← Quay lại trang sách

BẢN CHẤT CỦA BỆNH VÀ HỌC THUYẾT VỀ 4 THỨ DỊCH THỂ

Người thầy thuốc hiện đại và người bệnh đều rất thiết tha muốn có một chẩn đoán chính xác - tức là tên của bệnh - nhưng điều này lại không quan trọng mấy đối với thầy thuốc Hippocrates. Mối bận tâm chính của ông ta là tiên lượng, có nghĩa là không chỉ dự đoán diễn biến tương lai của bệnh mà còn cho biết cả đến bệnh sử. Nêu ra được quá khứ và tương lai là một yếu tố nhằm gây ấn tượng cho bệnh nhân và gia đình về kiến thức và tài nghệ của người thầy thuốc. Tiên lượng cũng là điều quan yếu để dự đoán các cơn trở bệnh và tử vong để khi những tình huống này nếu có xảy ra thì cũng không trách cứ thầy thuốc được.

Thay vì ghi lại danh mục các triệu chứng mà không cân nhắc hoặc suy đoán, người thầy thuốc Hippocrates tìm các kiểu thức dấu hiệu và triệu chứng riêng biệt để vẽ ra được diễn biến của một cơn bệnh. Các dấu hiệu chẩn đoán là các đặc trưng của bệnh không phải lúc nào cũng hiển hiện, nhưng phải biết cách tìm. Chỉ người thầy thuốc giỏi mới có thể phát hiện các dấu hiện ẩn khuất bị làm mờ đi do màu sắc bất thường, âm thanh lạ, sốt, hoặc sưng cứng. Nếu cần biết thêm, thầy thuốc có thể cho bệnh nhân thuốc xổ, thuốc gây ói để đem lại sự cân bằng cũng như trạng thái của các chất dịch trong cơ thể người bệnh.

Với Hippocrates, bệnh không phải là một hiện tượng khu trú, nhưng là một sự xáo trộn ảnh hưởng đến toàn bộ người bệnh do sự mất cân bằng của 4 yếu tố - máu, dịch, mật đen và mật vàng. 4 chất dịch cơ thể và tính chất đi kèm - nóng, lạnh, khô, ướt - trong tiểu vũ trụ tức là cơ thể của người bệnh tương ứng với 4 yếu tố - đất, khí, lửa và nước - cấu thành vũ trụ. Nhiều tài liệu sưu tập y học Hippocrates có đưa ra các nhận xét và luận cứ lý thuyết liên quan đến mối liên hệ giữa sức khỏe và bệnh tật và các chất dịch, các tính chất, các yếu tố, nhưng những diễn giải đôi khi lại mù mờ và không nhất quán.

Học thuyết về dịch thể giải thích sức khỏe là kết quả của sự cân bằng và pha trộn hài hòa của 4 thứ dịch thể. Khi một trong những thứ dịch thể này tăng quá sẽ gây ra tình trạng pha trộn bất thường. Tính khí của mỗi người có liên quan đến sự vượt trội tương đối của một trong 4 dịch thể.

Bốn thể dịch và bốn yếu tố..

Tính khí sôi nổi (sanguine), lạnh lùng (phlegmatic), cáu gắt (choleric) và sầu muộn (melancholic) tương ứng đại khái với các kiểu nhân cách khác nhau, và có thể dễ mắc phải các rối loạn về tính cách.

Mặc dù 4 thứ dịch thể về lý thuyết có liên hệ với 4 yếu tố, người thầy thuốc cũng có chứng minh sự hiện diện của các dịch này qua một số quan sát thường gặp. Cho mãi tới gần đây, “phòng thí nghiệm phân tích” duy nhất mà thầy thuốc dùng tới là thông qua ngũ quan. Nói cách khác, mũi và lưỡi trước tiên có vai trò như các nhà hóa học phân tích. Vì thế, để hiểu được bản chất của căn bệnh mà người bệnh mắc, thì tất cả các chất bài tiết, chất tiết, và xú khí phải được phân tích trực tiếp qua các nhận biết của cảm giác. Khi xem xét máu qua các giác quan và lý thuyết về 4 thứ dịch, trong quá trình đông máu của máu có thể giúp ta phát hiện được sự “tách rời” của 4 yếu tố. Phần đen nhất của cục máu có thể tương ứng với mật đen, phần huyết thanh bên trên cục máu rõ ràng là mật vàng, và phần nổi trên cùng là dịch nhày (phlegm). Nói một cách khác, dịch nhầy này có thể giống như nước mũi, mật vàng có thể là dịch đắng chứa trong túi mật, và mật đen có thể là các chất đen đôi khi thấy được trong chất ói, nước tiểu và phân (dấu hiệu chảy máu trong).

Theo lý thuyết y học Hippocrates, thì quá trình mà cơ thể chống trả với bệnh tật chẳng qua chỉ là những hình thức tăng vượt của các chức năng sinh lý bình thường. Bệnh là một trạng thái trong đó cơ thể gặp khó khăn nhiều hơn khi phải ứng phó với môi trường. Việc phục hồi sự cân bằng dịch thể sẽ đi qua nhiều giai đoạn trong đó những chất còn sống ít hoặc không lành trong thể dịch sẽ trở nên đủ “chín muồi” để được tống ra ngoài thông qua dịch thải, chất tiết, hoặc xuất huyết trong cơn nguy kịch, và kết quả cuối cùng là hồi phục hoặc chết luôn. Trong các bệnh cấp tính, sự thải loại các chất không lành thường xảy ra vào một số ngày trọng điểm. Nắm được diễn tiến của bệnh qua theo dõi những ngày trọng điểm cùng với hình thức biểu hiện đặc trưng của các dấu hiệu và triệu chứng, người thầy thuốc có thể đẩy nhanh tiến trình hồi phục nếu điều trị đúng cách.

Bệnh học về thể dịch giải thích được ngay cả bản chất của những bệnh tâm thần cũng như các bệnh thể chất đáng sợ nhất. Thật vậy, không có trước tác nào trong tài liệu y học Hippocrates tấn công sự dốt nát và mê tín một cách mạnh bạo và dai dẳng hơn là bài “Bàn luận về bệnh bị quỷ thần ám”. Hippocrates tuyên bố rằng ngay cả bệnh bị quỷ thần ám, mà ngày nay ta gọi là chứng động kinh, cũng không có gì thần thánh hơn bất cứ bệnh nào khác; bởi vì cũng giống như các bệnh khác, đều có nguồn gốc từ tự nhiên. Nhưng, do sợ hãi những cơn co giật cứ tái diễn, không đoán được trên những người vốn trước đó khỏe mạnh, cho nên những kẻ dốt nát mới gán cho các vị thần thánh. Những ai “chữa” được bệnh bằng các ma thuật thì ủng hộ sự tin tưởng sai lệch về bản chất “thiêng liêng” của chứng bệnh này. Sử dụng cách thanh lọc cơ thể, niệm bùa chú, và các nghi thức cúng bái kỳ quái, đám lang băm đã nhanh chóng gây được tín nhiệm khi người bệnh dường như khỏi bệnh. Khi người bệnh tái phát hoặc tử vong, thì họ đổ lỗi cho thần thánh hoặc do chính bệnh nhân. Người thầy thuốc theo trường phái Hippocrates coi những cách hành nghề giả dối như thế là vô đạo và báng bổ thần thánh.

Trong khi coi khinh cách hành nghề ma thuật, thì Hippocrates lại không bỏ các giấc mộng. Phần lớn các bệnh nhân đều kinh sợ một cách mê tín khi nói về giấc mơ, Hippocrates cố gắng liên kết giấc mơ với tình trạng sinh lý của người bệnh. Một số giấc mơ có thể coi như là điềm báo trước của thần thánh, nhưng một số khác rõ ràng là sự mong muốn đạt được hoàn thành một cái gì đó. Các giấc mơ có nhiều ý nghĩa nhất đối với thầy thuốc khi cho biết trạng thái bệnh tật dưới hình thức tượng trưng bởi vì qua đó nó cũng cho biết cách phải điều trị như thế nào.

Bệnh học về dịch cơ thể có thể giải thích được chứng động kinh, cũng như giải thích bất kỳ chứng bệnh nào khác. (Thật vậy, một trong những vấn đề của thuyết về thể dịch là có thể giải thích dễ dàng mọi thứ và thành ra chẳng giải thích cái gì cả). Hippocrates cho rằng khi đứa trẻ sinh ra bị chứng động kinh nếu cả cha lẫn mẹ đều thuộc nhóm tính tình nóng nảy (phlegmatic), bởi vì chất dịch nhầy (phlegm) có thể bị tích tụ quá nhiều trong thai kỳ và gây tổn thương cho bộ não của thai nhi. Nhiều triết gia thời cổ đại cho rằng tim là nơi sinh ra ý thức, nhưng Hippocrates lại cho rằng não mới giữ vai trò này. Vì thế, dẫn đến suy diễn là các tổn thương ở não mới gây nên những chứng bệnh nguy hiểm nhất.

Thái độ đối với chứng động kinh có thể xem như một loại giấy quỳ tím để đánh giá mức độ hiểu biết toàn vẹn về người bệnh. Rủi thay, nền y học Hippocrates lại không phù hợp với thành kiến chung quanh động kinh, điên khùng và những chứng bệnh được coi là kỳ bí khác. Suốt chiều dài lịch sử, các liều thuốc điều trị động kinh gồm có những phương cách ma thuật và mê tín, cũng như các cách điều trị vừa nguy hiểm và vô bổ đi từ việc trích huyết và đốt cháy mô cho đến cách khoan sọ và cắt bỏ tử cung. Vào cuối thế kỷ thứ 12, vấn đề định nghĩa động kinh được coi là rất rối rắm đến nỗi các thầy thuốc thường nói về “các chứng động kinh” khi muốn người khác hiểu chẩn đoán của mình khác so các quan niệm trước kia coi động kinh là một bệnh lý đơn nhất (unitary). Qua bao thế kỷ tìm tòi, nguyên nhân của động kinh vẫn còn mù mờ, tiên lượng không chắc chắn, và những cách điều trị được chấp nhận thường gây hại nhiều hơn là có hiệu quả.

Học thuyết về thể dịch đã giải thích hợp lý chế độ trị liệu được đề ra nhằm giúp đỡ quá trình lành bệnh tự nhiên qua cách trích huyết, xổ ruột và điều chỉnh chế độ ăn nhằm loại bỏ những thứ dịch có hại và ngăn ngừa sự hình thành các thứ dịch xấu bổ sung. Căn cứ trên những mối nguy hiểm được cho rằng nằm sẵn trong đa số các thực phẩm, người thầy thuốc có thể cho bệnh nhân không ăn gì ngoài nước cháo gạo, mật pha loãng nước, hoặc dung dịch dấm, mật và nước. Thật vậy, để giúp cho cơ thể tự chữa lành bệnh, người thầy thuốc có thể “cắt giảm” chế độ ăn của người bệnh tới mức hầu như bỏ đói.

Mặc dù y học Hippocrates ưa chuộng các cách điều trị nhẹ và đơn giản, nhưng các thầy thuốc người Hy Lạp có thể kê đơn nhiều loại thuốc khác nhau, dưới nhiều dạng như là thuốc bôi, xoa, vòng nâng (pessaries), thuốc viên và tọa dược. Phần lớn các thành phần của thuốc là thảo dược tại chỗ, nhưng có một số được nhập từ Ấn Độ và Ai Cập. Các bài thuốc có thể chứa các thành phần dễ chịu như quế, đậu khấu và nghệ. Ngược lại, một thứ thuốc lợi tiểu được nhiều người biết dành cho các bệnh nhân phù thũng là con bửa củi (can tharides beetles) sau khi đã bỏ đi phần đầu, chân và cánh (con bọ gây bỏng da hoặc ruồi Tây Ban Nha từ lâu đã được dùng dưới dạng phơi khô nghiền thành bột để làm thuốc lợi tiểu hoặc thuốc cường dương khi dùng trong hoặc làm chất kích thích da nếu dùng ngoài).

Tuy nhiên, một số ca cần đến các phương pháp mạnh hơn như giác hút, rạch da, cắt mạch, đốt mô và các hình thức phẫu thuật khác. Căn cứ theo một trong những ẩn dụ chỉ đạo cho việc thực hành y học Hippocrates, “Cái gì mà thuốc không chữa được, thì dao sẽ làm được; cái gì mà dao không làm được, thì nhờ đến cách đốt mô”; khi đốt mô không giải quyết được lúc ấy mới được coi là không thể chữa được”. Nói chung, “ngoại khoa” có nghĩa là điều trị các vết thương, gãy xương, trật khớp và các thương tổn chấn thương khác. Trong những trường hợp như thế, kinh nghiệm của người thầy thuốc và các kỹ năng học được thảy đều quan trọng bởi vì các thầy thuốc của trường phái Hippocrates không làm giải phẫu xác chết hoặc thực hiện việc mổ xác động vật theo bài bản.

Vì thế, chỉ có những cơ hội được quan sát trên các bệnh nhân bị thương tích và kiến thức chung về giải phẫu học của động vật mới giúp làm rõ hơn “chiếc hộp đen” đó là cơ thể con người.

Khi xử lý các vết thương và vết loét, những đơn thuốc đơn giản và sự sạch sẽ giúp cho cơ thể lành bệnh mà không bị viêm tấy hoặc mưng mủ nhiều. Nhiều loại thảo dược được sắc bằng nước hoặc trộn với rượu vang, được dùng để rửa hoặc băng bó vết thương. Những đơn thuốc có chứa kim loại như đồng và chì dưới dạng muối hoặc oxide được dùng để làm se và làm dịu vết thương. Băng bó vết thương và gãy xương là một hình thức nghệ thuật qua đó người thầy thuốc chứng tỏ được sự nhanh nhẹn, khéo léo và tinh tế.

Khi cần thiết, thầy thuốc có thể khâu vết thương, khoan xương sọ, làm xẹp phổi nhân tạo, và nhét gạc và ống típ vào lồng ngực để tháo mủ, căn cứ theo bệnh sử các trường hợp được ghi lại và trình bày trong tập “bàn về bệnh và vết thương”. Tuy nhiên, khi vết thương bị hoại thư, thì người thầy thuốc không muốn can thiệp, bởi vì khi đoạn chi có thể gây tử vong vì choáng và mất máu. Cũng như thế, thầy thuốc chuộng các điều trị túi mủ bằng thuốc và đợi cho vỡ mủ tự nhiên hơn là lấy dao rạch tháo mủ. Hippocrates muốn học trò chọn cách điều trị nào ít gây hại cho người bệnh nhất. Trong một bài giảng y học Hippocrates ‘Luận về các vết thương ở đầu’, tác giả mô tả cấu trúc của xương sọ và mối liên hệ giữa mức độ trầm trọng của các tổn thương ở đầu và khả năng sống sót. Người thầy thuốc được khuyến khích phải xem xét kỹ càng vết thương và đánh giá phản ứng đầu tiên của bệnh nhân đối với tổn thương. Thầy thuốc được khuyên phải tìm những dấu hiệu dự báo tử vong chẳng hạn như sốt, mưng mủ, xương bị đổi màu, bệnh nhân cuồng sảng và lên cơn co giật. Nếu bệnh nhân có khả năng sống sót, thì các phương án điều trị có thể là đắp thuốc, băng bó, thậm chí khoan sọ nữa.

Dù mức độ thành công của môn đệ Hippocrates có đạt như thế nào đi nữa khi chăm sóc cho từng người bệnh riêng lẽ, thì trận dịch hạch giáng xuống Athens năm 430 trước CN trong trận chiến Peloponnese cho thấy rằng tài nghệ của họ không cáng đáng được một bệnh dịch khi xảy ra. Có một lời cảnh báo nổi tiếng của Hippocrates khi một bệnh dịch xảy ra thì hành động tốt nhất là ‘‘cito, longe, tarde,’’ thường được dịch: “chạy cho nhanh, chạy cho xa, và quay lại muộn”. Bức tranh sống động nhất của trận dịch hạch không phải do thầy thuốc ghi lại, mà do sử gia Thucydides người Hy Lạp. Do sống sót sau khi trải qua bệnh này và lại được chứng kiến nhiều trường hợp thương tâm, cho nên Thucydides có đầy đủ tư cách để viết về bệnh dịch hạch.

Sau một năm hầu như không có bệnh, bệnh dịch hạch lại tấn công thành Athens đột ngột đến nỗi lúc đầu người dân ở đây cho rằng tất cả các giếng nước đều bị bỏ thuốc độc. Nhiều người đang khỏe mạnh bổng nhiên bị nhức đầu, hắt hơi, khản tiếng, đau vùng ngực, ho, ói và lên cơn co giật dữ dội. Mặc dù sờ vào da không thấy quá nóng, nhưng da lại trở nên đỏ bầm, đầy những bóng nước nhỏ và loét ra. Tử vong thường xảy ra từ ngày thứ 7 đến ngày thứ 9, với những ai còn gượng được, thì bệnh lại đi vào ruột, gây loét ruột và ỉa chảy. Một số người bị rụng ngón tay, chân hoặc mù mắt. Những người khác lại bị lú lẫn rất nặng đến mức không còn nhớ đến tên mình hoặc nhận mặt được người thân thuộc nhất. Giáo sĩ và thầy thuốc đều bó tay trước bệnh dịch hạch và chính họ cũng bị bệnh quật ngã nữa.

Đặc điểm đáng sợ nhất của bệnh này, theo Thucydides, là người bị bệnh bị trầm uất còn dân chúng nói chung thì buông tay không màng gì đến đạo lý và phong tục. Người ta quên đi lòng kính sợ thần thánh và luật pháp; vì không chắc là sẽ sống đến lúc thấy hành vi sai trái bị trừng phạt. Còn những người sống sót qua được vụ dịch thì lại muốn đem thân chăm sóc người ốm bởi lẽ ai đã bệnh rồi thì không mắc bệnh lần thứ hai. Mặc dù sự mô tả về bệnh dịch của Thucydides rất sinh động, nhưng không ai biết được đó là bệnh gì. Có nhiều chẩn đoán được đưa ra trong đó có sốt chấy rận, bệnh tinh hồng nhiệt, bệnh dịch hạch, bệnh trái trời, sởi và bệnh than. Dù bệnh dịch đó là thứ gì, thì đây cũng là một ví dụ hùng hồn về một chủ đề xuyên suốt hễ cứ mỗi lần có chiến tranh và bệnh dịch thì giềng mối xã hội trở nên rệu rã.

Người thầy thuốc cũng bị thách đố bởi những thứ bệnh lưu hành như sốt rét vốn cứ đeo đuổi tấn công vùng Địa Trung Hải. Tác nhân gây bệnh và cơ chế lây truyền sốt rét chỉ được phát hiện vào cuối thế kỷ 19, nhưng mối liên hệ giữa đầm lầy và bệnh sốt rét đã được nghĩ tới từ thời Hippocrates. Khi mới được du nhập vào một vùng nào đó, sốt rét là một bệnh dịch gây nhiều tử vong, nhưng dần dà bệnh này trở thành bệnh lưu hành dai dẳng. Thay vì làm cho nạn nhân chết hoặc tạo ra miễn dịch cho nạn nhân, thì sốt rét lại làm cho người bệnh yếu đi, dễ bị những cơn sốt về sau và dễ mắc những bệnh khác. Người dân nhận thấy có sự liên quan giữa các mùa và mọi thể bệnh khi lên cơn sốt. Do sức sản xuất nông nghiệp bị giảm từ năm này sang năm nọ khi nhiều người trong cộng đồng mắc phải sốt rét, nên đưa đến tình trạng suy dinh dưỡng, đói kém và khả năng dễ mắc bệnh tăng lên. Bệnh sốt rét được coi như là tên sát nhân lớn nhất trong toàn bộ lịch sử nhân loại và là một yếu tố chính làm suy tàn nền khoa học, nghệ thuật và văn học của người Hy Lạp.

VIỆC THỜ PHỤNG ASCLEPIUS, VỊ THẦN Y HỌC

Mặc dù Hippocrates là khuôn mặt nổi trội trong các tài liệu hiện đại của nền y học Hy Lạp, vào thời cổ đại vị thần y này chia sẻ phạm vi hoạt động với một thầy lang bắt đầu nghề nghiệp như là “người thầy thuốc không mắc sai lầm” trong trường ca Iliad. Chính trong thời đại của Hippocrates, chứ không phải thời Homer, Asclepius được nâng lên vị trí thần thánh. Đây là thời đại có sự căng thẳng cực độ giữa sự tự do trí thức và sự bất dung. Không kính trọng thần và “vô thần” là những tội có thể bị trừng trị tử hình hay đày đi biệt xứ. Thậm chí người nào quá quan tâm đến bản chất của vũ trụ cũng có thể bị coi đó là dấu hiệu điên khùng chẳng hạn như trường hợp Democritus xứ Abdera, người đưa ra lý thuyết nguyên tử. Khi Democritus bắt đầu thực hiện một loại các công trình giải phẫu đã hiểu rõ về cấu trúc và chức năng ở động vật, thì hàng xóm của ông xem những giải phẫu học này là các dấu hiệu của sự điên loạn, vượt ra ngoài giới hạn được chấp nhận của tính lập dị của các học giả. Theo truyền thống, Hippocrates được mời đến để chữa bệnh cho nhà triết học, nhưng sau khi nói chuyện một hồi với Democritus, người thầy thuốc cho dân chúng Abdera biết là chính họ mới còn điên hơn Democritus, vốn là người khôn ngoan và đầy lý trí.

Như đã chứng minh trong lịch sử của các nền văn minh khác, cái mà ngày nay chúng ta gọi là nền y học mang tính khoa học hiện đại đã không hoàn toàn thay thế các phương thức truyền thống, dân gian, hoặc tôn giáo trong việc chữa bệnh. Vì thế, cũng không có gì ngạc nhiên khi nền y học Hippocrates đã không chiếm chỗ hoàn toàn nền y học tôn giáo trong thế giới cổ đại. Đối với những dạng bệnh lý mạn tính, có giai đoạn và không dự đoán được, như viêm khớp, thống phong, nhức nửa đầu, nhức đầu, động kinh, bất lực, vô sinh và sốt rét, khi người bệnh cảm thấy thầy thuốc không giúp được gì thì các thầy phù thủy và tu sĩ luôn mang lại hy vọng và thậm chí ảo tưởng là chữa lành trong thời khoảng giữa hai cơn bệnh. Một số sử gia tin rằng vốn dĩ có sự phát triển mạnh của nền y học ma thuật và mê tín vào thời đại Hippocrates có thể một phần là do gánh nặng ngày càng tăng của bệnh sốt rét. Còn nữa, mặc dù có sự khác biệt giữa y học Hippocrates và y học tôn giáo, nhưng Asclepius và Hippocrates cùng có một số nhận định cơ bản về phương thức tối ưu để chữa trị. Asclepius dạy rằng “trước hết là bằng lời nói, sau đó là cây cỏ và cuối cùng mới nhờ tới dao mổ”.

Trong nhiều thế kỷ, việc tôn thờ Asclepius lan rộng ra khắp thế giới Hy Lạp, tìm được chỗ đứng tại Rome, và chỉ nhường chỗ dần cho nền văn minh Cơ Đốc giáo nắm toàn quyền giải thích ý nghĩa của bệnh tật và sự chữa lành. Các tài liệu mang tính huyền thoại về cuộc đời và thời đại của Asclepius đều thống nhất Asclepius là con của Apollo, nhưng lại bất đồng về địa điểm và cách mà ông này ra đời. Mẹ ông ta vừa là một nữ thần sông núi hoặc là một người đàn bà có tên là Coronis và bị Artemis (chị của Apollo) giết chết. Khi làm lễ hỏa thiêu cho Coronis tội nghiệp, Apollo quyết định mang con trai đến gởi cho Chiron, quái vật đầu người mình ngựa, ông này vốn đã dạy dỗ cho rất nhiều vị anh hùng. Theo Homer, thì Chiron đã dạy cho Achilles và Asclepius về bí mật của các thứ thuốc làm giảm đau và cầm máu. Nhờ thầy dạy, Asclepius thông thạo cách sử dụng dao kéo và học được các đặc tính bí mật của cây thuốc. Ngoài việc chữa lành cho người ốm, Asclepius còn làm người chết sống lại, khiến cho Pluto Diêm vương kêu ca với Zeus. Sợ rằng lũ phàm nhân sẽ xao nhãng các thần nếu họ biết được rằng thầy thuốc phàm tục có thể cứu vớt được mạng sống của họ, cho nên Zeus hạ sát người con trai của Apollo. Cuối cùng, Asclepius trở thành vị thần y học và được thờ trong các đền thờ nguy nga, được các tu sĩ tự cho là môn đệ của ngài chăm sóc.

Các đền thờ Asclpeius được xây dựng tại Cos, Cnidus, Epidaurus, và những nơi khác đều có các nguồn nước tinh khiết và cảnh quan tráng lệ. Trong các minh họa tại đây, vị thần ngành y thường được vẽ cùng với mấy người con gái là Hygeia và Panacea, Telesphorus vị thần của sự hồi phục. Giống như Lourdes và những nơi sùng bái chữa bệnh hiện đại, các ngôi đền thờ Asclepius trở thành những chốn mà người hành hương hy vọng sẽ gặp được những cách chữa bệnh thần kỳ. Thông tin về nền y học đền thờ có được từ những nghiên cứu các di chỉ khảo cổ học, các phiến đá thờ phượng (votive tablets) ghi lại các câu chuyện của bệnh nhân được toại nguyện, các mô hình mô tả các cơ quan trong cơ thể được chữa lành, và những dẫn chứng về sự thần thông của đền thờ qua các nguồn tài liệu văn chương. Nhưng ngay cả từ thời Hy Lạp cổ đại, có kẻ hoài nghi đã châm biếm những lời chứng đó chỉ là trò lừa gạt cố ý hoặc là những lời mê muội của đám bệnh tưởng (hypochondriac) và họ nhấn mạnh rằng đúng ra còn phải có nhiều bảng khắc nữa để ghi lại lời của những ai không được chữa khỏi.

Cũng nằm trong đống đổ nát tại ngôi đền ở Epidaurus, có một điện thờ dành cho Hygeia, có thể là nữ thần nguyên bản Hy Lạp chăm lo về sức khỏe. Giống như các bậc hiền giả Trung Quốc không muốn chữa bệnh cho người bệnh, Hygeia dạy mọi người cách đạt được sức khỏe và trường thọ bằng cách giữ một lối sống đúng đắn. Về sau người ta không thờ Hygeia độc lập nữa mà gộp vào thờ chung với Asclepius và vai trò của bà bị hạ thấp từ người hành nghề độc lập xuống thành người phụ tá. Aslepius cũng nhận được sự giúp đỡ của chó và rắn thiêng. Khác với Gilgamesh, người anh hùng vùng Lưỡng Hà, người đã bị con rắn lấy mất thứ cỏ chữa bệnh, Aslepius lại nhận được thứ cỏ quá giá từ một con rắn thiêng. Vì thế, người ta thường vẽ Asclepius cầm cây gậy có con rắn quấn quanh. Caduceus, huy hiệu của ngành y hiện đại, có hình hai con rắn quấn quanh một cây gậy có cánh, dường như để làm tăng thêm sức mạnh cho con rắn, nhưng thực ra hình tượng này khá giống với chiếc đũa thần của thần Mercury, người đưa tin và là thần hộ mệnh cho các nhà buôn và đám đạo chích.

Các môn đệ của Asclepius rêu rao rằng tất cả mọi người đến đền thờ đều được chữa khỏi bệnh. Có khả năng là họ đạt được kỷ lục tuyệt vời như thế do cách chọn lựa cẩn thận người bệnh. Những trường hợp bệnh lui tạm thời và bệnh hồi phục tự phát gặp trong một số những rối loạn tâm thể và những chứng bệnh nhẹ có khả năng tự hồi phục đều là những tình huống dễ thành công đối với tất cả các hệ thống y tế. Tuy nhiên, trong tác phẩm Nền cộng hòa của Plato, Socrates cho rằng Asclepius không có ý đồ chữa trị cho những ca bệnh quá nặng. Thậm chí vị thần chữa bệnh cũng không kéo dài mạng sống của những ca không đáng cứu hoặc cho phép những người cha yếu đuối sinh ra những đứa con còn bệnh hoạn hơn.

Phần quan trọng nhất của nền y học đền thờ được gọi là “sự ấp mộng” (incubation) hoặc là ngủ trong đền thờ. Ấp mộng là một trong những cách mà người thời cổ đại thường thực hiện để tìm kiếm sự hướng dẫn qua các giấc mơ gặp thần thánh sau khi đã trải qua một loạt các nghi thức mào đầu như nhịn ăn, cách ly trong một thời gian dài, tự hành hạ mình hoặc uống các thứ thuốc gây ảo giác. Một dạng khá đơn giản của nghi thức được nhiều người làm này là trải một tấm da thú và nằm ngủ trước ảnh thần Asclepius. Một số người bệnh cho biết là bệnh khỏi ngay sau khi được vị thần chạm tới hoặc được mấy con rắn thiêng và chó thiêng canh gác đền thờ liếm vào người. Những bệnh nhân may mắn cho biết là chính Asclepius hiện ra trong giấc mơ điều trị của họ. Đôi khi vị thần này biểu họ dùng những món thuốc đơn giản chẳng hạn như các loại rau cải để chữa bón, nhưng Asclepius cũng chỉ dẫn cho bệnh nhân lấy máu bôi lên mắt mình hoặc bơi trong các dòng sông buốt giá. Trong một số tình huống, bệnh nhân cảm thấy khỏe ra hoặc khỏi bệnh là do sự kết hợp giữa việc nghỉ ngơi, không khí trong lành, ăn uống tốt, đầy hy vọng và sự ám thị gặp tại các đền thờ thần Asclepius. Các nghi thức tôn giáo và sự giải tỏa những căng thẳng và lo lắng xảy ra sau khi nhận những lời chỉ dạy của các vị thần có thể đã chữa được nhiều chứng bệnh tâm thể và an ủi cho nhiều bệnh nhân ngay cả khi không có cách chữa trị chuyên biệt.

Phụ nữ không được phép sinh con trong khuôn viên đền thờ, nhưng Asclepius chấp nhận nhiều ca sản phụ khoa khó, nhất là vấn đề vô sinh. Nhiều phụ nữ hiếm muộn cho biết là họ có thai sau khi đến đền thờ. Tuy nhiên, như lời khai của Ithmonice, người xin các vị thần xem mình có thể có thể có thai con gái hay không, thì những người cầu khẩn nên rất thận trọng khi đưa ra yêu cầu. Ám chỉ rằng mọi biến chứng đều có thể xảy ra, Asclepius hỏi Ithmonice rằng liệu còn muốn điều gì nữa không, nhưng bà này không nghĩ ra điều gì khác. Sau khi mang bào thai trong bụng 3 năm, Ithmonice lại đến xin thần một ân huệ khác. Asclepius nhắc Ithmonice biết rằng do bà này chỉ xin có thai và không nói gì đến việc sinh nở, nhưng thần cũng hào phóng cho bà này một đề nghị mới. Ngay sau khi Ithmonice ra khỏi phạm vi đền thờ, thì liền sinh ra một đứa con gái.

Căn cứ theo những chứng cứ, các bệnh nhân biết ơn đã ca ngợi vị thần đã chữa các chứng nhức đầu, liệt chân tay, yếu mệt và chứng mù mắt. Một người nam kêu rằng mình đã nuốt phải giống đỉa và một người nữ cho rằng trong bụng mình có giun sán đã thú nhận là mình đã được vị thần mổ bụng, lấy ra giun sán và sau đó đóng vết mổ ở bụng lại. Ngay cả những vấn đề nhỏ nhặt cũng được thần quan tâm. Một người nam đến đền thờ để xin được giúp đỡ vì bị hàng xóm chế nhạo bị hói đầu. Khi ngủ lại trong đền thờ, vị thần đã xức thuốc lên đầu người này làm cho tóc mọc lại rậm rạp đen nhánh.

KHOA HỌC VÀ Y HỌC THÀNH ALEXANDRIA

Trong thế giới cổ đại, thành phố Alexandria, đặt theo tên của Alexander Đại đế (356-323 trước CN) ở Ai Cập, là biểu tượng của sự giàu có và ổn định, là sự kết hợp các truyền thống cổ xưa của Ai Cập với các yếu tố năng động nhất của nền văn minh Hy Lạp. Bảo tàng và thư viện nằm trong số những kho báu lớn nhất của thành phố. Các học giả làm việc tại các nơi này dưới sự bảo trợ của nhà cầm quyền Alexandria, đã tham gia vào một thử nghiệm trí thức chưa hề có tiền lệ. Theo một số phỏng đoán thì thư viện Alexandria chứa trên 700.000 cuộn sách. Các thủ thư ở đây đã sưu tầm, tịch thu, chép lại và hiệu chỉnh nhiều bản thảo trong số đó có những tài liệu mà hiện nay được xếp vào tổng tập y học Hippocrates. Khi thảo luận về tính chân thực của nhiều tác phẩm trong tổng tập Hippocrates, Galen xứ Pergamum cho rằng nhiều nhà cầm quyền thành phố do quá mong muốn củng cố thư viện cho nên họ đã tịch thu mọi thứ sách vở nào tìm thấy trên các con tàu khi cập cảng này. Galen cảnh báo rằng đã có nhiều tác phẩm giả tạo đã được soạn ra để nhằm thỏa mãn tính say mê sưu tập sách của người dân thành Alexandria. Người ta nói rằng của viện bảo tàng có đầy các cơ sở tráng lệ với các vườn thực vật và vườn thú, giảng đường, các phòng nghiên cứu và giảng dạy. Để khích lệ việc trao đổi tư tưởng, các học giả dùng cơm chung trong sảnh lớn của thư viện; thức ăn miễn phí còn lương của các giáo sư được miễn thuế. Rủi thay, hiện nay không có tài liệu nào còn sót lại và bằng chứng cho biết việc nghiên cứu y học đã từng thực hiện tại viện bảo tàng cũng mơ hồ.

Nhiều ngành khoa học đã phát triển mạnh tại Alexandria, mặc dù việc nghiên cứu chủ yếu chỉ hướng vào những ngành có ứng dụng thực tiễn như y học và kỹ thuật. Các chuyên gia y học được cho là đã giám sát các việc xử lý môi trường của thành phố và quân đội và đào tạo bác sĩ quân y. Quan trọng nhất là, có một thời gian tuy ngắn ngủi và hiếm hoi, việc mổ xác người không những được chấp nhận mà lại được khuyến khích mạnh. Có lẽ truyền thống mổ banh xác ra để lấy đi một số bộ phận cơ thể trong nghi thức ướp xác của người Ai Cập đã giúp cho họ vượt qua được ác cảm truyền thống của người Hy Lạp đối với việc cắt xẻo cơ thể người chết. Các nhà khoa học thành Alexandria đã tham gia xây dựng hai chủ đề chính của lý thuyết y học phương Tây: một là việc giải phẫu theo hệ thống cho ta biết được những thông tin cơ bản về cấu trúc và chức năng của cơ thể; hai là, kiến thức này tự nó cũng đã có giá trị, ngay cả khi trước mắt chẳng đưa lại giá trị thực tiễn nào trong y học lâm sàng, chăm sóc người bệnh hoặc y tế công cộng.

Đối với y học, thời kỳ Hy Lạp (xấp xỉ từ lúc Alexander mất đến năm 30 trước CN, khi người La Mã sáp nhập Ai Cập) là thời kỳ nổi tiếng nhất đối với công trình của các nhà giải phẫu học nổi tiếng nhất hoặc tai tiếng nhất - Herophilus (khoảng 330/320-260/250 trước CN) và Erasistratus (khoảng 310-250 trước CN). Tiếc thay, không có nhiều thông tin trực tiếp về thời kỳ Alexandria được lưu giữ cho nên mối liên hệ chính xác giữa các nhà giải phẫu học này và thành phố Alexandria vẫn còn chưa rõ. Các sử gia nhất trí rằng cả Herophilus lẫn Erasistratus đều là các nhà giải phẫu học khéo tay đã tận tình lợi dụng cơ hội để tiến hành các nghiên cứu trên cơ thể con người, nhưng vẫn còn chưa rõ là liệu các nhà giải phẫu học của thời kỳ này có thực hiện một số trong các nghiên cứu của họ trên con người sống hoặc chỉ khu trú vào việc mổ xác chết. Các nhà giải phẫu học cũng sử dụng bệnh nhân và sinh viên của mình làm vật thí nghiệm trong các nghiên cứu ít xâm lấn hơn. Khi các nhà thần học Thiên Chúa giáo như Tertullian và St. Augustine muốn tìm bằng chứng để tố cáo các hành động ghê tởm của bọn ngoại đạo, họ chỉ ngay vào Herophilus tiếng tăm và tố cáo ông ta đã hành hạ 600 người cho đến chết. Nhà bách khoa La Mã Celsus đã kết tội Herophilus và Erasistratus đã thực hiện mổ sống trên các tù nhân do nhà cầm quyền Alexandria giao cho họ. Trong lúc những người kết tội này rõ ràng không nhìn thấy tận mắt sự việc, một số sử gia chấp nhận luận điệu của họ, một số giữ thái độ hoài nghi.

Mức độ và thậm chí sự hiện diện của việc mổ trên người sống trong thời kỳ Alexandria vẫn còn lắm tranh luận bởi vì những tài liệu của Herophilus và Erasistratus không còn và chúng ta chỉ biết qua những lời chỉ trích từ kẻ thù của họ. Không thể coi những lời tố cáo xuất hiện hàng trăm năm sau đó là bằng chứng dứt khoát, nhưng cũng không có lý do gì

HÌNH

Alexander đại đế và các thầy thuốc. Trước khi chết, Alexander được cho là đã có nói “Ta chết vì có quá nhiều thầy thuốc bên cạnh”.

đặc biệt để tin rằng các nhà cầm quyền đã cấm cản không cho mổ người sống, nhất là khi nạn nhân là tội phạm hoặc tù nhân chiến tranh. Điều chắc chắn là, những sự tàn ác được ghi chép đầy đủ xảy ra trong thế kỷ 20 cho thấy rằng không có giới hạn cho sự sa đọa của con người, dù đó là do cá nhân hoặc do nhà nước bảo trợ. Cũng không có sự kiện nào đánh dấu sự khởi đầu của thiên niên kỷ mới có thể làm thay đổi những kết luận đầy bi quan như thế. Dù rằng những hoàn cảnh trong thời kỳ Hy Lạp đã tạo cơ hội cho việc nghiên cứu giải phẫu học một cách hệ thống, nhưng mổ trên người sống vẫn được coi là điều gớm ghiếc, gợi nên những mối khiếp sợ kiểu mê tín, và tạo nên tiếng xấu cho Herophilus và Erasistratus.

Herophilus, Erasistratus, và các đồng nghiệp của họ tham gia xây dựng một ngành khoa học hoàn toàn mới về con người thay vì một hệ thống triết lý trừu tượng. Lập luận cho rằng Herophilus sẽ không phạm phải một số sai lầm nếu ông ta giải phẫu người sống đã không đứng vững trước các quan niệm có sẵn về nhận thức và lý giải, và sự khó khăn nội tại của các nghiên cứu giải phẫu học mang tính đổi mới. Dù hoàn cảnh nào giúp cho công việc của Herophilus và Erasistratus thuận lợi đi nữa thì việc mổ người sống cũng không kéo dài được lâu. Việc mổ xác người có lẽ đã chấm dứt vào cuối thế kỷ thứ hai trước CN nhưng các nhà giải phẫu học thành Alexandria có lẽ còn sử dụng bộ xương người để nghiên cứu và dạy học thậm chí sau khi họ bị buộc phải chuyển việc mổ xác và mổ sống trên các loài động vật khác.

Trong phần nghiên cứu hệ tuần hoàn, Herophilus ghi nhận sự khác biệt giữa các động mạch, với thành mạch đập mạnh và các tĩnh mạch, với thành mạch tương đối yếu. Ngược lại với giả định đương thời cho rằng tĩnh mạch mang máu còn động mạch mang chất khí, Herophilus cho rằng cả hai loại mạch đều mang máu. Tò mò vì những thay đổi trong nhịp mạch liên quan đến sức khỏe và bệnh tật, Herophilus tìm cách đo lường nhịp đập của mạch bằng cách sử dụng một đồng hồ nước được phát minh tại thành Alexandria.

Lúc nào cũng hoài nghi, cho nên Herophilus cho rằng mọi lý thuyết sinh lý và bệnh lý học đều mang tính giả thuyết và tạm bợ, kể cả thuyết về các chất dịch của Hippocrates. Nếu ông không hoàn toàn bác bỏ môn bệnh học về dịch thể, thì dường như ông cũng thiên về lý thuyết 4 tính năng hướng dẫn cuộc sống (life-guiding faculties) đang cai quản cơ thể: tính năng nuôi dưỡng nằm ở gan và các cơ quan tiêu hóa, khả năng làm ấm ở tim, một tính năng cảm giác hoặc nhận thức ở các sợi thần kinh và một lực lượng lý luận nằm ở não. Trong thực hành lâm sàng, dường như Herophilus chuộng cách can thiệp tích cực hơn là cách được Hippocrates khuyến cáo và có lẽ ông ta đã sử dụng quan niệm các đặc tính nóng-lạnh, ướt-khô để làm mốc trước khi đưa ra các quyết định điều trị. Y học theo trường phái Herophilus nổi danh với cách trích huyết mạnh tay và một hệ thống phức tạp các thứ thuốc, nhưng nhà giải phẫu học này dường như khuyến khích học trò của mình nên làm quen với môn dinh dưỡng, nội khoa, phẫu thuật và sản khoa.

Không biết gì nhiều về Herophilus, ngoại trừ việc có lẽ ông ta đã học ngành y với Praxagoras ở Cos, và ông cũng được cho là tác giả của trên 50 quyển sách, trong đó có quyển Bàn về giải phẫu học, Bàn về đôi mắt, và một quyển cẩm nang dành cho nữ hộ sinh, nhưng hiện nay người ta chỉ còn giữ được một số đoạn trích. Không có bằng chứng trực tiếp cho biết Herophilus là thành viên phụ trách thư viện thành Alexandria, hoặc việc ông đã từng thực hiện việc mổ người sống hoặc mổ xác tại cơ sở này. Tuy thế, việc ông ta kiếm được xác chết, và có lẽ tù nhân còn sống, là nhờ sự giúp đỡ của chính quyền.

Dựa trên kết quả của các nghiên cứu rộng rãi về hệ thần kinh, bao gồm sự gắn kết giữa não bộ, tủy sống và các sợi thần kinh, Herophilus bác bỏ ý kiến của Aristotle cho rằng tim là cơ quan quan trọng nhất của cơ thể và là trung tâm của sự thông minh. Herophilus lập luận rằng não là trung tâm của hệ thần kinh. Ông cũng mô tả hệ thống tiêu hóa, nhắc nhở về sự biến thiên hình dạng của gan và sự khác biệt giữa gân và thần kinh. Đối với Herophilus, sức khỏe và điều tốt nhất. Câu cách ngôn này được gán cho ông, “Khôn ngoan và nghệ thuật, sức mạnh và sự giàu có, tất cả đều vô ích nếu không có sức khỏe”. Ông cũng được coi là người đã nói: “Người thầy thuốc giỏi nhất là người có thể phân biệt điều có thể với điều không thể”. Ông khuyên các thầy thuốc phải thành thạo khoa dinh dưỡng, thể dục, thuốc men, phẫu thuật và sản khoa. Là những người hành nghề y, các môn đồ của ông ưa làm trích huyết và sử dụng quá mạnh tay những hỗn hợp thuốc phức tạp.

Theo một câu chuyện mà nhiều khi chỉ mang tính huyền thoại, một người phụ nữ thành Athens tên là Agnodice, là một trong những học trò gắn bó với Herophilus. Cảm thấy buồn vì nỗi khổ của phụ nữ thà chịu chết còn hơn bị thầy thuốc nam giới khám, Agnodice cải trang thành đàn ông để học nghề y. Agnodice được các bệnh nhân tri ân, nhưng khi bị phát hiện, bà ta bị truy tố vì đã vi phạm luật lệ cấm không cho phụ nữ học y khoa. Các bệnh nhân trung thành của bà được cho là đã cảnh báo các công tố viên nam giới rằng họ sẽ trở thành kẻ thù tàn ác của giới phụ nữ nếu họ kết án tử hình người thầy thuốc nữ giới duy nhất của họ. Câu chuyện của Agnodice đã được kể lại hàng trăm năm nhằm tập hợp sự ủng hộ việc cho phép phụ nữ được học nghề y. Thật vậy, khi viết về các bệnh của phụ nữ, Hippocrates đã bàn đến vấn đề được nêu ra trong câu chuyện của Agnodice. Phụ nữ thường không muốn bàn các vấn đề của họ với các thầy thuốc nam giới khiến cho những chứng bệnh đơn giản chuyển thành bệnh không chữa khỏi được.

Khi các học giả thời Phục hưng muốn phá vỡ cái uy quyền quá bóp nghẹt của các ông thầy thời cổ đại, nhất là của Galen, thì hình ảnh Herophilus bị bỏ quên từ xa xưa và bị lăng mạ lại được ca tụng là “Vesalius của thời cổ đại”. Tước hiệu này cũng được áp dụng cho Erasistratus, một khuôn mặt hấp dẫn và khá bí hiểm, người đã bị Galen công kích vì cái tội không thể nào tha thứ được là đã bác bỏ triết lý y học của Hippocrates. Galen đã viết hai quyển sách chống lại Erasistratus và hễ có cơ hội không tiếc lời phê phán những tư tưởng của ông này. Galen cho rằng Erasistratus và Herophilus sống cùng thời, nhưng có lẽ Erasistratus trẻ hơn Herophilus ít nhất 30 tuổi. Theo một câu chuyện trong tiểu sử, khi Erasistratus biết là mình mắc bệnh ung thư không chữa được, ông ta tự tử còn hơn phải chịu đựng cảnh suy sụp sức khỏe không cách nào kiềm chế được.

Giống như Hippocrates, Erasistratus sinh ra trong một gia đình làm nghề y. Không biết gì nhiều về cuộc đời của ông, ngoài việc ông quyết định từ bỏ không hành nghề y mà chú tâm vào nghiên cứu giải phẫu học và sinh lý học. Trong một câu chuyện nhỏ do Galen kể lại, Erasistratus nói đến niềm vui nghiên cứu và cách làm thế nào để cho nhà nghiên cứu dành hết thời gian tìm cách giải quyết mọi khía cạnh của một vấn đề khoa học. Các tài liệu thời cổ đại cho rằng Erasistratus đã viết trên 50 đầu sách, trong đó có các tài liệu chuyên nói về sốt, trích huyết, chứng bại liệt, thuốc, chất độc và dinh dưỡng. Có lẽ Erasistratus đã thực hiện các nghiên cứu của mình tại cung điện Antiochus tại Seleucia hơn là tại Alexandria, nhưng những mối quan tâm về nghiên cứu của Herophilus và Erasistratus lại giống nhau hết sức. Tuy nhiên, có một số chỉ dẫn cho thấy Erasistratus chú ý nhiều đến các nguyên nhân xa và che khuất của bệnh hơn là Herophilus. Galen tố cáo Erasistratus là đã bác bỏ nền triết lý về y học của Hippocrates để đi theo những lời dạy của Aristotle. Giống như Herophilus, Erasistratus có lẽ cố tìm cách thay thế thuyết dịch thể bằng một học thuyết mới. Trong trường hợp Erasistratus, hình như đây là môn bệnh lý học về các chất rắn, một ngành có lẽ hướng ông thiên nhiều về việc nghiên cứu giải phẫu học hơn là cách tiếp cận với khoa điều trị.

Erasistratus được coi là một thầy thuốc tài ba, người đã gạt bỏ ý tưởng là người thầy thuốc thực hành chỉ cần có một sự hiểu biết chung về cơ thể và cách hoạt động của cơ thể này để có sức khỏe là đủ. Ông lập luận, nhiều bệnh tật có thể dự phòng được hoặc điều trị được bằng các thứ thuốc đơn giản và cách sống hợp vệ sinh. Tuy thế, ông lại tin rằng học giải phẫu học bệnh lý là chìa khóa để xác định các nguyên nhân khu trú gây ra bệnh. Ông rất chú ý đến khả năng cho rằng bệnh và sự viêm nhiễm là do sự tích tụ nhiều máu tại một khu vực làm cho máu phải đi từ tĩnh mạch vào động mạch. Là người nghi ngờ đến các phương pháp trị liệu chuẩn và thuyết thể dịch theo Hippocrates, Erasistratus nêu ra một quan niệm cơ học, khu trú của hiện tượng sinh lý và bệnh lý dựa trên học thuyết nguyên tử của Democritus. Giống như người sáng lập ra thuyết nguyên tử, Erasistratus rõ ràng là muốn nghiền ngẫm về sự hiện diện của các thực thể vô hình. Sau khi dò tìm các tĩnh mạch, động mạch và các thần kinh cho đến chỗ phân chia nhỏ nhất mà mắt thường thấy được, Erasistratus mặc nhận là những thứ này còn tiếp tục phân nhánh xa hơn nữa mà mắt thường không thấy được. Theo Erasistratus, phần cơ cấu vô hình của cơ thể là một hệ thống có ba lớp bao gồm tĩnh mạch, động mạch và thần kinh. Để hoàn chỉnh bức tranh về cấu trúc tế vi của cơ thể, Erasistratus cho rằng có sự hiện diện của lớp nhu mô (lớp mô nằm giữa hệ thống mạch máu).

Có lẽ vì học thuyết của ông cho rằng bệnh là do sự tích tụ quá nhiều máu tại một chỗ, cho nên Erasistratus chú ý đặc biệt đến quả tim, tĩnh mạch và động mạch. Trong các chuyên luận bị thất lạc, rõ ràng là ông đã mô tả chi tiết quả tim trong đó có các van bán nguyệt, van ba lá và van hai lá. Những sự tương đồng cơ học, mổ xác và có lẽ các thí nghiệm mổ người sống đã gợi ý cho Erasistratus là quả tim có thể coi như một cái bơm trong đó một số “màng” đóng vai trò như nắp van. Kết hợp lý luận, trực giác và tưởng tượng, Erasistratus dò tìm các tĩnh mạch, động mạch và thần kinh đến những chỗ phân chia nhỏ nhất mà mắt thường có thể thấy được và suy đoán đến những chỗ phân chia xa hơn ngoài khả năng thấy được. Ông cũng mô tả chi tiết gan và túi mật, và mở màn một nghiên cứu về các tuyến sữa mà mãi đến sau này mới được bổ sung nhờ công trình của Gasparo Aselli (1581-1626).

Erasistratus thừa nhận ý kiến truyền thống cho rằng chức năng của các động mạch là chuyên chở khí chứ không phải máu. Tĩnh mạch được coi là xuất phát từ gan, còn động mạch được cho là đi từ tim, cả hai thường được coi là các hệ thống độc lập với nhau gồm các ống bịt đầu trong đó máu và khí thấm dần đến phần ngoại vi của cơ thể sao cho mỗi phần của cơ thể có thể lấy đúng phần dưỡng chất của chúng. Tuy nhiên, ông ta nhìn nhận rằng các nhà giải phẫu học phải chú ý đến thực tế là máu, vốn được coi là do tĩnh mạch mang đến, lại phụt ra từ động mạch bị rách. Để hợp lý hóa những điểm không phù hợp trong hệ thống này, Erasistratus lập luận rằng mặc dù tĩnh mạch và động mạch tách biệt nhau về mặt chức năng trên những người khỏe mạnh, lành lặn, nhưng cũng có những chỗ nối nhỏ li ti bị xẹp hoặc bị đóng lại giữa hai loại mạch máu. Khi một động mạch bị tổn thương, khí thoát ra ngoài và máu tĩnh mạch bị tống ra theo các chỗ nối giữa tĩnh mạch và động mạch, bởi vì -theo như lời dạy của Aristotle - tự nhiên kỵ chân không. Nói cách khác, sự hiện diện của máu trong động mạch là do sự tổn thương hoặc một điều kiện bệnh lý khác nào đó. Những quan sát ghi nhận tĩnh mạch bị phồng máu còn động mạch xẹp lép trên xác chết dường như phù hợp với các ý tưởng này.

Erasistratus kết luận rằng bệnh là do sự ứ trệ, tức là sự dư thừa máu từ những thực phẩm chưa được tiêu hóa vốn dễ trở nên thối rữa. Khi sự ứ thừa máu tại một chỗ nào đó được tích tụ trong tĩnh mạch, những mạch máu bị căng phồng quá mức này sẽ vỡ ra và máu tràn từ tĩnh mạch sang động mạch. Khi điều này xảy ra, thì dòng chảy của khí, hoặc sinh khí (vital spirit), vốn do động mạch phân phối, sẽ bị tắc nghẽn. Căn cứ theo cái khung lý thuyết này, mục tiêu hợp lý của trị liệu là làm giảm sự quá dư thừa máu. Có một cách để đạt được mục tiêu này là chặn đứng sự sản xuất máu ngay tại nguồn bằng cách không cung cấp thực phẩm.

Ngoài thuốc gây ói, lợi tiểu, xoa bóp, tắm nóng, và bắt nhịn đói, Erasistratus còn khéo léo tạo ra một dạng “đói khu trú” bằng cách dùng băng vải buộc chặt chung quanh các chi để giữ máu lại ở đầu chi cho tới khi bộ phận bị bệnh của cơ thể sử dụng hết phần dịch thừa thải. Erasistratus được coi như là người sử dụng dây thắt để làm ngưng máu chảy từ một mạch máu bị rách.

Mặc dù đôi khi Erasistratus được gọi là nhà duy vật, người theo thuyết nguyên tử hoặc nhà duy lý, nhưng ông cũng không bác bỏ quan niệm về các thứ sinh khí. Rõ ràng là ông tin rằng các tiến trình của sự sống phụ thuộc vào máu và chất khí, vốn được liên tục bổ sung bằng sự hô hấp. Có hai loại khí có trong cơ thể: sinh khí (vital pneuma) được các động mạch chuyên chở và điều hòa các tiến trình sinh dưỡng. Một số sinh khí đi đến não bộ và được chuyển thành các loại sinh dịch (animal spirits). Sinh dịch làm cho cơ thể vận động có cảm giác và được vận chuyển qua các sợi thần kinh, một hệ thống gồm các ống rỗng. Khi sinh dịch đổ vào các cơ, chúng làm cho cơ căng lên, làm cho bắp cơ co lại và như thế tạo ra cử động. Có lẽ được gợi ý từ phương thức thực nghiệm của Strato (một trong những học trò cưng của Aristotle), Erasistratus được coi là người thử đưa ra những giải pháp số lượng cho các vấn đề sinh lý học. Trong một thí nghiệm, Erasistratus bỏ một con chim vào trong một cái bình, sau đó ghi chép trọng lượng của con chim và phân thải ra của nó. Ông ta nhận thấy giữa hai lần cho ăn, có sự mất dần trọng lượng, từ đó ông kết luận rằng có một cái gì đó không thấy được thoát ra và mất đi trong các quá trình sống.

Có một câu chuyện liên quan đến Erasistratus trong vai trò thầy thuốc đã cho thấy khả năng quan sát và nhìn thấu mối liên hệ giữa những rối loạn của tinh thần và cơ thể. Khi Seleucus, một trong những tướng lãnh của Alexander Đại đế, cưới một phụ nữ tên là Stratonice, thì con ông này là Antiochus đem lòng yêu người mẹ kế. Dằn lòng giấu những tình cảm của mình, chàng thanh niên phát bệnh nặng gần chết. Nhiều thầy thuốc không giúp được gì cho chàng trai, còn Erasistratus thì nói rõ rằng có một chứng bệnh ở trong đầu đã làm cho thân xác bị yếu đi thông qua sự kết nối giao cảm. Khi đánh giá các phản ứng sinh lý học của người bệnh khi có người đến thăm, Erasistratus phát hiện rằng bệnh nhân nói lắp, đỏ mặt, hồi hộp, và tái đi mỗi khi gặp Stratonice. Erasistratus lý luận rằng mặc dù ta có thể cố ý giấu đi những suy nghĩ của mình, nhưng không thể nào kiểm soát được ảnh hưởng của chúng trên cơ thể. Câu chuyện mang tính văn học này được kể đi kể lại nhiều lần, nhưng lại bỏ qua các ý nghĩa y học. Nhiều tình huống tương tự cũng được nêu trong tiểu sử của các thầy thuốc vĩ đại khác, như Galen và Avicenna, và thường được nhắc đến nhiều trong văn học thời Trung cổ và thời Phục hưng khi nói về bệnh thất tình.

Trong 200 năm, thư viện thành Alexandria đã hỗ trợ nhiều hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và y học và đã đào tạo vô số các thầy thuốc, kỹ sư, các nhà địa lý học, thiên văn học và toán học. Mặc dù khó có thể đánh giá được tính sinh động của một cơ sở đầy phức tạp như thế, cũng có một số bằng chứng cho thấy y học đã trượt vào tình trạng suy thoái trong thời Herophilus và Erasistratus. Mối căng thẳng vốn lúc nào cũng hiện diện trong y học giữa việc nghiên cứu khoa học không vụ lợi và các yêu cầu trước mắt của người bệnh đã lớn dần và phá vỡ sự hài hòa và cân bằng giữa vai trò nhà khoa học và người chữa bệnh mà người xưa từng tìm kiếm. Những người công kích sự nghiên cứu giải phẫu học đã tố cáo rằng những đeo đuổi như thế sẽ làm thầy thuốc xao nhãng việc chăm sóc bệnh nhân. Đa phần sự suy thoái về nghiên cứu khoa học tại Alexandria là do bầu không khí chính trị hỗn loạn, nhưng các nhà khoa học và học giả dường như đã hủy hoại các nền móng ngôi nhà của chính mình về học vấn khi công kích các trường phái khác đối nghịch về tư tưởng, hoặc từ bỏ Alexandria để đi đến nơi khác xây dựng các trường phái mới. Các học giả đời sau đã chế nhạo bảo tàng Alexandria như là một cái chuồng gà nhốt phần lớn các học giả không ngừng quang quác cắn rỉa nhau. Cuối cùng, các nhà khoa học thành Alexandria đã nhận một số phận tệ hại nhất: họ bị truy bức, các khoản tài trợ bị cắt, và phải chuyển sang nghề dạy học để lay lắt kiếm sống tại các phương trời khác.

Sự suy tàn của truyền thống thành Alexandria không chỉ giới hạn trong y học. Chẳng còn lại bao nhiêu công trình của bảo tàng hoặc thư viện. Thư viện bị tàn phá đợt đầu tiên vào năm 48 trước CN khi những cuộc bạo loạn xảy ra sau khi Julius Caesar và 3.000 lính lê dương đến thành phố này. Sau khi Caesar chinh phục Ai Cập, Alexandria chỉ là một thành phố trong đế quốc La Mã. Sau đó, các nhà lãnh đạo Thiên Chúa giáo đã xúi giục phá hủy đền của các Thần Thi ca và các cơ sở dị giáo khác. Theo lời kể, năm 395, học giả cuối cùng của bảo tàng, là một triết gia và nhà toán học nữ tên Hypatia bị đám đông theo đạo Thiên Chúa lôi ra khỏi đền thờ và đánh chết. Đến thế kỷ thứ 7 (642-646) quân đội Hồi giáo chinh phục thành phố và thực hiện việc phá hủy cuối cùng thư viện cùng với những bản thảo quý giá.