CHƯƠNG VII. THỊNH VÀ SUY CỦA HỒI GIÁO-1058-1258
I. HỒI GIÁO PHƯƠNG ĐÔNG: 1058-1250
II. HỒI GIÁO PHƯƠNG TÂY: 1086-1300
III. XÉT QUA VỀ NGHỆ THUẬT HỒI GIÁO: 1058-1250
IV. THỜI ĐẠI OMAR KHAYYAM: 1038-1122
V. THỜI ĐẠI SAADI: 1150-1291
VI. KHOA HỌC HỒI GIÁO: 1057-1258
VII. AL-GHAZALI VÀ SỰ PHỤC HƯNG TÔN GIÁO
VIII. AVERROÈS
IX. NGƯỜI MÔNG CỔ TỚI: 1219-1258
X. HỒI GIÁO VÀ KITÔ GIÁO
I. HỒI GIÁO PHƯƠNG ĐÔNG: 1058-1250Tughril Beg mất rồi (1063), người cháu (gọi ông bằng chú hay bác) tên là Alp Arslan, hai mươi sáu tuổi lên ngôi vua Seljouk[242]. Một sử gia có hảo ý tả Alp Arslan như sau:
“Cao lớn, râu mép dài tới nỗi muốn bắn cung thì ông có thói quen cột đầu râu lại, và không khi nào ông bắn trật. Ông đội một cái khăn cao tới nỗi người ta thường bảo rằng từ đỉnh khăn tới đầu râu mép của ông có khoảng cách là hai thước. Ông là một ông vua cương quyết và công minh, thường đại độ, quan lại có kẻ nào nhũng lạm hay tàn bạo là ông trừng trị liền, và cực kì nhân từ với kẻ nghèo. Ông cũng chịu khó nghiên cứu sử, chăm chú vui vẻ nghe sử biên niên của các tiên vương, và các cuốn cho biết về tính tình, chế độ cùng cách cai trị của các tiên vương”.
Mặc dầu có khuynh hướng bác học, Alp Arslan sống đúng như tên ông – “vị anh hùng có trái tim sư tử” – và xâm chiếm các xứ Hérat, Arménie, Géorgie, Syrie. Hoàng đế Hy Lạp Romain IV tập hợp một đạo quân một trăm ngàn người ô hợp, vô kỉ luật để giao chiến với mười lăm ngàn quân có kinh nghiệm của Arslan. Arslan đề nghị kí một hoà ước hợp tình hợp lí; Romain khinh bỉ bác bỏ, giao chiến ở Manzikert, xứ Arménie, anh dũng chiến đấu với đạo quân nhút nhát, thất bại, bị bắt sống, dẫn tới trước mặt Arslan. Arslan hỏi: “Nếu ông thắng tôi thì ông sẽ làm gì?”. Romain đáp: “Thì ta sẽ quất vào lưng ngươi mấy roi”. Arslan đối đãi với Romain rất nhã nhặn, bắt ông ta hứa chuộc mạng một số tiền lớn rồi thả ông ta về sau khi tặng nhiều món quí giá. Một năm sau, Arslan bị một kẻ thích khách đâm chết.
Đế quốc Seljouk năm 1100
(http://jspivey.wikispaces.com/file/view/1.gif/42931849/1.gif)
Con ông là Malik Shah (1072-1092) là ông vua lớn nhất triều đình Seljouk. Trong khi viên tướng của ông tên là Suleiman chiếm nốt xứ Tây Á thì ông đích thân đem quân chiếm xứ Transoxiane cho tới Boukhara và Kasligar. Nhờ viên tể tướng đa tài và tận tâm Nizam al-Mulk, triều đại của ông và của Arslan rực rỡ và thịnh vượng như triều đại Haroun al-Rashid ở Bagdad. Trong ba chục năm, Nizam tổ chức, kiểm soát hành chính, chính trị, kinh tế, khuyến khích thương mại, kĩ nghệ, sửa chữa đường sá, cầu cống, khách sạn, lữ hành đi đâu cũng được yên ổn. Ông lại quí trọng, rộng rãi với các nghệ sĩ, thi sĩ, nhà bác học, cất những kiến trúc rất đẹp ở Bagdad, đặc biệt là một học viện nổi tiếng; bỏ tiền ra và đích thân chỉ huy việc xây cất lại Điện nóc tròn trong thánh thất Ngày thứ sáu tại Isfahan. Nhờ ông đưa ý kiến mà Malik Shah mới mời Omar Khayyam và một số nhà thiên văn học khác sửa đổi lại lịch Ba Tư. Một truyện cổ kể rằng Nizam, Omar và Hasan ibn al-Sabbah hồi còn là bạn học đã thề sau này ai được hạnh phúc gì thì cũng san sẻ cho hai người kia; như biết bao giai thoại khác, truyện đó chắc là chuyện bịa, vì Nizam sinh năm 1017, còn Omar và Hasan mất năm 1123, 1124, và không có gì cho ta tin được rằng một trong hai nhà này thọ trăm tuổi.
Năm bảy mươi tuổi, Nazim trình bày triết lí chính trị của ông trong một tác phẩm bất hủ bằng văn xuôi Ba Tư, cuốn Siyasatnama (Nghệ thuật trị quốc). Ông cật lực khuyên khuyên từ nhà vua tới dân phải giữ chính giáo, nếu không có cơ sở tôn giáo thì nước sẽ loạn, và uy quyền của vua dựng trên tôn giáo. Đồng thời ông không quên đức vua chí tôn phải giự bổn phận của mình: đừng quá chén, đừng nhẹ dạ; phải tìm ra và trừng trị những quan lại tham nhũng, tàn bạo, chuyên hoành; phải hai lần một tuần cho công chúng được bệ kiến để kẻ ti tiện tới đâu cũng được dâng thỉnh nguyện, trình bày những nỗi oan ức. Nizam nhân từ nhưng kì thị tôn giáo; phàn nàn rằng triều đình thu dụng cả những tín đồ Kitô giáo, Do Thái giáo, giáo phái Shiite; ông rất kịch liệt tố cáo phái Ismailite làm nguy hại tới sự thống nhất của quốc gia. Năm 1092, một tín đồ Ismailite giả là kẻ có điều khẩn cầu, lại gần ông, và đâm chết ông.
Kẻ sát nhân ấy là hội viên một hội kín lạ lùng nhất trong lịch sử. Vào khoảng 1090, một lãnh tụ Ismalite – chính Hasan ibn al-Sabbah, bạn đồng song của Omar và Nizam trong giai thoại kể trên – chiếm đồn Alamout (ổ đại bàng) trong miền núi phía Bắc Ba Tư, và từ vị trí cao ba ngàn thước ấy, khủng bố, ám sát những kẻ chống lại giáo phái Ismailite. Trong cuốn Siyasatnama, Nizam buộc tội ông và đồng bọn là dư đảng của nhóm cộng sản Mazdakite Ba Tư, dưới triều Sassanide. Hội kín ấy có lễ nhập đảng, và đảng viên gồm nhiều cấp bực, trên cùng là một tôn sư mà Thập tự quân gọi là “Lão sơn nhân”. Cấp thấp gồm những fidais mà bổn phận là thi hành triệt để, không chút do dự, thắc mắc, lệnh của cấp trên. Marco Polo[243] đi ngang qua Alamout năm 1271, kể lại rằng viên tôn sư đã lập sau đồn luỹ một khu vườn “có những nàng đẹp như tiên, đùa giỡn, ái ân với đàn ông”, y như cảnh thiên đường của Hồi giáo. Kẻ nào muốn thụ lễ vô hội kín, thì được uống nước cần sa (hachish), khi mê man rồi, được người ta khiêng vô vườn; lúc tỉnh dậy, người ta bảo họ là ở thiên đường đấy. Sau bốn năm ngày hưởng cái thú uống rượu, ăn ngon, ôm ấp gái đẹp, người ta lại cho họ uống nước cần sa rồi khiêng họ ra khỏi vườn. Khi họ tỉnh dậy, họ hỏi cảnh thiên đường đâu mất rồi; người ta đáp nếu họ tuân lệnh tôn sư, trung tín, hi sinh tính mạng để phụng sự tôn sư thì được trở về thiên đường và ở đó vĩnh viễn. Người Hồi giáo gọi bọn thanh niên chịu thụ lễ là hashshasheen (kẻ uống nước cần sa), và tiếng này là gốc tiếng assassin (kẻ ám sát) của Pháp. Hasan cai trị Alamout ba mươi lăm năm, làm cho miền đó thành một trung tâm ám sát, giáo dục và nghệ thuật. Ông mất rồi mà tổ chức ấy còn duy trì được lâu, bành trướng thêm, chiếm được nhiều đồi khác, dẹp bọn Thập tự chinh và – tương truyền – ông theo lệnh của Richard Coeur de Lion mà giết Conrat de Montferrat. Năm 1256, quân Mông Cổ do Halagu chỉ huy chiếm Alamout, từ đó hội viên của Hội kín ám sát đó bị săn bắt, thủ tiêu vì theo chủ nghĩa hư vô, làm hại xã hội. Tuy nhiên, hội kín vẫn còn, thành một giáo phái, lần lần ôn hoà và lương thiện; các hội trưởng ở Ấn Độ, Ba Tư, Syrie và châu Phi phục tùng Aga Khan (vua Mông Cổ) và mỗi năm nộp thuế cống bằng một phần mười lợi tức của họ.
Vua Malik Shah chết sau viên tể tướng của ông sau một tháng; mấy người con gây chiến với nhau để tranh ngôi báu, trong nước hỗn loạn. Hồi giáo không đoàn kết mà chống với Thập tự quân được. Dưới triều vua Sinjar ở Bagdad (1117-1157), triều đại Seljouk lại rực rỡ một thời, văn thơ phát triển nhờ nhà vua bảo trợ; nhưng khi Sinjar chết rồi, vương quốc bị chia cắt thành nhiều tiểu quốc độc lập tranh giành đất đai với nhau. Ở Mossoul, một người nô lệ gốc Kurde[244] của Malik Shah, tên Zangi, thành lập triều đại Atabeg (vua cha) năm 1127, hăng hái chống lại Thập tự quân và chiếm được vùng Mésopotamie. Con của Zangi, tên là Nur ud din Mahmud (1146-1173) chiếm sứ Syrie, dời đô lại Damas, siêng năng và công minh trị dân, lật đổ triều đại Fatimide lúc đó đương hấp hối, mà chiếm Ai Cập.
Hai thế kỉ sau, cũng tương tự như dòng Abbaside do suy đồi mà bị dòng Buwayhide và dòng Seljouk khuất phục, các vua Hồi giáo ở Le Caire suy nhược[245], bị các tể tướng quân nhân cướp hết quyền, chỉ giữ địa vị giáo chủ. Các vua triều đại Fatimide chìm đắm trong tửu sắc với các cung tần, chung quanh toàn là bọn hoạn quan và nô lệ, mất hết chí khí, giao hết quyền cho tể tướng, cho họ mang tước vương, tự ý bổ dụng các quan lại và phân phát các lợi tức bất chính của triều đình. Năm 1164, hai đại thần tranh nhau chức tể tướng. Một người tên là Shawar cầu viện với Nur ud din, ông này phái Shirkuh cầm đầu một đạo quân nhỏ qua cứu. Shirkuh giết Shawar, tự phong làm tể tướng. Khi ông ta mất (1169), ghế tể tướng lại về một người cháu (gọi ông bằng chú hay bác), tên al-Malik al- Nasir Salahed-din Yusuf ibn Ayyub (có nghĩa là quốc vương, người bảo vệ và làm vẻ vang cho tôn giáo, tên Joseph, con của Job) mà phương Tây gọi là Saladin.
Ông ta sinh năm 1138 ở Tekrit, trên thượng lưu sông Tigre, gốc Kurde. Cha Ayyub làm tổng đốc mới đầu ở Baalbeck dưới triều Zangi, rồi ở dưới triều Nur ud din. Được sống trong gia đình đó, Saladin học được các nghệ thuật chính trị và chiến tranh. Nhưng ông lại ngoan đạo, theo chính giáo, siêng năng nghiên cứu thần học và sống một đời giản dị gần như khổ hạnh; người Hồi giáo coi ông là một trong những vị đại thánh của họ. Ông chỉ khoát một chiếc khăn quấn người bằng len thô, suốt đời chỉ uống nước lạnh, hồi nhỏ cũng hơi phóng túng về tình dục, nhưng sau rất ít gần đàn bà, khiến người đương thời lấy ông làm gương. Được phái tới Ai Cập với Shirkuh, ông tỏ ra có tài cầm quân, do đó mà được làm tư lệnh ở Alexandrie, và ông bảo vệ được thành này, thắng được quân France (1167). Được phong làm tổng lí đại thần hồi ba mươi tuổi, ông gắng sức phục hưng Hồi giáo chính thống ở Ai Cập. Năm 1171, ông bắt dân trong các buổi cầu nguyện công cộng thay tên vua dòng Fatimide theo giáo phái Shiite bằng tên vua Abbasside mà ông này chỉ còn giữ chức giáo hoàng chính thống ở Bagdad[246].
Al-Adid, ông vua cuối cùng dòng Fatimide, lúc đó đang ngoạ bệnh trong cung, không để ý tới cuộc cách mạng trong giáo hội ấy; Saladin hoàn toàn bưng bít, không cho ông ta hay, để con người vô dụng đó “có thể yên ổn nhắm mắt”. Quả nhiên, nhà vua yên ổn từ trần; vì không chỉ định người nối ngôi, nên triều đình Fatimide chấm dứt lặng lẽ. Saladin tự phong là tổng đốc, bỏ chức tổng lí đại thần (vì triều đình Ai Cập không còn vua), và tự đặt dưới quyền của Nur ud din. Khi vào hoàng cung ở Le Caire, ông ta thấy trong cung có mười hai ngàn người, toàn là phụ nữ, chỉ trừ những người đàn ông trong hoàng tộc; còn đồ châu bảo, ngà, sứ, thuỷ tinh, mĩ thuật phẩm đủ loại nhiều vô số kể, không cung điện đương thời nào bằng. Ông không lấy một món nào cả, giao cung điện cho các tướng lãnh, còn ông thì tiếp tục sống một cuộc đời giản dị sung sướng trong dinh tổng lí đại thần.
Nur ud din mất (1173), các tổng đốc trong vương quốc không chịu thừa nhận người con trai mười một tuổi của ông làm tự quân, và xứ Syrie suýt lâm vào cảnh loạn. Viện lẽ rằng Thập tự quân nhân cơ hội ấy sẽ chiến Syrie, Saladin cầm đầu một đoàn quân bảy trăm người, rời Ai Cập, tiến quân rất mau và làm chủ được Syrie để ngăn Thập tự quân. Trở về Ai Cập, ông xưng vương và khai sáng triều đại Ayyoubite (1175).
Sáu năm sau ông dời đô lại Bagdad và chiếm xứ Mésopotamie. Ở đó cũng như ở Le Caire, ông tiếp tục theo chính giáo. Ông xây dựng nhiều thánh thất, dưỡng đường, tu viện và trường dạy thần học, và cũng như Platon, khinh các thi sĩ. Hễ nghe nói có điều gì bất công thì ông sửa lại liền, ông giảm thuế mà vẫn khuếch trương các công tác, ông trị dân siêng năng và đắc lực. Sự công minh, liêm chính của ông làm cho đế quốc Hồi giáo phương Đông được vinh quang, và người Kitô giáo phải nhận rằng ông là một bậc quân tử mặc dầu “ngoại đạo”.
Chúng tôi chỉ kể qua sự phân chia thành nhiều tiểu quốc sau khi Saladin chết (1193). Các con ông kém tài và triều đại Ayyoubite chấm dứt sau ba thế hệ (1260). Ở Ai Cập, nó thịnh vượng tới năm 1250, đạt tới tột bực dưới thời minh quân Malik al-Kamil (1218-1238). Ở Tiểu Á, dòng Seljouk thành lập triều đại “Rum”[247] (tức La Mã) và trong một thời gian Konia thành một trung tâm văn hóa. Tiểu Á, từ thời Homère, đã chịu nhiều ảnh hưởng của Hy Lạp, bây giờ ảnh hưởng đó bị gột hết, và thành ra Thổ hoá, y hệt Turkestan (…).
Tuy nhiên, ngay cả trong thời suy vi ấy, Hồi giáo vẫn đứng đầu thế giới về thơ, khoa học, triết học, mà về chính trị học ngang hàng với Hohenstaufen[248]. Các vua Seljouk – Tughril Beg, Alp Arslan, Malik Shah, Sinjar – vào hàng những quốc vương tài giỏi nhất thời Trung cổ; Nizam al-Mulk vào hàng chính trị gia danh tiếng nhất; Nur u din, Saladin, và al-Kamil không kém vua Richard I, Louis IX và Fédéric II ở châu Âu. Tất cả ông vua Hồi giáo ấy, ngay những ông vua nhỏ hơn nữa, cũng tiếp tục sự nghiệp khuyết khích văn nghệ của triều đại Abbasside; tại triều đình của họ có những thi hào như Omar, Nizami, Sa’di và Jalal ud din Rumi; và tuy triết lí bị bóp nghẹt vì chủ trương thận trọng theo chính giáo của họ, nhưng kiến trúc lại phát triển rực rỡ hơn các thời trước. Các vua Seljouk và Saladin ngược đãi những người Hồi giáo theo tà thuyết, nhưng rất khoan dung với người Kitô giáo và Do Thái giáo, tới nỗi các sử gia Byzance chép rằng nhiều cộng đồng Kitô giáo yêu cầu các thủ lĩnh Seljouk lại triệt giùm cho họ cái nạn áp bức của các quan lại Byzance. Dưới sự cai trị của triều đại Seljouk và Ayyoubite, Tây Á lại thịnh lên cả về vật chất lẫn tinh thần. Damas, Alep, Mossoul, Bagdad, Isfahan, Rayy, Hérat, Amida, Nishapur và Merv vào những hàng thị trấn đẹp nhất và văn hóa cao nhất thời đó. Vậy, tuy suy vi mà vẫn rực rỡ.
II. HỒI GIÁO PHƯƠNG TÂY: 1086-1300Năm 1249, vua Ai Cập cuối cùng của dòng Ayyoubite, tên là al-Salih, tắt thở. Bà vợ goá (trước vốn là nữ tì) của ông, tên là Shajar al-Durr, làm ngơ cho người ta ám sát con riêng của chồng, rồi lên ngai vàng. Để cứu vãn cái danh dự “tu mi” của mình, các thủ lĩnh Hồi giáo ở Le Caire lựa một người đàn ông, trước cũng làm nô lệ, tên là Aybak, để cùng trị nước với nữ hoàng. Shajar-al-Durr cưới Aybak nhưng vẫn nắm hết quyền hành; và khi Aybak định tuyên bố độc lập thì nữ hoàng sai nhận nước cho chết lúc ông đương tắm (1257). Chính bà chẳng bao lâu bị những nô tì của Aybak dùng guốc đập tới chết để trả thù cho chủ.
Tuy nhiên Aybak sống được đủ lâu để sáng lập triều đại Mameluk. Mameluk có nghĩa là “bị ức chế”; tiếng đó trỏ những người da trắng, đa số là người Thổ Nhĩ Kỳ hay Mông Cổ mạnh mẽ, gan dạ, làm vệ binh trong cung điện các vua Ayyoubite. Ở Le Caire cũng như ở La Mã, ở Bagdad, bọn vệ sĩ tiếm quyền mà làm vua. Suốt hai trăm sáu mươi bảy năm (1250-1517), triều đại Mameluk cai trị Ai Cập, có khi cả Syrie nữa (1371-1516), kinh đô của họ bị nhuộm máu vì các cuộc ám sát, nhưng cũng được tô điểm bằng nghệ thuật; họ anh dũng đánh bại quân Mông Cổ ở Ain-Jalut (1260) mà cứu được Syrie, Ai Cập và cả châu Âu nữa. Họ ít được hoan nghênh hơn khi họ cứu xứ Palestine khỏi bị quân France xâm chiếm, và khi họ đuổi được chiến sĩ Kitô giáo cuối cùng ra khỏi châu Á.
Ông vua Mameluk hùng cường và ít lương thiện nhất là al-Malik Baibars (1260-1277). Mới sanh ra đã là nô lệ Thổ, chỉ nhờ can đảm và tài giỏi mà lần lần lên được những cấp chỉ huy cao nhất trong đạo quân Ai Cập. Chính ông ta đã thắng vua Pháp Louis IX ở Mansura năm 1250; và mười năm sau ông chiến đấu thật tài giỏi mà cũng thật hung dữ ở Ain-Jalut, dưới sự chỉ huy của vua Kutuz. Trên đường về Le Caire, ông ám sát Kutuz, tự xưng vương và niềm nở tiếp nhận sự hoan nghênh của dân chúng dành cho người thắng trận bị ông giết. Ông còn chiến đấu mấy lần nữa với Thập tự quân, lần nào cũng thắng; nhờ những trận thánh chiến ấy mà người Hồi giáo tôn trọng ông gần bằng Haroun và Saladin. Một nhà chép sử biên niên đương thời theo Kitô giáo bảo “thời bình, ông sống đạm bạc, trong sạch, công bằng với dân chúng, nhân từ với thần dân Kitô giáo nữa”. Ông tổ chức chính quyền Ai Cập khéo tới nỗi, mặc dù những người kế vị ông bất tài mà vẫn giữ được ngai vàng cho tới khi người Thổ Ottman diệt năm 1517. Ông lập một đạo quân và một hạm đội mạnh cho Ai Cập, khai thông các cảng, kinh, đường sá, và xây dựng một thánh thất mang tên ông.
Một người nô lệ Thổ khác phế con trai của Baibars mà lên ngôi, tức vua al-Mansur Sayf-al-Din Kalaun (1279-1290). Sử ghi công lớn nhất của ông ta là dựng một dưỡng đường lớn ở Le Caire, mà mỗi năm ông trợ cấp cho một triệu dirhem (500.000 Mĩ kim). Con trai ông, Nasir (1290-1340) được đưa lên ngôi ba lần, nhưng chỉ bị phế hai lần, xây dựng nhiều thuỷ lộ, nhà tắm công cộng, trường học, tu viện và ba chục thánh thất; bắt một trăm ngàn người làm xâu để đào một con kênh nối Alexandrie với sông Nil; giữ tục Mameluk, giết hai vạn con vật để làm tiệc cưới con trai. Khi ông băng qua sa mạc, thì có bốn chục con lạc đà chở trên lưng cả một vườn đất tốt để mỗi ngày có rau tươi cho ông ăn. Ông tiêu phí quá, quốc khố gần cạn, các người nối ngôi ông không sao cứu vãn được, mà từ đó triều đại Mameluk từ đó suy tàn.
Triều đại ấy không làm cho ta có thiện cảm các triều đại Seljouk, Ayyoubite. Họ lưu lại được nhiều đại công tác nhưng hầu hết là do sự bóc lột đến tận xương tuỷ sức lao động của nông dân và vô sản để làm lợi cho chính quyền vô trách nhiệm đối với quốc gia, hoặc làm lợi cho giới quí tộc; họ chỉ dụng mỗi một phương pháp là ám sát để bãi chức một bề tôi. Nhưng những ông vua ấy biết thưởng thức và có tinh thần rộng rãi về văn nghệ. Thời đại cũng họ là thời rực rỡ nhất của ngành kiến trúc Ai Cập Trung cổ.
Hồi đó (1250-1300) kinh đô Le Caire là thị trấn giàu có nhất ở phía Tây sông Indus (nghĩa là từ biên giới Ấn Độ tới bờ Địa Trung Hải). Chợ búa bán đầy các nhu yếu phẩm và vô số xa xỉ phẩm; có những tiệm nhỏ xây trong tường chất đầy hàng hoá; có những ngỏ lúc nhúc người và súc vật, ồn ào tiếng người bán rong và tiếng xe bò, xây thật hẹp để có bóng mát, và khúc khuỷu để dễ bảo vệ; nhà nào cũng có cái mặt ngoài buồn, nghiêm, từ ngoài đường chói lọi ánh sáng, nóng nực, ồn ào, bước ngay vô trong những phòng tối tăm, mát mẻ, những phòng này ngó ngay ra cái sân trong hoặc một mảnh vườn chung quanh là tường kín; trong phòng bày biện rất đẹp mắt: màn, thảm, bức thêu, nghệ phẩm; đàn ông nhai cần sa bỏm bẻm để có những ảo cảm say mê; đàn bà líu lo nói chuyện phiếm trong zenana (phòng the), hoặc lén lút đưa tình ở một cửa sổ; ở thành phố, có những cuộc hoà nhạc kì dị, những bản nhạc tấu lên với ngàn cây luth; có những công viên đầy hoa thơm bóng mát; những con kinh và sông Nil điểm thuyền buôn, tàu chở khách và du thuyền; đó là cảnh kinh đô Le Caire thuộc Hồi giáo thời Trung cổ. Một thi sĩ Le Caire đã vịnh:
Sông Nil lững lờ trôi bên cạnh khu vườn ấy,
Tôi thường chèo chiếc dahabiya trên dòng nước,
Tôi thường ghé bờ để nghỉ một lát,
Để nụ cười rạng rỡ, vui tươi của nàng sưởi ấm tấm lòng tôi,
Nàng đã làm cho cảnh nơi đây đẹp đẽ vô cùng.
Trong thời gian đó, một loạt triều đại kế tiếp nhau ở Bắc Phi. Nhà Zayride (972-1148) và nhà Hafside (1228-1534) cầm quyền ở Tunisie; nhà Hammadide (1007-1152)[249] làm vua ở Algérie; nhà Almoravide (1056-1147) và nhà Almohade (1130-1269) làm vua ở Maroc. Ở Y Pha Nho, các vua Almoravide mới đầu là những chiến sĩ thắng trận, còn giữ được lối sống đạm bạc ở châu Phi, chẳng bao lâu lây thói xa hoa của các vua ở Séville, Cordoue, không còn chịu kỉ luật khắc khổ thời chiến nữa mà hưởng những lạc thú thời bình; ai cũng ham làm giàu, cho rằng có nhiều tiền mới là tài giỏi, đức can đảm bị coi thường, phụ nữ thì nhờ sắc đẹp mà được tôn trọng ngang các giáo chủ, mà các giáo chủ chỉ hứa cho tín đồ sau này được hưởng ở thiên đường những thú vui say đắm, còn phụ nữ thì tặng cho họ được những cái vui ấy ngay trên kiếp trần này. Quan lại hoá tham nhũng và tổ chức hành chính rất đắc lực dưới triều Yusuf ibn Tashfin (1106-1143), đã suy yếu dưới triều con trai của ông là Ali (1106-1143)[250]. Quan lại càng biếng nhác thì trộm cướp càng hoành hành; đường sá mất yên ổn, thương mại suy, quốc gia nghèo đi. Các vua Y Pha Nho theo Kitô giáo chụp lấy cơ hội ấy, cướp phá Cordoue, Séville và các thị trấn khác. Một lần nữa, Hồi giáo quay về châu Phi cầu cứu.
Ở châu Phi, năm 1121, một cuộc cách mạng tôn giáo xảy ra và một giáo phái mới xuất hiện dùng sức mạnh để cai trị. Abdallah ibn Tumart bài bác cả thuyết Thượng Đế cũng có hình thể, tâm tính như người của Hồi giáo chính thống, lẫn chủ trương duy lí của các triết gia, bắt tín đồ phải trở về lối sống bình dị, mộ đạo; sau cùng ông tự xưng là Mahdi tức đấng cứu thế mà giáo phái Shiite tin là sẽ xuống trần. Các bộ lạc man rợ ợ dãy núi Atlas ùn ùn theo ông, lật đổ các vua Almoravide ở Maroc, rồi ở Y Pha Nho họ cũng thắng dễ dàng. Nhờ các thống đốc Abd al-Mumin (1145-1163) và Abu Yakub Yusuf (1163-1184) dòng Almohade, cảnh trật tự và thịnh vượng trở lại ở Andalousie và Maroc; văn học và khoa học lại phục hưng; các triết gia được che chở miễn là họ mặc nhiên thừa nhận điều này: viết sao cho không ai hiểu gì cả. Nhưng Abu Yusuf Yaqub (1184-1199) phải chiều lòng các nhà thần học, bỏ rơi triết lí và ra lệnh đốt hết các tác phẩm triết học. Con ông là Muhammad al-Nasir (1199-1214) chẳng quan tâm chút gì tới triết học cùng tôn giáo, bỏ bê việc nước, chỉ chuyên môn hưởng lạc, nên bị liên quân Kitô giáo Y Pha Nho đánh thua tan tành ở Las Navas de Tolosa năm 1212. Y Pha Nho thuộc triều đại Almohade từ đó bị chia cắt thành những tiểu quốc độc lập bị Kitô giáo chiếm lần lần từng nước từng nước một: Cordoue bị chiếm năm 1236, Valence năm 1238, Séville năm 1248. Bị tấn công liên tiếp, người Maure rút lui về Grenade, nơi đó dễ cố thủ nhờ có dãy núi tuyết Sierra Nevada; những cánh đồng ở đó có đủ nước trồng trọt biến thành vườn nho, cam và ô-liu, và các thị trấn chung quanh Xérés, Jaén, Almeria và Malaga, mặc dầu bị quân Ki tô giao tấn công nhiều lần; thương mại và kĩ nghệ phát triển, nghệ thuật thịnh lên, dân chúng bận những quần áo màu sắc tươi thắm và tổ chức nhiều hội hè vui vẻ. Tiểu quốc đó sống sót được tới năm 1492, và là cứ điểm cuối cùng ở châu Âu của một nền văn hóa đã giúp cho Andalousie làm vẻ vang cho nhân loại trong mấy thế kỉ.
III. XÉT QUA VỀ NGHỆ THUẬT HỒI GIÁO: 1058-1250Chính trong thời ngoại thuộc người Berbère mà Y Pha Nho theo Hồi giáo xây dựng cung điện Alhambra ở Grenade, dinh Alcazar và tháp vuông Giralda ở Séville. Kiểu kiến trúc đó thường được gọi là kiểu Maure vì từ Maroc đem qua; nhưng nhiều bộ phận chịu ảnh hưởng của Syrie, Ba Tư và cũng hơi giống lăng Taj Mahal ở Ấn Độ sau này, vì nghệ thuật Hồi giáo quả là mênh mông và phong phú. Kiểu ấy có những nét kiều diễm chứ không hùng tráng như các thánh thất ở Damas, Cordoue, Le Caire. Vẻ đẹp tế nhị, thanh nhã, tài nghệ tập trung vào cả việc trang trí, và điêu khắc gia đã lấn các kiến trúc sư.
Các vua triều đại Almohade đều hăng hái xây cất. Mới đầu họ xây cất để phòng thủ, dựng chung quanh các thị trấn lớn những vòng thành với những tháp canh đồ sộ, vững chắc, như Tháp Vàng (Torro del Oro) ở Séville. Dinh Alcazar ở Séville vừa là dinh vừa là đồn, phía mặt coi giản dị mà thô. Kiến trúc sư ở Tolède tên là Zalubi vẽ dinh đó cho Abu Yakub Yusuf (1181); sau 1248, các vua Kitô giáo thích ở các dinh ấy; nó được Pierre I (1353), Charles V (1526)… và Isabelle (1833) sửa đổi, trùng tu hoặc xây cất thêm cho rộng (…).
Ngoài dinh Alcazar đó ra, Abu Yakub Yusuf còn dựng (1171) thánh thất lớn ở Séville, hiện nay không còn gì. Năm 1196, kiến trúc sư Zabir cất ngôi tháp rất đẹp mà chúng ta gọi là tháp Giralda. Người Kitô giáo sau khi xăm lăng, đổi thánh thất thành giáo đường (1235); năm 1401 người ta lại phá giáo đường, một phần dùng các vất liệu cũ để cất ngay ở chỗ đó đại giáo đường Séville. Còn tháp Giralda, người Kitô giáo giữ nguyên phần dưới (76 thước) và xây chồng lên hai mươi bảy thước nữa, kiến trúc hai phần hoàn toàn hợp nhau. Hai phần ba ở trên được trang hoàng rất đẹp bằng những lan can và chấn song coi y những tấm ren bằng đá và hồ giả cẩm thạch (stuc). Ở trên ngọn dựng một bức tượng vĩ đại bằng đồng đỏ, tượng Tín ngưỡng; tượng đó không tượng trưng đúng tinh thần tôn giáo bất tuyệt của Y Pha Nho, vì gió hơi thổi nó cũng đã quay, do đó nó mang tên Y Pha Nho là giralda (do chữ gira là quay). Người Maure dựng được ở Marrakech (1069) và Rabat (1197) những tháp cũng gần đẹp như vậy.
Ở Grenade, năm 1248, Muhammad ibn al-Ahmar (1232-73) sai dựng kiến trúc nổi danh nhất ở Y Pha Nho, cung Alhambra (có nghĩa là Cung đỏ). Ông đã lựa một chỗ trên núi hiểm trở chung quanh có những khe sâu, và nhìn xuống hai dòng sông Darro và Genil. Ông thấy có một cái đồn luỹ ở đó, đồn Akazaba, cất từ thế kỉ thứ IX; ông mở rộng nó ra, dựng một vòng tường lớn ở ngoài, cái dinh cổ nhất ở trong với hàng chữ khiêm tốn này: “Ngoài Allah ra, không ai là nhà chinh phục cả”. Dinh thự mênh mông đó được nhiều lần mở rộng ra, sửa chữa dưới thời Hồi giáo cũng như dưới thời Kitô giáo.
Theo những qui tắc kiến trúc đồn luỹ ở Hồi giáo phương Đông, kiến trúc sư khuyết danh nào đó mới đầu vẽ một vòng thành để có thể chứa được bốn vạn người. Hai thế kỉ sau, người ta thích sự xa hoa, lộng lẫy hơn, mới lần lần đổi thành quách ấy thành lâu đài, trang hoàng, chạm trổ hoặc sơn cực kì đẹp đẽ. Trong sân Cây sim (Myrte), một hồ nước phản chiếu cành lá và cái cổng. Sau sân ấy là Tháp Comares, mà khi bị bao vây, người trong thành trốn vào đó mà quân địch không sao hạ nổi. Trong tháp có điện tiếp các Sứ thần; các thống đốc Grenade ngồi trên ngai, còn các sứ thần thì trầm trồ tán thưởng sự đẹp đẽ và phong phú của vương quốc nhỏ xứ đó. Trong sân chính, sân Patio de los Leones, mười hai con sư tử bằng cẩm thạch canh giữ một phông ten vĩ đại bằng tuyết hoa thạch (…). Ở đây người Maure đã trang hoàng có lẽ quá mức, thành thử du khách nhìn lâu rồi hoá choá. Ta có cảm giác như mong manh, thiếu sự mạnh mẽ. Vậy mà công trình tô đắp, đánh bóng đó tồn tại được sau mười hai lần động đất; chỉ cái trần điện Sứ thần là đổ, còn bao nhiêu đều y nguyên. Tóm lại, toàn thể kiến trúc ấy, vườn tược, phông ten, lan can… đánh dấu sự cực thịnh mà đồng thời cũng là sự suy vi của nghệ thuật Maure ở Y Pha Nho: lộng lẫy quá mức mà thiếu hùng tráng (…).
Tất cả các nghệ thuật Hồi giáo đều đạt tới tột đỉnh trong thời đại lạ lùng vừa thịnh vừa suy ấy. Hình như đồ gốm là một cái thú không thể thiếu được trong đời người Ba Tư và rất ít khi nghệ thuật đồ gốm đạt được sự hoàn hảo của họ trong nhiều khu vực. Những kĩ thuật làm men long lanh như kim loại, vẽ một hay nhiều màu trên hoặc dưới lớp men, kĩ thuật làm ngói, đồ sành hoặc thuỷ tinh học được Ai Cập, Mésopotamie, Ba Tư, Syrie thời đó đạt tới mức tột đỉnh. Họ cũng chịu ảnh hưởng của Trung Hoa, đặt biệt về ngành hoạ chân dung, nhưng ảnh hưởng ấy không thắng được lối vẽ Ba Tư. Đồ sứ nhập cảng từ Trung Hoa; vì ở Cận và Trung Đông, rất khó kiếm thứ đất sét trắng làm đồ sứ nên người Hồi giáo không chế tạo được thứ đồ ấy. Tuy nhiên, trong ba thế kỉ XII, XIII, XIV, đồ gốm Ba Tư hơn hết thảy các nước khác vì nhiều kiểu, hình thể cân xứng, màu vẽ rực rỡ, đường nét thanh nhã.
Xét chung, các tiểu nghệ thuật (art mineurs) của Hồi giáo cũng rất đáng quí trọng. Alep và Damas sản xuất được những đồ thuỷ tinh mong manh mà rất đẹp, trang sức bằng men; còn Le Caire thì chế tạo được những đèn thuỷ tinh tráng men để treo trong các thánh thất, cung điện; hiện nay những người chơi đồ cổ rất quí những thứ ấy[251]. Kho báo của dòng Fatimide bị Saladin phân tán chứa hàng ngàn lọ bằng thuỷ tinh hoặc mã não có vân mà nghệ thuật có vẻ như vượt quá khả năng của chúng ta ngày nay[252]. Nghệ thuật đồ kim thuộc của Assyrie thời cổ ấy, bấy giờ cũng vượt hẳn thời trước, đặc biệt ở Syrie, Ai Cập, và tới thế kỉ XV thì truyền qua Venise. Người ta đúc hoặc đập đồng, đồng đỏ, đồng thau, vàng, bạc, làm thành các đồ dùng, khí giới, áo giáp, bình bông, chân đèn, hộp bút, bình mực, lư hương, lò than, hình các loài vật, hộp đựng kinh Coran, chìa khoá, kéo… chạm trổ rất đẹp, có khi nạm ngọc thạch nữa. Có những mặt bàn bằng đồng thau chạm vô số hình, và những chấn song thật khéo dựng ở điện thờ, cửa hoặc quanh mộ (…).
Ngành điêu khắc bị coi là nghệ thuật phụ; người Hồi giáo chỉ đục nổi thành những hình trang trí; một ông vua hơi phóng túng có thể sai tạc một pho tượng cho mình, cho vợ hoặc một vũ nữ, nhưng như vậy là có tội, rất ít khi dám bày cho công chúng thấy. Nhưng nghệ thuật chạm đồ gỗ thì lại phất triển. Cánh cửa, khán thờ, giảng đàn, giá đặt kinh, bình phong, trần nhà, bàn, cửa sổ, tủ, hộp, lược chạm như đăng ten, tiện thật mòn, nhẵn. Kiên nhẫn vô cùng là bọn thợ dệt, thêu các đồ lụa, sa tanh, gấm, nhung thêu kim tuyết, màn, lều, thảm, đường thêu thật tinh vi, hình thật đẹp, khắp thế giới phải tấm tắc khen. Marco Polo đi thăm xứ Tiểu Á vào khoảng 1270, thấy ở đó những “tấm thảm đẹp nhất thế giới”. John Singer Sargent cho rằng có một tấm thảm Ba Tư “quí bằng tất cả những bức hoạ của những thời đại trước”. (…).
Người Hồi giáo trọng môn tiểu hoạ mà lại khinh môn bích hoạ và vẽ chân dung. Vua Amir (1101-1130), triều đại Fatimide sai hoạ sĩ vẽ trong của phòng của ông ở Le Caire chân dung nhiều thi sĩ đương thời; như vậy là cái tục cấm khắc hình người thời ấy đã bớt khắc khe rồi. Miền Transoxiane vì ở xa, ít chịu ảnh hưởng những thành kiến ấy, nên môn hoạ thịnh nhất; có những sách chép tay Thổ Nhĩ Kỳ vẽ rất nhiều hình nhân vật trong truyện. Không có một bức tiểu hoạ nào đáng tin là ở thời đó mà còn lưu lại tới ngày nay, nhưng cứ xét sự thịnh vượng của ngành ấy trong thời Hồi giáo phương Đông bị lệ thuộc Mông Cổ, chúng ta cũng đoán được là ở triều đại Seljouk, tiểu hoạ cũng đã phát triển mạnh rồi. Các nghệ sĩ ganh nhau tô điểm các kinh Coran cho mỗi ngày một đẹp hơn cho các thánh thất, các tu viện, các chức sắc và các trường học dưới triều đại Seljouk, Ayyoubide hoặc Mameluk[253], bìa bằng da hoặc gỗ sơn được chạm trổ, nét nhỏ như mạng nhện. Nhiều phú gia tiêu cả một gia sản nhỏ để thuê các nghệ sĩ làm những sách đẹp hơn tất cả các thời trước. Một đoàn thể gồm các người làm giấy, các thư gia[254], hoạ sĩ và thợ đóng sách có khi bỏ ra mười bảy năm để làm thành mỗi một cuốn sách. Giấy phải là thứ tốt nhất, ngọn bút phải làm bằng thứ lông trắng ở một con mèo con chưa đầy hai tuổi; mực lam phải chế bằng thứ đá lapis-lazulis[255] tán nhỏ ra, đắt như vàng; có những đường gạch hay chữ phải vẽ bằng vàng nước. Một thi sĩ Ba Tư bảo: “Không sao tưởng tượng nổi các vui của lí trí khi nhìn một đường vẽ” (hay một hàng chữ tuyệt đẹp).
IV. THỜI ĐẠI OMAR KHAYYAM: 1038-1122Cơ hồ như thời đại đó, số thi sĩ và số thi sĩ và nhà bác học cũng đông như số nghệ sĩ trong các ngành kể trên. Dân chúng Le Caire, Alexandre, Jérusalem, Baalbeck. Alep, Damas, Mosoul, Emrsa, Thou, Nishapur và nhiều thị trấn khác đều tự hào về các học viện của mình; riêng ở Bagdad năm 1064 có tới ba chục học viện. Năm sau, Nizam al-Malk cất thêm một học viện nữa, học viện Nizamiya; rồi năm 1234, vua Mustansir lại xây thêm một học viện nữa, lớn hơn, kiến trúc đẹp hơn và đồ đạc nhiều hơn tất cả các học viện khác; một du khách khen nó là kiến trúc đẹp nhất trong thị trấn. Nó có bốn trường luật cách nhau; những sinh viên giỏi nhất khỏi phải đóng học phí mà còn được nuôi và săn sóc khi bệnh tật, và lãnh mỗi tháng một dinar bằng vàng để tiêu vặt; học viện có một dưỡng đường, một nhà tắm và một thư viện, sinh viên và giáo sư được tự do vô đọc sách. Chắc là đôi khi có nữ sinh viên vì sử chép có một vị shaikha – nữ giáo sư – mà bài giảng, cũng như Aspasie hay Hypatie[256], thu hút được một số đông thính giả (khoảng trước hay sau 1177). Thư viện thời đó vừa nhiều vừa nhiều sách hơn thời nào hết ở đế quốc Hồi giáo; riêng Y Pha Nho thuộc Maure cũng đã có bảy chục thư viện công cộng. Ngữ pháp gia, từ ngữ học gia, sử gia và các nhà soạn bách khoa toàn thư vẫn nhiều như các thời trước. Hồi giáo ham mê soạn những bộ tiểu sử chung cho nhiều nhà, đó là sở trường của họ: Ibn al-Kifti (mất năm 1248) chép tiểu sử của bốn trăm mười bốn triết gia và học giả; Ibn Abi Usaybia (1203-70) viết về đời bốn trăm y sĩ; Muhammad Awfi (1228) viết một cuốn toàn thư về ba trăm thi sĩ Ba Tư mà không nói gì về Omar Khayyam; và Muhammad ibn Khallikan (1211-82) hơn hết thảy các nhà khác, một mình soạn một bộ chép tiểu sử ngắn của tám trăm sau mươi lăm người Hồi giáo có tiếng tăm đã chết. Trong một khu vực mênh mông như vậy mà tài liệu của ông rất chính xác, mặc dầu vậy ông vẫn xin lỗi về những sơ sót của ông trong câu này ở cuối bộ: “Trừ kinh Coran ra, Allah không cho phép phàm nhân viết một cuốn nào mà không có lỗi”. Muhammad al-Shahrastani trong cuốn “Sách về các tôn giáo và các giáo phái” (1128), phân tích và tóm tắc lịch sử những tín ngưỡng chính và triết lí trên thế giới; không một học giả Kitô giáo nào đương thời một cuốn uyên bác và vô tư như vậy.
Tiểu thuyết Hồi giáo không bao giờ vượt lên khỏi trình độ sơ đẳng; toàn là những chuyện tả phong tục bọn bợm, điếm, chi tiết rườm ra, truyện sau nối truyện trước chỉ nhờ một tính cách chung, chứ chẳng mạch lạc gì cả. Sau kinh Coran, bộ Ngàn lẻ một đêm, bộ Ngụ ngôn của Bidpai, tác phẩm phổ biến nhất của Hồi giáo là cuốn Makamat của Abu Muhammad al-Hariri (1054-1122) ở Bassora. Tác phẩm viết bằng một thể văn xuôi Ả Rập có vần kể truyện một kẻ vô loại tên là Abu Zaid, hoang tàn, bậy bạ, tội lỗi, báng bổ cả thần thánh, nhưng có một điều dễ thương là khôn khéo, nhiều thủ đoạn và có một nhân sinh quan dễ khiến độc giả xiêu lòng.
“Xin bạn đừng nghe lời kẻ điên nào ngăn bạn hái bông hồng khi nó mãn khai và ở tầm tay bạn; kiếm cách đạt được mục đích của bạn đi, dù bạn thấy nó có vẻ xa vời quá; mặc thiên hạ muốn nói gì thì nói; xin bạn cứ hưởng lạc, nó quí nhất đời đấy!”.
Thời đại đó hầu hết các người Hồi giáo có học đều làm thơ. Theo Ibn Khaldoun, tại các triều đình nhà Almoravide và nhà Almohade ở châu Phi và Y Pha Nho có hàng trăm thi sĩ. Trong các cuộc thi thơ ở Séville, El-Aama et-Toteli (có nghĩa là thi sĩ đui ở Tudela) được giải nhất nhờ hai câu dưới đây tóm tắt được một nửa các bài thơ của nhân loại:
Khi nàng cười thì trân châu xuất hiện; khi nàng hạ tấm voan thì trăng rằm lồ lộ,
Vũ trụ hẹp quá không chứa được nàng; vậy mà nàng bị nhốt trong trái tim tôi.
Tương truyền các thi sĩ khác nghe hai câu đó, xé bài thơ của mình đi, không đọc lên nữa. Tại Le Caire, thi sĩ Zuheyr, tóc bạc đã lâu rồi mà vẫn làm thơ ca tụng ái tình. Tại phương Đông, sự tan rã của đế quốc thành nhiều tiểu quốc làm cho số tiểu vương tăng lên và họ giành nhau bảo trợ thi văn, nhờ vậy mà văn học rất thịnh, y như nước Đức ở thế kỉ XIX. Ba Tư là quốc gia có nhiều thi sĩ nhất. Anwari ở miền Khorasan (mất năm 1185) có một thời làm thơ ở triều đình Sinjar, nhưng ông ca tụng ông trước rồi mới tới nhà vua:
Tâm hồn tôi nóng như lửa, lưỡi tôi lưu loát như nước,
Trí tuệ tôi mẫn nhuệ mà thơ tôi toàn bích,
Hỡi ơi! Không có một vị vua nào đáng cho tôi khen!
Hỡi ơi! Không một người yêu nào đáng cho tôi làm thơ tặng!
Thi sĩ Khagani (1106-1185) đồng thời với Anwari cũng tự cao tự đại như vậy, và tính ngạo mạn của ông khiến người che chở ông ta mỉa mai cay độc huyết thống của ông[257] trong mấy câu thơ dưới đây:
Này bạn Khagani, bạn làm thơ tài tới mấy,
Thì tôi cũng khuyên bạn điều này:
Đừng làm thơ phúng thích một thi sĩ lớn tuổi hơn bạn nhé,
Người đó có thể là thân phụ của bạn mà bạn không biết đấy.
Châu Âu biết được thơ Ba Tư là do Omar Khayyam hơn cả; Ba Tư sắp ông vào hàng các nhà bác học và coi những bài tứ tuyệt của ông chỉ là món tiêu khiển bất thần của “một trong những toán học gia lớn nhất thời Trung cổ”. Abu’l-Fath Umar Khayyami ibn Ibrahim sanh ở Nishapur năm 1038[258]. Biệt hiệu của ông là “người làm lều”, nhưng và cả thân phụ của ông là Abraham, không ai làm lều cả; ở thời ông, những tên nghề chỉ người đã mất ý nghĩa rồi cũng như những tên Boulanger (người làm bánh mì), Lefèvre (thợ thủ công)… của Pháp hiện nay. Sử ít chép về đời ông nhưng lưu lại của ông nhiều tác phẩm. Cuốn Đại số học của ông dịch ra tiếng Pháp năm 1857, đánh dấu một bước tiến bộ đáng kể so với al-Khwarizmi cũng như với toán học Hy Lạp[259]; cách ông giải một số phương trình bậc ba (có lẽ là đỉnh cao nhất trong môn toán học thời Trung cổ). Một cuốn khác cũng về đại số học của ông (bản viết tay lưu trữ tại Thư viện Leyde) vừa nghiên cứu vừa phê phán các định đề và định nghĩa của Euclide. Năm 1074, vua Malik Shak sai ông cùng với các nhà bác học khác sửa lại lịch Ba Tư; kết quả là lịch của ông cứ ba ngàn bảy trăm bảy chục năm mới phải sửa lại một ngày, còn đúng hơn lịch của chúng ta ba ngàn ba trăm ba chục năm phải sửa lại một ngày; chúng tôi xin để cho nền văn minh sau này lựa chọn. Nhưng ở đế quốc Hồi giáo, tôn giáo mạnh hơn khoa học, nên lịch của của Omar không thay nổi lịch của Mohamet. Nizami-i-Arudi đã quen biết Omar ở Nishapur, kể lại chuyện dưới đây, cho ta thấy danh tiếng về môn thiên văn của ông ra sao:
“Mùa đông năm 508 kỉ nguyên Hồi giáo (tức năm 1114-1115 sau Tây lịch), nhà vua sai một sứ giả tới Merv yêu cầu tổng đốc bảo Umar al-Khayyami lựa một thời gian lợi cho việc đi săn… Umar nghiên cứu kĩ trong hai ngày, lựa một thời gian thuận tiện hơn cả, rồi lại đích thân coi sóc cuộc khởi hành của nhà vua. Mới đi được một đoạn đường ngắn thì mây kéo lại, gió nổi, tuyết và sương mù rơi. Mọi người đi theo đều cười và nhà vua muốn quay gót trở về. Nhưng Umar tâu: “Xin bệ hạ đừng ngại gì cả, chỉ lát nữa mây sẽ tan hết và liên tiếp năm ngày không có một giọt mưa”. Vậy là nhà vua tiếp tục đi, rồi trời quang và trong năm ngày đó, không có một giọt mưa nào thật, cũng không có một bóng mây”.
Thể thơ rubai, tức tứ tuyệt (rubai có nghĩa là bốn câu), là một thể thơ Ba Tư gồm bốn câu vần như sau: aaba[260]. Mỗi bài phải diễn trọn một tư tưởng một cách cô động. Người ta không biết nguồn gốc thể ấy từ đâu, nhưng nó đã có trước Omar rất lâu. Trong văn học Ba Tư, nó không bao giờ là một đoạn của một bài thơ trường thiên, mà là một toàn thể độc lập, cho nên người Ba Tư sưu tầm các bài thơ đó không bao giờ sắp theo thứ tự tư tưởng mà theo thứ tự a, b, c của tự mẫu cuối cùng trong tiếng dùng làm vần. Có tới mấy ngàn rubai[261], hầu hết không biết chắc tác giả là ai; có trên một ngàn hai trăm bài tương truyền của Omar, nhưng điều đó còn ngờ. Bản chép tay tập thơ Rubai của Omar, hiện lưu trữ tại Thư viện Bodleian ở Oxford, gồm một trăm năm mươi tám bài sắp theo thứ tự a, b, c và chép từ năm 1460. Có bài người ta cho là của các thi sĩ trước Omar, một số của Abu Said, một bài của Avicenne; trừ ít bài, còn thì khó mà xác định được có thật là của Omar không.
Nhà Đông phương học Đức Von Hammer, năm 1818, là người Âu đầu tiên giới thiệu tập thơ ấy của Omar cho chúng ta. Năm 1859, Edward Fitz-Gerald dịch được bảy mươi lăm bài ra thơ Anh, vừa đẹp vừa mạnh mẽ, không bản dịch nào bằng. Bản in đầu tiên, chỉ bán có một penny[262] mà cũng ít người mua; nhưng sau đó, được tăng bổ và tái bản nhiều lần, và nhà toán học Ba Tư ấy thành một trong các thi sĩ được nhiều người đọc nhất thế giới (…). So sánh bản dịch ra thơ của Fitz-Gerald với bản dịch nguyên tác Ba Tư thì thấy Fitz-Gerald đã luôn luôn diễn được đúng tinh thần của Omar, khó mà dịch thành thơ đúng hơn như vậy được. Vì chịu ảnh hưởng của phong trào Darwin đương thời, nên Fitz-Gerald quên không nghiên cứu tinh thần nhân từ của Omar mà chỉ đào sâu tính cách phản thần học trong thơ ông. Nhưng chỉ một thế kỉ sau Omar, các tác giả Ba Tư đã nhận định về Omar đúng như Fitz-Gerald. Mirsad al-Ibad (1223) bảo thi hào đó là “một triết gia đau khổ, vô thần và duy vật”; cuốn Lịch sử các triết gia (1240) của al-Kifti khen ông là “về thiên văn và triết học thì không ai bì kịp”, nhưng ông có tư tưởng tự do, tiến bộ, vì thận trọng mà phải giữ miệng; al-Sharazuri ở thế kỉ XIII cho ông là một đồ đệ hay gắt gỏng của Avicienne và kể hai tác phẩm triết lí của Omar, nay đều thất truyền. Một số soufi[263] cố tìm những ngụ ngôn thần bí trong các bài rubai của Omar, nhưng soufi Najmud-din-Razi bảo ông là nhà tự do tư tưởng bậc nhất ở thời đại ông.
Tượng Omar Khayyam ở Nishapur
(http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/8/84/Omar_Khayyam.jpg)
Có lẽ chịu ảnh hưởng của khoa học một phần, của thơ al-Ma’arri một phần, Omar trước sau khinh bỉ gạt bỏ thần học, tự khoe đã có lần ăn cắp các tấm nệm để cầu nguyện trong thánh thất. Ông chấp nhận thuyết định mệnh của Hồi giáo, không hi vọng gì có kiếp sau, nên hoá ra bi quan, tìm sự an ủi trong chén rượu và trong công việc nghiên cứu. Các bài thơ số 132, 133 trong bản chép tay ở Thư viện Bodleian đề cao sự say rượu, coi nó gần như một triết lí:
A! Râu ta đã quét bực cửa tửu điếm!
Ta đã từ bỏ, bất chấp cả cái thiện lẫn cái ác ở hai thế giới;
Nếu chúng rớt xuống đường phố ta như hai trái banh,
Thì em sẽ thấy ta vẫn ngủ say vì men rượu.
Muốn nhịn gì thì nhịn, chứ đừng nhịn rượu,
Ngon nhất là thứ rượu mà các mĩ nhân ngà ngà say rót cho mình trong một tửu đình…
Không gì sung sướng bằng một tên say rượu, một khất sĩ lang thang,
Không gì bằng uống từ Mah tới Mahi.
Nghĩa là từ góc trời này tới góc trời kia. Nên chúng ta nên nhớ rằng có biết bao thi sĩ Ba Tư ca tụng trạng thái mê man bất tự giác, như vậy thì bài “tửu đức tụng” kia biết đâu chẳng phải là thiếu tự nhiên, là “làm văn chương” cũng như bài ca tụng ái tình khả nghi của Horace? Những bài thơ ngẫu hứng đó chắc là cho ta một ấn tượng sai về đời sống Omar; chúng chỉ đóng một vai trò rất nhỏ trong cuộc đời tám mươi lăm năm của ông. Thực ra thì có lẽ ông chẳng phải là một tên say rượu suốt ngày, nằm lăn trong vũng bùn đường phố, mà là một nhà bác học già lặng lẽ giải những đẳng thức bậc ba, quan sát các vì sao, lập các bảng thiên văn, và đôi khi cũng uống ít li với các “bạn bè nằm rải rác trên cỏ như những ngôi sao trên vòm trời”. Cơ hồ ông rất yêu hoa vì sinh ở một xứ đất cằn và khô; và theo Nizami-i-Arudi thì sở nguyện của ông của ông được nằm xuống ở giữa một khu đất đầy hoa đã được thoả mãn:
“Năm 506 kỉ nguyên Hồi giáo (112-113 sau T.L), Umar Khayyami và Muzaffar-i-Isfizari ngừng lại ở Bactres… ghé dinh đô đốc Abu Saad, và tôi lại nhập bọn với họ. Chúng tôi ngồi ăn với nhau; giữa bữa, Umar, con người “làm chứng cho Chân lí” đó, bảo: “Mộ tôi sẽ nằm ở một nơi mà mỗi năm hai lần hoa lả tả rơi từ trên cành xuống”. Tôi cho rằng lời đoán chắc ấy khó tin mặc dầu tôi biết rõ ràng một người như ông không thể nói một câu nào tào lao cả.
Rồi tới năm 530 (1135), khi tôi lại Nishapur, thì nét mặt của vị danh nhân ấy đã bị cát bụi phủ, ông đã lánh xa cõi trần này rồi… Tôi lại thăm mộ ông… Mộ ở dưới chân một bức tường, cành lá mấy cây lê, cây đào đong đưa ở đầu tường, cánh hoa rụng phủ đầy nấm mộ, lúc đó tôi mới nhớ lại lời ông nói trước mặt tôi ở thị trấn Bactres, và tôi khóc, vì trên trái đất này tôi chưa thấy được một người nào như ông”.
V. THỜI ĐẠI SAADI: 1150-1291Omar mất được năm năm thì ở Gandzha, ngày nay là Kirovabad, gần Tiflis[264], một thi hào nữa ra đời, được người Ba Tư tôn trọng hơn Omar nhiều. Trái hẳn với Omar, Ilyas Abu Muhammad, sau gọi là Nizami, sống một đời thuần tuý mộ đạo, tuyệt nhiên kiêng rượu, hy sinh cho gia đình và cho thơ. Cuốn “Cuộc tình duyên của Layla và Majnum[265]“ (1188) là truyện tình bằng thơ được phổ biến nhất ở Ba Tư. Qays Majnum (có nghĩa là chàng Điên) yêu nàng Layla, nhưng cha nàng ép gả nàng cho một người khác. Majnum thất tình, trốn xã hội vào sống trong sa mạc, chỉ khi nào nghe thấy ai nhắc tới tên Layla, trí óc chàng mới tỉnh lại. Sau khi chồng chết, nàng quay lại với chàng, nhưng được ít lâu thì chết[266]; và Quays – như Roméo trong bi kịch của Shakespeare Roméo et Juliette – tự tử bên mộ nàng. Không bản dịch nào diễn được âm điệu cực kì du dương trong nguyên tác.
Ngay cả những tu sĩ theo phái thần bí cũng ngâm vịnh ái tình, nhưng họ long trọng tuyên bố rằng ái tình họ tả chỉ là tượng trưng tình yêu Thượng Đế. Muhammad ibn Ibrahim, trong văn học sử thường gọi là Farid al-Din Attar (Viên trân châu của tín ngưỡng người bán thuốc), sanh ở gần Nishapur (1119), sở dĩ có tên là người bán thuốc vì có hồi ông bán dầu thơm. Nghe thấy tiếng gọi của tôn giáo, ông bỏ cửa hàng mà vô một tu viện soufi. Bốn chục tác phẩm của ông toàn bằng tiếng Ả Rập, gồm hai trăm ngàn câu thơ. Nổi danh nhất là cuốn Mantiq al-Tayr (Cuộc hội nghị của Chim). Ba mươi con chim (tức tu sĩ soufi) bàn tính cùng đi tìm vua của các loài chim, Simurgh (tượng trưng cho Chân lí). Chúng bay qua sáu thung lũng: Tìm tòi, Tình thương, Tri thức, Giải thoát (mọi thị dục cá nhân, Hợp nhất (tại thung lũng này chúng thấy mọi vật chỉ là một), Thác loạn (nghĩa là mất hẳn cái ý thức có một đời sống cá nhân). Ba con chim tới được thung lũng thứ bảy, Tự huỷ, và gõ cửa khuyết của một ông vua trong thâm cung. Quan thị vệ cho mỗi con chim coi một tập ghi tất cả các hành động của chúng; chúng xấu hổ quá, té bất tỉnh đám cát bụi. Nhưng từ đám bụi ấy chúng lại tái sinh thành những ánh sáng; lúc đó chúng mới hiểu rằng chúng với Simurgh chỉ là một, từ đó chúng tan hoà trong Simurgh cũng như bóng tối biến mất dưới ánh sáng mặt trời. Trong các tác phẩm khác, Attar biểu lộ trực tiếp hơn chủ trương phiếm thần của ông: lí trí không thể hiểu được Thượng Đế vì nó không hiểu được chính nó; nhưng tình thương và sự xuất thần nhập hoá có thể đạt tới Thượng Đế được vì Thượng Đế là thực thể và tiềm thể trong mọi vật, là nguồn gốc duy nhất của thế giới. Không một linh hồn nào có thể sung sướng được nếu không tự hoà với cái đó như một phần tử, trong một toàn thể; hợp nhất được như vậy mới là bất diệt. Các tín đồ chính giáo chê những tư tưởng ấy là tà thuyết; một bọn người đối lập phá rối thiêu huỷ hoàn toàn ngôi nhà của Attar. Nhưng ông thì tương đối bất diệt; tương truyền ông thọ một trăm mười tuổi, và trước khi chết, ông đưa hai bàn tay chúc phúc cho một em nhỏ sau này thờ ông là tôn sư và danh tiếng còn lấn cả danh tiếng của ông nữa.
Jalal-ud-Din Rumi (1201-1273) sanh ở Bactres nhưng sống già nửa đời người ở Konia[267]. Một soufi bí mật tên là Shams-i-Tabrizi, lại thuyết giáo trong thị trấn, Jalal nghe rồi xúc động quá, thành lập một hội một hội nổi danh Mauléyis (giáo sĩ nhảy múa) mà hiện nay trung ương vẫn còn ở Konia.
Trong một cuộc đời tương đối ngắn, Jalal viết được mấy trăm bài thơ. Những bài ngắn nhất gom lại trong tập pan (có nghĩa là Tập đoản thi); bài nào cũng hay vì cảm xúc thâm trầm, thành thực, hình ảnh nhiều mà lại bình dị, cho nên tập đó được đặt trên tất cả các thơ tôn giáo, sau Thánh thi. Tác phẩm chính của Jalal, Mathnawi-i-Ma’nawi (Thơ tâm linh), vừa trình bày chủ trương soufi một cách dài dòng, vừa là một anh hùng ca tôn giáo dày hơn toàn thể sự nghiệp của Homère. Đề tài vẫn là vạn vật nhất thể.
“Chàng gõ cửa Người Yêu, và một tiếng ở trong hỏi vọng ra: “Ai đấy?” – và cháng đáp: “Anh đây”. Tiếng ở trong lại bảo: “Nhà này không có Em không có Anh”, và cửa vẫn khép kín. Chàng bèn vô sa mạc, nhịn ăn mà cầu nguyện trong cảnh cô liêu. Một năm sau chàng trở về, lại gõ cửa. Tiếng ở trong lại hỏi: “Ai đấy?”. Và chàng đáp: “Chính em đấy!”. Và cửa mở ra cho chàng vô”.
“Tôi nhìn chung quanh để tìm chàng. Không có trên Thập tự giá. Tôi lại đền thờ các ngẫu tượng, tới ngôi chùa cũ, cũng không thấy dấu vết gì của chàng… Tôi lại điện Kaaba kiếm. Không thấy ở chỗ hẹn của người già và người trẻ ấy. Tôi hỏi Ibn Sina [Avicienne] chàng ở đâu. Chàng không ở trong khu vực của Ibn Sina. Tôi nhìn vào trong tim tôi. Tôi thấy chàng ở đó. Ngoài ra, không chỗ nào có chàng cả”.
“Bất kì hình thể nào anh đã thấy cũng có nguyên hình trong vũ trụ;
Dù hình thể bất diệt rồi thì cũng không sao vì nguyên thể của nó vẫn bất tuyệt,
Bất kì hình thể đẹp nào anh đã thấy, bất kì lời nói thâm thuý nào anh đã nghe,
Dù huỷ diệt rồi thì anh cũng đừng buồn, vì không phải vậy đâu…
Hễ nguồn còn chảy thì còn thành dòng sông,
Trục xuất nỗi buồn ra khỏi đầu anh đi và tiếp tục uống nước dòng sông đó;
Đừng lo thiếu nước vì nước đó vô tận.
Ngay từ khi anh vô thế giới của vật thể,
Thì đã có một cái thang dựng trước mặt anh để anh thoát ra được.
Mới đầu anh là một khoáng vật; rồi sau anh thành thảo mộc;
Rồi anh biến thành sinh vật; cái đó có bí mật gì đâu?
Rồi anh thành người, có tri thức, lí trí và tín ngưỡng…
Sau đó, khi anh tiếp tục đi nữa, thì có lẽ anh sẽ thành một thiên thần…
Anh lại bỏ nốt cái thể thiên thần này đi mà vô trong đại dương kia,
Để cho cái giọt nước là anh đó thành biển cả…
Bỏ “đứa con”[268] đó đi, luôn luôn thành tâm nói “Nhất thể”.
Và sau cùng là Saadi. Dĩ nhiên, tên thật của ông dài hơn nhiều: Musharrif ud-Din ibn Muslih ud-Din Abdallah. Thân phụ ông làm quan trong triều vua Thổ Sad ibn Zangi ở Chiraz; khi ông mồ côi cha, nhà vua nhận ông làm con nuôi và theo tục Hồi giáo, Saadi phải mang thêm tên của cha nuôi. Các học giả còn tranh luận với nhau về năm sanh và năm tử của ông: 1184-1283, 1184-1291, hay 1193-1291; dù sao thì ông cũng sống gần trọn một thế kỉ. Ông bảo: “Hồi trẻ tôi cực kì mộ đạo… giữ thật đúng các nghi thức và trai giới”. Sau khi đậu các bằng cấp ở học viện Nizamiya ở Bagdad, ông bắt đầu cuộc du lịch lạ lùng dài tới ba chục năm, qua các miền Cận Đông, Trung Đông, Ấn Độ, Ethiopie, Ai Cập và Bắc Phi. Ông trải qua tất cả các nỗi gian truân, khốn cùng; ông phàn nàn không có giày để đi cho tới một ngày kia ông gặp một người cụt cả hai chân, “lúc đó tôi mới cảm ơn Thượng Đế đã nhân từ với tôi”. Ở Ấn Độ ông vạch ra được một trò gạt gẫm: một người Bà La Môn núp trong một ngẫu tượng, quay một bộ máy làm cho người ta tin rằng ngẫu tượng có phép thần thông, và ông giết tên Bà La Môn đó; trong những vần thơ vui vẻ, ông khuyên chúng ta xử sự như ông khi gặp bọn bịp bợm công chúng:
“Anh cũng vậy, nếu một ngày kia gặp một trò như vậy,
Thì bóp cổ tên bịp bợm đó đi, đừng tha nó; mà nhớ làm liền nhé!
Vì nếu để cho tên gian ác đó sống,
Thì nó sẽ không ta cho anh đâu, anh tin chắc như vậy đi,
Vậy lần đó tôi lấy đá đập chết tên vô loại ấy, mặc dầu nó la khóc,
Vì anh biết mà, kẻ chết rồi không còn kể chuyện bậy bạ nữa”.
Ông chiến đấu với Thập tự quân, bị tụi “tà giáo” bắt sống, được một thương gia nhận chuộc mạng cho, ông mới được thả. Để đáp ơn, ông cưới con gái thương gia đó. Chẳng bao lâu nàng thành một ác phụ không sao chịu nổi. Ông viết: “Những cái vòng của cái mĩ kết thành sợ d