân múa tay…

Mạnh Tông nói:

– Sao anh lại cười? Có kẻ thiếu chân thiếu tay?

– Cái cảnh ăn cháo lú này thú quá. Chỉ ăn có một bát cháo mà đã thay đổi thế kia, nếu húp hết cả nồi thì chắc là tuyệt diệu lắm…

– Thì xuống địa ngục lại.

– Sao chú nói thế?

– Vì mắc tội tham lam, không đúng sao?

Hai anh em ôm nhau cười ngất. Bộ tranh làm xong đã được đưa qua cho đám thợ sơn làm tiếp. Những người tới lễ chùa thấy bộ tranh dù đang làm ai cũng lắc đầu lè lưỡi. Cảnh địa ngục đầu rơi máu chảy, mổ bụng phanh thây, voi dày ngựa xé, cưa người rút lưỡi… Nhiều đứa bé ôm chặt lấy người lớn khóc thét vì sợ. Hạo Thiên nói:

– Chú sinh ra là để khắc mặt quỷ.

II.

Công trình làm tượng của cha con họ Đồng coi như đã đi tới chỗ hoàn tất. Đồng Cát Sỹ trau chuốt lại toàn bộ các pho tượng rồi giao cho đám thợ lo sơn son, thếp vàng. Hạo Thiên được cha giao hoàn tất pho tượng la hán mà Mạnh Tông đã làm được một phần. Mạnh Tông không vui nói với anh:

– Thế này thì không biết tới bao giờ em mới có dịp làm một pho tượng thờ.

Hạo Thiên ái ngại nhìn em:

– Thì em cũng đã làm gần như hầu hết bộ Thập Điện Diêm Cung rồi đó thôi.

– Có ai thờ quỷ đâu…

Hạo Thiên an ủi em:

– Rồi cũng tới lúc em làm những tượng khác.

Sư thầy chùa Mai Tụng hết sức vui mừng thấy công việc tạc tượng đã viên mãn. Nhưng trong chùa còn một khúc gỗ nữa chưa dùng đến, sư thầy nói với Đồng Cát Sỹ:

– Còn một khúc gỗ, tôi muốn ông làm cho một pho nữa.

Đồng Cát Sỹ nhìn sư thầy:

– Còn thiếu tượng gì ạ?

Sư thầy ngần ngại một lúc mới nói:

– Các tượng trên chùa đã đủ, còn dư lại khúc gỗ, tôi muốn làm thêm tượng vị để hậu tại chùa, ông thấy có được không?

– Tức người đã dựng lên chùa này?

– Không phải vậy, nhưng công cũng lớn lắm. Không có vị này có khi chùa đã bị phá đi rồi… Vào cái thời đói kém, khói lửa can qua và dịch bệnh cách đây mấy chục năm, nay những người lớn tuổi còn sống chắc không thể quên được. Cướp của giết người diễn ra giữa ban ngày ban mặt. Một đêm nghe tiếng người kêu rên ngoài cửa tam quan, sư thầy của chúng tôi thức dậy ra ngoài thì thấy một thanh niên máu me đầm đìa đang nằm bất tỉnh. Sư thầy sai chúng tôi mang vào chùa cứu chữa. Giữa đêm có toán người mang hung khí xông vào chùa hỏi: có người nào bị thương chạy vào chùa không? Sư thầy ra bảo: không có ai. Toán người tin lời sư thầy mà không lục soát, họ bỏ đi. Sau chúng tôi thắc mắc, sư thầy bảo: kẻ tu hành không nói dối nhưng vì tính mạng một kẻ bị thương nặng mà ta phải nói thế, để rồi sẽ hỏi cho rõ ngọn ngành, kẻ có tội ta không che chở. Mấy ngày sau người thanh niên bình phục dần, thầy của chúng tôi chưa kịp hỏi căn nguyên thì kẻ kia đã thừa đêm tối trốn đi. Chúng tôi nói với thầy: chắc đó là kẻ xấu… Thầy chúng tôi bảo: cứu người là luật của đạo, trừng phạt kẻ có tội là luật của đời. Câu chuyện trôi qua cùng thời gian… Loạn lạc tiếp diễn, triều đình suy tàn thêm… Vùng này xuất hiện một đám giặc lớn, đầu đảng đóng quân trên núi. Mới đầu chúng cướp của người giàu chia cho kẻ nghèo, dân lành nức lòng qui phục… Khi hết kẻ giàu thì ai có gì chúng cướp cái đó, bắt dân phục dịch, bắt dân nộp lương thực cho chúng. Chúng cho quân ngó vào từng củ khoai, buồng chuối, từng con gà con chó. Chúng phá đình, phá miếu và làm nhiều việc tàn ác… Riêng chùa Mai Tụng chúng không đụng đến. Một hôm tên đầu đảng xuất hiện: đó chính là kẻ chùa chúng tôi đã cứu sống năm xưa. Chùa chúng tôi không hề hấn gì đã đành, chúng tôi còn nhận được đủ thứ, mà thực ra là của chúng đi ăn cướp được, trong đó có đồ thờ quý giá, và cả Phật ở những chùa khác, chuông mõ cũng rất nhiều…

Nhưng sự việc cũng không được bao lâu, hình như cái xấu thì không bền. Thời gian sau tên đầu đảng chết, đám bộ hạ tranh nhau quyền, xâu xé nhau làm cho đảng cướp tan dần. Có người nói: tên đầu đảng chết rồi mà còn bị mổ bụng moi ruột. Có một tên tâm phúc, chắc là kẻ có lòng vốn chịu ơn của hắn mang một ít vàng bạc tới cúng cho chùa và xin cho chủ cũ được thờ nơi nhà hậu. Người này còn để lại một bức chân dung vẽ tuyệt khéo, một xấp những thơ văn mà hắn nói là của những danh sỹ đã ca tụng ân nhân của hắn lúc thịnh thời. Sau xấp thơ văn này đâu mất chỉ còn tấm chân dung, có điều sau đó cũng không thấy người này trở lại và cũng không có ai tới thờ cúng gì…

Sư thầy ngừng kể rồi dẫn cha con Đồng Cát Sỹ xuống nhà hậu ở phía sau chùa. Nhà hậu xây đâu lưng lại với chính điện ngó ra một khoảng sân rộng có trồng mấy khóm ngô đồng. Trong nhà ngoài tượng Địa Tạng còn có tượng những vị sư từng trụ trì tại đây đã viên tịch, cạnh đó có bàn thờ riêng trên có tâm chân dung vẽ một mặt người với đôi mắt sâu hoắm. Sư thầy nói:

– Đó là người để hậu mà tôi vừa nói tới.

Nhìn tấm chân dung ai cũng nhận ra nét vẽ sinh động, nhất là cái thần toát ra từ đôi mắt, lại thêm một gương mặt mà người ta ít thấy ở người thường. Đồng Cát Sỹ nhìn bức chân dung rồi lơ đãng nhìn chung quanh, dáng vẻ như không mặn mà với đề nghị của sư thầy:

– Cũng khó vì đây là tượng một người thường, lại chỉ có chân dung nhìn từ một mặt duy nhất…

Ý Đồng Cát Sỹ không muốn nhận làm. Nhưng sư thầy như không hiểu ý đó.

– Mình chỉ cần lấy cái tiền diện thôi, còn những mặt khác mình chế như tượng La hán chẳng hạn. Bức vẽ chân dung là đủ rồi.

Đồng Cát Sỹ nói với hai con:

– Sư thầy đã nhờ thì cha con mình nhận. Cha giao cho hai con đó. Có lẽ mình chỉ làm bán thân thôi.

– Sao lại không làm như những tượng khác?

Đồng Cát Sỹ ngập ngừng không nói. Sư thầy tiếp lời:

– Mình làm như tượng La hán, hoặc như mấy vị sư tổ…

– Thầy muốn thế… nhưng có lẽ nên theo quy cách của tượng thần, hay thành hoàng thì hợp lẽ hơn…

Trong thâm tâm Đồng Cát Sỹ không muốn nhận làm pho tượng vì những điều đã được nghe, một kẻ cướp dù có công với chùa thì vẫn là một kẻ cướp. Nhưng vị nể sư thầy mà Đồng Cát Sỹ không nói ra. Giao công việc cho con xong Đồng Cát Sỹ lên đường trở về quê.

Khúc gỗ còn lại trong chùa được mang ra, Hạo Thiên tính toán rồi khởi đầu công việc. Mạnh Tông nói với anh:

– Sao cha lại nói: làm tượng này như tượng thần hoặc như Thành Hoàng là thế nào? Em thấy làm như mấy vị La hán này hoặc như tượng mấy cao tăng đã viên tịch cũng được chứ sao? Mình không cho ông ta ngồi trên tòa sen, hoặc cưỡi rồng là phải phép rồi…

Hạo Thiên mỉm cười:

– Em còn trẻ, anh cũng còn trẻ chắc bọn mình chưa hiểu hết điều cha muốn nói. Tốt nhất là cha dặn sao thì mình làm vậy. Theo như chỗ anh biết thì mỗi loại tượng có những quy định riêng. Cứ đâu xa như chúng ta thường làm cửa võng thì rõ: đền chùa, đình miếu thì rồng đủ cả râu, vảy, móng, nhưng làm cho tư gia thì chúng ta đâu có làm như thế. Có những quy định bất thành văn mà trong mỗi nghề đều có. La hán không thể như Phật Thích Ca. Tượng vua không thể giống tượng quan. Những quy định không phải chỉ ở áo mũ, hia, hốt mà ngay cả trong tạo hình. Một vị La hán có thể giơ tay cao, cười miệng rộng. Nhưng Phật Tam Thế thì không như vậy được. Không phải chỉ ở nét mặt mà còn cả trong dáng ngồi, cách để tay…

Ở nước ta chỉ có Phật là được làm tượng nhiều. Các đình miếu thờ thần hoàng cũng hiếm khi có tượng mà thường chỉ có bài vị và ngai thờ như một hình thức vọng tưởng, cũng có khi người ta thờ một vật. Ở Kinh Bắc có đền thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dong ở bên hồ Dạ Trạch do ông Chu Mạnh Trinh dựng lên. Sau khi ông Chu Mạnh Trinh qua đời dân ở đó lập bàn thờ ông ngay nơi đền thờ Chử Đồng Tử với Tiên Dong, trên bàn thờ có một cây đàn đáy, vật mà lúc sinh thời ông Chu thường mang bên mình khi vui chơi với đám ả đào. Trong trường hợp này người ta gọi việc thờ ông Chu là thờ thần hộ.

Thần hộ được hưởng theo sự cúng tế của dân cho thần chính. Còn các chùa đều có nhà hậu để thờ những vị sư trụ trì đã viên tịch, và thờ theo những người có công với chùa, hoặc góp công đức cho chùa về sau. Những người lập tự thường không có con cái nối dõi, phải nhờ nhà chùa hương khói sau khi qua đời.

– Kẻ ác, có nhiều tiền của cũng được thờ trong chùa sao?

Hạo Thiên nhìn em:

– Cũng khó để định thế nào là ác, thế nào là thiện. Cửa chùa rộng mở cho mọi người, anh nghĩ thế…

Công việc đang dở dang thì Đồng Cát Sỹ lâm bệnh gọi Hạo Thiên về, việc làm tượng một mình Mạnh Tông đảm đương. Trước khi về Hạo Thiên căn dặn em:

– Nhớ lời cha dặn, sau nữa theo sát tấm chân dung là được.

Mạnh Tông lấy làm thích thú với công việc, hoàn toàn độc lập không bị lệ thuộc vào cha và anh nữa. Mạnh Tông mải miết với những đường chạm bay bướm, những nét khắc tinh xảo. Dần dần pho tượng thành hình. Nhìn đi nhìn lại giữa tấm chân dung và khuôn mặt tượng, Mạnh Tông tự bằng lòng. Lại nữa, nét khắc họa rõ ràng dứt khoát càng làm cho tượng giống và sinh động hơn. Chàng nhủ thầm: một tên đầu đảng chứ đâu phải tay thường. Chàng có lúc quên đi những phép tắc bất thành văn cũng như lời căn dặn của cha.

Giao pho tượng cho đám thợ sơn rồi Mạnh Tông xếp đồ nghề để trở về nhà. Sự thầy vui mừng thấy pho tượng đã xong. Sư thầy nói với Mạnh Tông:

– Anh về thưa với thân sinh giúp nhà chùa: khi nào làm lễ an vị tượng sẽ cho người sang mời.

Các tượng mới do cha con Đồng Cát Sỹ làm đều đã được sơn son thếp vàng và để tại nhà đại bái, chính từ đây sẽ tiến hành lễ an vị nơi thượng điện. Trước khi đám thợ sơn rời chùa, sư thầy xuống coi thợ đánh bóng tượng. Tượng Thích Ca là tượng lớn nhất, tượng tạc Thích Ca ngồi trên tòa sen uy nghi, nhưng từ bi với mắt nhìn đầy trắc ẩn. Tượng La hán mỗi tượng một kiểu nhưng đều toát ra vẻ nhân từ thoát tục ở nụ cười ánh mắt. Riêng bộ tranh chạm khắc Thập Điện Diêm Cung thì quả tình thấy cảnh địa ngục thực kinh hãi…

Nhìn sang pho tượng người để hậu do Mạnh Tông hoàn tất sư thầy phải khâm phục sự tinh xảo hiện rõ từ trên những nếp áo tới những hoa văn trang trí. So sánh mặt tượng chân dung vẽ không khác nhau, có thể nói giống như tạc, hơn thế, còn có vẻ sống động hơn.

Ngắm kỹ, sư thầy thấy như mặt tượng thay đổi, môi như cử động, đôi mắt như trợn lên hung dữ, trên vầng trán rộng đôi sừng mọc lên từ từ… Sư thầy vội nhắm mắt lại rồi lại mở ra: không có gì khác. Lúc sau nhìn lại mặt tượng sư thầy lại thấy như mặt tượng có gì rung động, môi hé ra với đôi răng nanh, mắt long lanh như đổ lửa, tưởng như tượng sắp thét lên và lao tới ôm lấy sư thầy… Sư thầy nói với một đệ tử đi bên:

– Nhìn xem giữa tấm chân dung và tượng có giống nhau không?

– Dạ quá giống, nét chạm khắc còn sinh động bội phần nữa.

Mấy người chung quanh đều tấm tắc khen pho tượng và ca ngợi người thợ khắc có đôi tay tuyệt giỏi và mắt nhìn chính xác. Nhìn lại pho tượng, sư thầy không thấy có gì khác thường, nhưng cứ mỗi lần nhìn lâu, chăm chú thì sư thầy lại thấy khác, nét mặt bỗng nhiên chuyển đổi. Mỗi lần như thế sư thầy lại thấy một khuôn mặt khác lạ hiện ra. Khi thì mặt đen, khi mặt đỏ, khi nhắm mắt, khi mọc sừng hai bên, khi mọc một sừng ở ngay giữa đôi mày, lúc há miệng, có lúc hé môi, có lúc như thấy tiếng cười độc ác, có khi là tiếng gầm rú của ác thú. Mặt tượng đã không còn là mặt một người nhất định. Không lẽ người thợ đã yểm bùa thiêng vào pho tượng? Từ đó Sư thầy không còn dám nhìn mặt pho tượng lâu, sư thầy sai lấy một vuông vải đỏ phủ lên mặt tượng rồi vội vã lên chính điện bắt đầu một khóa lễ ngoài thông lệ.

Tiếng chuông, tiếng mõ vang lên nhưng nghe sao náo động bất an… Các đệ tử ngơ ngác nhìn nhau không hiểu nguyên cớ. Mọi người sợ hãi khi thấy chim đậu trên những ngọn cây bay lên như vỡ tổ, con bay đi, con bay lại đâm vào nhau rơi xuống như mưa với những tiếng kêu thảm não…

Vừa lành, Cát Sỹ được sư thầy chùa Mai Tụng cho người tới rước lên nhân lễ an vị các tượng thì vui vẻ đi ngay. Trong khung cảnh yên tĩnh của nơi cổ tự không bợn chút bụi trần Cát Sỹ thấy lòng êm ả. Nâng chén trà thanh khiết với hương sen thơm nhẹ nhàng Đồng Cát Sỹ nghe sư thầy nói về ngôi cổ tự và những lời ca tụng tay nghề đối với cha con nhà họ Đồng. Sư thầy dẫn Đồng Cát Sỹ lên chùa coi các bệ tượng đã sẵn sàng cho lễ an vị. Sau đó hai người xuống nhà đại bái, nơi để các tượng đã hoàn thành mà từ đó được cung nghinh lên chính điện. Các pho tượng rực rỡ vàng son, đầu mỗi tượng đều phủ một tấm vải đỏ. Theo nghi lễ, sau khi tượng an vị nơi cố định tấm vải đỏ mới được lấy đi.

Đồng Cát Sỹ nhẹ nhàng vén từng tấm vải che từng pho tượng lên coi lại. Khi nhìn vào mặt pho tượng do Mạnh Tông làm thì Cát Sỹ sững người và bỏ ngay tấm vải che lại. Sư thầy nhìn Cát Sỹ:

– Tay nghề con út ông thực không ai bằng, ông thấy pho tượng thế nào, giống như in với tấm chân dung.

Vừa nói vị sư thầy vừa lấy hẳn tấm vải đỏ ra tay, vừa ngắm nghía vừa gật gù:

– Giống, thật giống, ai so sánh cũng thấy vậy, có cái lạ là nhìn lâu vào mặt thì…

Đồng Cát Sỹ nhìn thẳng vào mắt sư thầy:

– Sư thầy thấy sao?

Ngập ngừng một lúc sư thầy mới nói:

– Tôi thấy như tượng biến đổi sắc diện, thay hình đổi dạng… Có lúc như mọc răng nanh, có lúc mọc sừng, có lúc mắt láo liên, có lúc mặt xanh, có lúc mặt vàng…

Đồng Cát Sỹ nhắm mắt lắng nghe tiếng sư thầy đều đều. Lúc sau ông mở mắt nhìn thẳng vào mặt pho tượng. Ông nhắm mắt mở mắt nhiều lần cho tới lúc ông không bình tĩnh được nữa nên chạy ra sân chùa, ông chắp tay vái tứ phương rồi đi về phía nhà bếp. Sư thầy chăm chú nhìn theo. Chợt Đồng Cát Sỹ trở lên vẻ vội vã, tay cầm chiếc rìu, ông ta chẳng nói chẳng rằng tiến tới bên pho tượng, tay cầm rìu, đứng nghiêng một bên đưa tay lên vạt một nhát mạnh vào mặt tượng. Mặt tượng gần như phẳng và hơi lõm vào. Đồng Cát Sỹ với tiếng nói rõ ràng từng tiếng:

– Ai thờ cái ác, cái hung dữ, cái xấu?

Sư thầy kinh hãi không thốt thành lời. Đồng Cát Sỹ vứt bỏ rìu, bước đi mạnh mẽ dứt khoát ra khỏi cửa tam quan của chùa Mai Tụng. Sư thầy nhìn chung quanh không thấy ai vội vàng phủ tấm vải đỏ lên đầu pho tượng rồi tất tả đi về trai phòng.

Chiều hôm ấy khi chuông thu không thả từng tiếng vào không trung, sư thầy không lên chánh điện với khóa lễ thường lệ, đệ tử xuống trai phòng tìm thì hoảng hốt thấy sư thầy nằm sấp vắt người nơi bậc cửa ra vào, chân ở ngoài hiên, đầu giấu trong bóng tối, thân xác đã cứng lạnh.

Trong lễ cung nghinh an vị tượng Phật được tiến hành bình thường nhưng giản dị theo như ngày giờ đã định trước. Riêng khi đặt pho tượng người để hậu ở nhà thờ phía sau chùa, vị sư chủ lễ khi cầm tấm vải đỏ phủ trên mặt mới nhấc lên nửa chừng thì ngừng lại: sao tượng mất mặt? Vị sư phân vân giấy phút rồi thả tay phủ lại tấm vải đỏ lên đầu tượng như lúc trước…

III.

Từ khi ở chùa Mai Tụng trở về, Đồng Cát Sỹ lòng không vui mỗi khi nhớ tới pho tượng người để hậu nơi chùa. Không lẽ bàn tay của Mạnh Tông có thể làm cho một pho tượng biến ảo? Không lẽ vì việc mình không phải: Sao lại làm tượng kẻ không xứng đáng? Một kẻ xấu thì không thể được làm tượng cho người ta thờ?

Mấy cây gỗ của chùa Trúc Lâm mang lại từ lâu để làm mấy pho tượng Phật vẫn chưa đụng đến. Hạo Thiên, Mạnh Tông đã mấy lần nhắc đến nhưng Đồng Cát Sỹ vẫn chưa muốn bắt tay vào. Mạnh Tông nói với cha:

– Làm mãi hoành phi với câu đối… chán quá. Kỳ này cha để cho con được tạc một pho tượng Phật.

Đồng Cát Sỹ không nói gì. Quả thực là ông phân vân, có nên nói về pho tượng người để hậu ở chùa Mai Tụng không? Có phải chính vì ám ảnh bởi pho tượng do Mạnh Tông tạc tượng Phật không?

Vừa lúc đó sư thầy chùa Trúc Lâm tới nói phải ngưng việc tạc tượng. Đồng Cát Sỹ liên tưởng tới ngay pho tượng người để hậu:

– Thưa sư thầy sao vậy? Thầy không tin nơi nhà chúng con nữa?

Sư thầy xua tay, nụ cười dịu dàng:

– Không phải, không phải vậy. Triều đình mới có lệnh cấm đúc chuông, tạc tượng, xây chùa… Vua quan không thờ Phật thì hẳn là không muốn dân thờ…

Mấy cây gỗ được mang đi, khi từ biệt sư thầy nói với Đồng Cát Sỹ:

– Tôi lo mang mấy cây gỗ quý này về chùa bảo quản, đến một lúc nào đó, ông hãy tin tôi… tôi sẽ mời ông lên hẳn trên đó lo việc này. Tôi mong ông bảo trọng sức khỏe. Mấy ngàn năm rồi người ta vẫn thờ Phật. Phật đâu phải chỉ là tượng gỗ. Phật đâu chỉ ở chùa?

Thấy không còn cơ hội tạc tượng Phật với đôi bàn tay của mình, Mạnh Tông đi ra đi vào thơ thẩn. Phần Đồng Hạo Thiên mỗi lúc một ham đọc sách, làm thơ, đi ngao du cùng đồng bạn ít để mắt tới công việc chạm khắc. Riêng với Mạnh Tông vẫn hy vọng tới một ngày nào đó, theo như lời cha nói: người tài bao giờ cũng có lúc được dùng. Vì thế Mạnh Tông vẫn kiên trì rèn luyện tay nghề. Khúc gỗ, tấm ván sau khi qua tay Mạnh Tông đã trở thành những tác phẩm tuyệt mỹ. Với những mẫu mã có sẵn: long, ly, quy, phụng, mai, lan, cúc, trúc… Cá vượt vũ môn. Tất cả những ước lệ đó dần dà làm cho Mạnh Tông cảm thấy chán. Chàng dành nhiều thì giờ dạy cho đám con cháu trong nhà là chính, chàng muốn chúng vào nghề một cách căn bản. Bao nhiêu thì giờ còn lại Mạnh Tông dành cho cây sáo trúc, tiếng sáo của chàng mỗi lúc một mượt mà, mỗi lúc một thanh thoát ngọt ngào hơn. Và thỉnh thoảng chàng cất tiếng hát…

Các chàng trai, các cô gái và đám mục đồng mỗi lần thấy chàng ngồi đâu là xúm lại… Có đêm thanh vắng chợt văng vẳng tiếng trống chèo từ xa, Mạnh Tông thao thức. Có phải tiếng trống đang réo gọi chàng? Có phải tiếng trống đánh thức một phần con người Mạnh Tông vẫn giấu kín trong mình, một con người bí ẩn vẫn lẫn khuất trong một thân xác hiện hữu?

Thấy Mạnh Tông như mỗi lúc một hướng ngoại hơn, tiếng sáo, tiếng đàn, tiếng hát như cuốn lấy Mạnh Tông. Hạo Thiên nói với em:

– Người xưa bảo: ở trong sách có mỹ nhân. Không đọc sách đời người mất đi một nửa.

Những câu hỏi vẫn đến với Mạnh Tông: tại sao anh Hạo Thiên không nghĩ tới việc ra làm quan? Tại sao anh lại không có vẻ gì mặn mà với lời giới thiệu của thầy học mà làm rể nhà quan phủ ở Thượng Ngàn? Sao không thấy anh bén mảng tới những nơi vui chơi giải trí. Mạnh Tông nghe lời anh mà chăm đọc sách hơn, gặp chỗ nào không hiểu thì hỏi, nhờ sáng dạ nên Mạnh Tông học rất mau giỏi. Chẳng bao lâu Hạo Thiên thấy em mình đã làu thông kinh sử. Mạnh Tông chỉ đọc mà không học viết. Hạo Thiên bảo em:

– Chả cần học viết, đọc người xưa là đủ.

Đọc nhiều, nhớ nhiều, thơ văn xướng họa trong sách chỉ lướt qua đã thuộc, mấy ngàn câu trong Kinh Thi chàng đọc như nước chảy. Đôi khi Mạnh Tông cũng ứng khẩu làm một vài bài, nhưng sau đó thường quên ngay, hoặc chỉ nhớ một đôi câu khi có ai hỏi đến. Bạn của Hạo Thiên ai cũng lấy làm lạ, có người để sẵn bút giấy khi Mạnh Tông đọc thơ thì ghi ngay lại. Nhưng chỉ sau đó ít ngày nếu có ai đọc cho nghe, có khi Mạnh Tông hỏi: thơ của ai thế? Trong vô số những thơ mà bạn Hạo Thiên ghi lại của Mạnh Tông, nhiều người nói tới bài Xuân Tửu:

Nhấp chưa nguôi chén càn khôn tửu

Nhan sắc trần gian nhắm sạch rồi

Đưa mắt trông trời nhìn địa ngục

Thần tiên, yêu quái bỗng xôn xao 1

Nhiều người khuyên Mạnh Tông học viết chữ nhưng một mực chàng không nghe. Mạnh Tông nói:

– Anh tôi bảo: tay chú sinh ra để chạm khắc, không phải để cầm bút. Không vượt lên được cái tầm thường mà cầm tới bút có khi phạm tội ác còn hơn cả quân giết người.

Ngày tháng trôi qua, có một mùa đông khắc nghiệt để sau đó là một mùa xuân dài, tươi vui, mùa lễ hội bắt đầu. Mạnh Tông lại nôn nao vì những tiếng trống chèo từ xa vọng về. Phường chèo Nam Hạ về diễn ở một làng bên kia sông Xưa, ngay từ đêm đầu tiên đã có mặt Mạnh Tông. Vẫn là những Lưu Bình Dương Lễ với tình bằng hữu có một không hai. Vẫn là Thị Kính nhẫn nhịn với lòng hiếu sinh. Vẫn là Xúy Vân giả dại giữa đời đen bạc. Vẫn là tiếng hát xẩm của Thị Phương trên đường lưu lạc… Ban đêm hòa mình với những vui buồn nơi chiều chèo, ngày lại Mạnh Tông nghêu ngao hết làn chèo này sang làn chèo khác. Một hôm Mạnh Tông đánh bạo nói với bố:

– Con đi hát chèo được không bố?

Một khoảnh khắc im lặng khác thường, Đồng Cát Sỹ nhìn người con út có hai bàn tay khéo léo. Hát chèo? Sao lại thế?

– Người ta ghét những người theo nghề hát chèo lắm phải không bố? Người ta nói: xướng ca vô loài, con những người hát chèo còn không được đi thi chứ nói gì tới làm quan. Còn cha?

Đồng Cát Sỹ phân vân chưa biết trả lời con làm sao. Ông nhớ tới pho tượng ở chùa Mai Tụng, cái mặt tượng mà ông đã dùng rìu vạt đi. Giọng Đồng Cát Sỹ từ tốn:

– Con thực thích hát chèo sao? Nếu con thích cha cho phép chọn… Nghề chạm khắc nhà mình…

Đồng Mạnh Tông cắt ngang lời cha:

– Bố ơi, hát chèo đâu có cần đến tay. Anh con bảo: tay con sinh ra là để chạm khắc.

Đồng Cát Sỹ cười ngất:

– Nghĩa là con vừa dùng tay chạm khắc, miệng thì hát chèo, thế còn đôi chân thì dùng làm gì?

Mạnh Tông cũng cười theo:

– Ý con muốn nói, tới một lúc nào đó, chẳng hạn như khi hơi không còn để hát nữa.

Đồng Cát Sỹ để cho con chọn nghề theo ý muốn, lại nữa, ông cũng đợi ngày tháng sẽ tới, những trải nghiệm trong cuộc sống sẽ ảnh hưởng tới đôi tay tài hoa của con mình. Một con người sinh ra đâu phải bỗng nhiên đã có thể hoàn hảo, mỗi kẻ đều phải qua những nhọc nhằn mới trở thành người.

Thế rồi Mạnh Tông bạo dạn tới tìm ông trùm của phường chèo Nam Hạ. Sau khi nghe Mạnh Tông nói, ông trùm nhìn chàng từ đầu tới chân rồi gật gù:

– Anh thích nghề hát chèo à?

– Dạ mê hát chèo…

– Mê chưa đủ, dòng họ nhà anh từ xưa tới nay đã có ai là kép chèo, hoặc đào chèo không?

– Sao lại thế?

– Mấy thứ này là phải có dòng, có máu, có gia phả… Nhưng thế này: anh có biết hát không?

– Dạ có biết hát…

– Ai dạy anh hát?

– Chỉ nghe hát nhiều mà biết.

Ông trùm vẫn nhìn Mạnh Tông không rời mắt. Có một cô gái người nhỏ nhắn trong phường chèo tới ngồi bên. Ông trùm quay sang nói với cô gái:

– Tay này muốn bái tổ theo nghề, trông tướng tá cũng được đấy chứ, có chịu nhận làm đệ tử không?

Cô gái không nói đưa mắt nhìn chàng trai lạ, ông trùm quay sang nói với Mạnh Tông:

– Anh nói biết hát, vậy hát thử nghe.

– Nhưng hát bài nào?

– Anh hát bất cứ bài nào anh biết.

Mạnh Tông nhớ ngay tới giáo đầu của vở Quan Âm Thị Kính mà chàng đã thuộc như cháo, chàng hắng giọng rồi cất tiếng.

– Ai ơi giữ lấy đạo hiền

Giồng cây lấy đức, xây nền lấy nhân

Đôi chữ Di Đà

Gái trai khỏe mạnh, trẻ già bình an

Lòng thành thắp một nén nhang

Mô Phật, từ đường siêu khổ hải

Ngũ phúc chiếu thuyền lâm

Mở Phật kinh thấy tích Quan Âm

Nhà họ Mãng…

Ông trùm vỗ tay rồi ra dấu cho Mạnh Tông ngưng lại:

– Giáo đầu mà như vậy thì chiến lắm, từ hát vỉa, sang hát cách, tới nói chúc, nghề quá đi chứ, giọng lại ngọt nữa… Bài khác xem nào:

Mạnh Tông hắng giọng:

– Nam Mô A Di Đà Phật, Phật, Phật, Phật, Phật…

Nam mô bát bộ kim cương

Gãy bốn chân giường chết ổ chó con

Nam Mô Bồ Tát Bồ Hòn

Bao nhiêu vãi trẻ có con kỳ này…

Mạnh Tông vừa xuống giọng ông trùm đã cười lớn, cô gái ngồi bên cũng cười ngặt nghẽo, mấy người đứng chung quanh vừa cười vừa vỗ tay tán thưởng khiến Mạnh Tông phấn khởi hẳn lên.

– Anh còn định làm hề nữa à, anh vào vai Thị Kính thử xem, giọng anh giả gái có khi trong và thanh hơn cả các cô không chừng.

Mạnh Tông bước đi mấy bước nhớ tới cảnh Mãng ông gọi con gái ra và Thị Kính cất lời:

– Vẳng nghe thấy tiếng cha đòi

Nào gương soi, lược giắt, trâm cài bước ra…

Công cha mẹ càn khôn cao hậu

Chữ lan thù phú tái chi ân

Sinh con ta dưỡng dục sinh thành

Phải lo giả cù lao chi đức…

Con có hiếu đẹp lòng cha mẹ

Trình lạy cho con được ra hầu…

Mạnh Tông ngừng lại, mọi người vỗ tay không ngớt. Ông trùm nói với cô gái ngồi bên:

– Tiểu Kính Tâm này tuyệt đấy chứ, sao Thị Mầu không hát cho chàng nghe đi… chàng như khế rụng sân đình, em như gái chửa đi rình của chua…

Cô gái đấm thùm thụp vào lưng ông trùm. Mạnh Tông đoán chừng đó là đào Soan thường đóng vai Thị Mầu trong tích Quan Âm, nhưng ở ngoài thấy cô khác hẳn với vai trên chiếu chèo. Mạnh Tông hát hết bài này sang bài khác, từ vỉa nồi niêu tới sa lệch chênh, từ điệu xuân sang điệu nam, từ ngâm thơ tới nói sử… làn điệu nào chàng cũng tường. Khi nhập vai nữ giọng ngọt ngào cao thanh, khi riễu cợt khê nồng trần tục, qua giọng nam thì mạnh mẽ, khúc triết khỏe mạnh, giọng ca lúc nào cũng đầy.

Mạnh Tông nhập phường chèo chẳng mấy ngày đã quen thuộc thân thiết với mọi người nhờ tính vui vẻ và dễ chan hòa, lời ăn tiếng nói lại dễ nghe, khi nào cũng tao nhã duyên dáng ý nhị. Trong phường chèo trên hết là ông trùm Phúc, sau đến kép Trụ, đào Hòe, đào Soan… tất cả không được mười người. Mỗi người mỗi việc, mỗi người mỗi vai. Đào Soan là người chàng gặp ngay từ buổi đầu, người nhỏ nhắn, không đẹp một cách khoa trương, mà ngược lại có duyên thầm với vẻ kín đáo khác hẳn với đào Hòe. Tiếng hát của Soan trong ngọt mà Mạnh Tông đã được nghe nhiều lần mỗi khi coi phường Nam Hạ diễn trong vùng trước đây. Đào Soan không được coi là đào chính của phường, nhưng mỗi lần cô sắm vai Thị Mầu thì ai cũng phải công nhận là đào lẳng có một không hai. Đặc biệt nhất phải kể vai Thị Phương trong tích Trương Viên, đào Soan như nhập hẳn vào vai người vợ hiền dâu thảo dắt mẹ chồng vượt qua cảnh loạn ly, quỷ dữ, làm người hát xẩm, tiếng hát đưa nàng đến gặp chồng vẫn thủy chung một dạ để đôi ngọc lưu ly nhập vào mắt nàng mang lại ánh sáng và hạnh phúc… Vai diễn chân thật, tiếng hát có lúc uất nghẹn hờn oán, rồi chan hòa âu ca đã làm bao nhiêu người đàn bà chất phác nơi thôn dã phải nhỏ lệ thương thầm. Hôm đầu trùm Phúc bảo đào Soan nhận dạy Mạnh Tông, nàng lắc đầu quầy quậy, dù vậy nàng vẫn cùng kép Trụ, đào Hòe và những người khác giúp Mạnh Tông quen dần với từng vai diễn. Trong một buổi diễn thử, cũng là tập cho Mạnh Tông. Khi cầm tay chỉ cho chàng cách diễn múa, đào Hòe giữ chặt lấy, đưa tay lên nhìn rồi nói với mọi người: tay đẹp hơn tay con gái trời ạ… Đào Hòe cứ giữ chặt lấy tay Mạnh Tông khiến chàng luống cuống, ngượng nghịu mãi mới rụt được tay về trong khi mặt thì đỏ lên. Đào Hòe còn trêu thêm: kìa coi có lạ không, má đỏ như cô gái mười tám…

Trong phường chèo kép Trụ ăn ở với đào Hòe như vợ chồng, nhưng hỏi ra thì chưa phải vợ chồng. Có người nói với chàng: vợ chồng phường chèo mà, tuồng làm sao thì đời làm vậy. Có ai chỉ sắm một vai thôi đâu: khi Quan Âm, lúc Thị Hến, khi Thị Mầu… Hành trang của phường chèo chỉ vỏn vẹn có mấy đôi bồ đan bằng tre trong đó những áo mũ cân đai, chuông mõ, tràng hạt… Mỗi lần từ làng này sang làng khác kẻ gánh người gồng chẳng mấy khó khăn. Phường chèo sống với nhau như một gia đình, có tôn ty trật tự riêng của nó, nhưng cũng đầy những xô bồ bát nháo bề bộn như một đám người thất cơ lỡ vận sống nơi đầu đình góc chợ.

Một tối không diễn, ngồi chơi nơi thềm ngôi đình làng, trùm Phúc nói cho Mạnh Tông nghe về nghề chèo của mình: Xưa kia phường chèo chỉ đi hát vào mùa nông thôn vào hội khi ấy là mùa xuân, nông dân không còn việc đồng áng, những người có nghề hát chèo tụ tập lại với nhau đi lưu diễn, vì thế mới gọi là phường, đến khi vụ lúa mới bắt đầu thì họ lại trở về làng ra ruộng với cái cuốc con trâu chờ tới mùa xuân năm sau. Nghề này thường là cha truyền con nối, chẳng có trường nào, lò nào dạy, mỗi phường thường là một gia đình, một dòng họ, nếu không thì cũng là người trong làng, trong tổng. Người nào giỏi, có khả năng đứng đầu điều khiển thì làm trùm, sống lâu lên lão làng, người nào giỏi vào vai chính, người nào kém giữ chân chạy cờ, lính lệ, nô tì…

Một phường chèo nổi tiếng nhờ vào những đào kép chính có nhan sắc, có giọng hát hay, đặc thù mà những phường khác không có, nhất là những vai hề. Không tích nào diễn mà không có vai hề, có hề nam và hề nữ. Mụ Đốp vợ anh mõ trong tích Quan Âm không phải đào nào diễn cũng được. Những tiểu đồng thầy bói, thầy lang, lão say thì ở tích nào cũng có thể đưa vào để có những tràng cười. Thân trò thì đào kép chính hay phụ đều như thuộc lòng, vì số tích không nhiều, gần như chẳng có tích nào mới, lại năm nào cũng diễn, có thể hôm nay diễn mai lại diễn, có tích diễn liên tục nhiều đêm do dân làng yêu cầu. Nhưng không hẳn chèo chỉ có một mùa hội hè đính đám, thỉnh thoảng cũng có những người giàu có, hoặc các nhà quan có khao vọng, thượng thọ cha mẹ cho gọi phường chèo về hát chầu, ông trùm tập hợp đào kép lại đi diễn dăm ba đêm.

Mãi sau này có những khu dân chúng tập trung, dân không sống bằng nghề nông mới có những gánh chèo thường trực. Từ đó phường chèo thành gánh chèo và nảy sinh việc đào kép thay đổi gánh, truyện đào kép ghen tuông với nhau, thay vợ đổi chồng… Các ông trùm thì tìm cách o bế những đào kép chính ăn khách để thu lợi. Thế là hát chèo thành một cái nghề hẳn hoi, đào kép không còn nghề nông căn bản nữa. Mỗi gánh chèo t