← Quay lại trang sách

Y HỌC TRONG THẾ GIỚI LA MÃ

Đế quốc La Mã là một sự kết hợp phức tạp và mạnh mẽ của các yếu tố văn hóa Hy Lạp và La Mã, được định hình qua nhiều thế kỷ chiến tranh. Lúc đầu vốn chỉ là một xứ cộng hòa của các nông dân tiểu chủ thay vì tầng lớp thương gia và mạo hiểm như người Hy Lạp, người La Mã ưa những gì thực tế thay cho trừu tượng và có khuynh hướng muốn thi vị hóa đời sống thôn dã ngay cả khi họ xây dựng những thành phố với quy mô và mức độ phức tạp chưa từng có. Họ rất xuất sắc trong nghệ thuật chiến tranh và cai trị, cũng như trong kiến trúc, xây dựng công trình, y tế công cộng và vệ sinh. Các tác giả La Mã huênh hoang rằng tổ tiên của họ đã sống mà chẳng hề nhờ đến thầy thuốc, dù rằng họ có dùng thuốc, họ rất giỏi về các món thuốc dân gian, các vị thần chữa bệnh và các nhà tiên tri. Có nhiều khả năng là, những thành quả về xây dựng công trình vệ sinh đáng kể nhất của họ tại thành Rome thời Cộng hòa và Đế chế, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe công cộng.

Khi so sánh La Mã với Hy Lạp, các nhà phê bình thường xem người La Mã như một dân tộc không có nghệ thuật, văn học, khoa học hoặc triết học.

Tuy nhiên, chắc chắn không thể nào cho họ là một dân tộc không có thần thánh. Giống như người Ai Cập, người La Mã gom góp các vị thần cho tất cả các cơ quan và chức năng chính của cơ thể. Tuy nhiên, họ vẫn còn có chỗ trong tim dành cho các vị thần mới, nhất là khi các vị thần cũ dường như không muốn hoặc không thể làm nhiệm vụ của mình. Vào năm 293 trước CN, khi các vị thần truyền thống không có khả năng dập tắt một vụ dịch đang phá hủy Rome, thì các vị trưởng lão đã đến nhờ Asclepius tại đền Epidaurus. Trong khi các tín đồ của Asclepius đàm đạo với phái đoàn của Rome, một con rắn thiêng từ trong đền bò lên tàu của người La Mã; việc này coi như là một điềm báo rằng vị thần chủ trị ngành y Hy Lạp có ý muốn giúp đỡ cho thành Rome. Một ngôi đền được dựng lên tại nơi con rắn chọn để thờ phụng Asclepius, và sau đó trận dịch chấm dứt, và việc thờ phụng Asclepius được hình thành tại Rome. Các thầy thuốc Hy Lạp cũng mong muốn đến Rome để giúp đỡ nơi này như con rắn thiêng, nhưng họ không được đón tiếp nồng nhiệt như vinh hạnh dành cho Asclepius.

Lúc đầu, người La Mã rất nghi ngờ các thầy thuốc chuyên nghiệp. Họ không chê trách gì về việc hành nghề y, nhưng họ cho rằng không hợp đạo lý nếu chữa bệnh lấy tiền. Nguyên lão Cato (234-149 trước CN) tố cáo các thầy thuốc Hy Lạp là những kẻ thù tệ hại nhất của thành Rome và cho rằng họ đã đầu độc và giết chết khách hàng của họ. Thật vậy, một số trong các thầy thuốc hành nghề có nhiều tham vọng nhất thực sự là các lang băm hám tiền, không có trình độ, và là những kẻ liều mạng dùng kiến thức của mình để lung lạc bệnh nhân, sản xuất ra thuốc độc và can dự vào các âm mưu.

Cato đã làm một việc công cốc bởi vì kể từ thế kỷ thứ 4 trở đi Rome càng ngày càng chịu ảnh hưởng của Hy Lạp. Sự du nhập việc thờ phụng Asclepius và đông đảo thầy thuốc Hy Lạp đổ xô đến đây đã làm rõ xu hướng này.

Theo truyền thống, người đứng đầu của một gia đình La Mã được coi là người coi sóc các vấn đề y tế cho người trong gia đình, các nô lệ và súc vật. Tuy nhiên, việc thực hành y học thực sự lại được coi là công việc hèn mọn chỉ dành cho nô lệ và phụ nữ. Phần lớn người La Mã kết hợp ma thuật và y học dân gian để chống lại bệnh tật. Mỗi gia đình có một chỗ thờ đặc biệt và một chỗ trữ các thứ thuốc cây cỏ. Có những nghi lễ thích hợp được tiến hành khi cho thuốc và thực hiện một phẫu thuật nào đó. Để cho tiết kiệm, người ta cũng sử dụng cùng những thứ thuốc, bùa chú và lời cầu nguyện cho cả con người và động vật. Lấy ví dụ, Cato, người nắm được nhiều bài thuốc truyền thống, nhưng ông lại ưa sử dụng bắp cải, thậm chí còn đặt thứ này lên trên món xúp gà, bởi vì ngoài tính vô hại, nó còn chứa nhiều vitamin C. Dù sao đi nữa, Cato cũng đã sống đến 84 tuổi trong một thời đại mà tuổi thọ trung bình chỉ có 25 năm.

Các tài liệu của những người La Mã khác, phần lớn theo định nghĩa đều không phải là thầy thuốc, đã rọi sáng nhiều vấn đề về vệ sinh, vệ sinh môi trường và y tế công cộng, nhất là tầm quan trọng của việc cung cấp nước và xử lý nước thải. Rome lấy nước từ nhiều hệ thống cung cấp, nhưng các cầu máng mang hàng triệu lít nước cho thành Rome vào thế kỷ thứ hai trước CN thường được coi là một giải pháp tinh túy dành cho một trong những vấn đề cốt lõi mà các nhà quy hoạch đô thị phải đối mặt. Nước có chất lượng kém hơn được coi là có thể chấp nhận được để dùng trong các nhà tắm mà mỗi thành phố nào ở Rome cũng đều có. Phí vào những nhà tắm công cộng này ở mức tối thiểu, nhưng người La Mã được coi như là có công trong việc xây dựng các nhà xí có trả tiền. Trong khi các nhà tiêu công cộng thường được gắn kết vào các nhà tắm, những nhà tiêu công cộng độc lập thường được bố trí tại những khu nhộn nhịp nhất tại các đô thị.

Kiến trúc sư và kỹ sư người La Mã là Vitruvius cũng dành một sự quan tâm đáng ngưỡng mộ về sự tinh khiết của nước và vị trí xây dựng nhà vệ sinh tại các khu dân cư trong tài liệu Bàn về kiến trúc (khoảng năm 27 trước CN). Marcus Terentius Varro (117-27 trước CN) cũng nêu ra một ý kiến đáng chú ý là những vùng đầm lầy có thể là nơi sinh sống của các sinh vật cực nhỏ, chúng có thể chui vào cơ thể qua đường miệng, mũi và gây nhiều bệnh trầm trọng. Trong lúc đám dân La Mã giàu có có thể lợi dụng các kỹ năng khéo léo về kiến trúc và xây dựng vốn làm cho nền văn minh La Mã nổi tiếng, và khi nghỉ ngơi thì rút về ẩn dật tại các điền trang thanh bình, yên ả, phần lớn dân chúng còn lại chui rúc trong những ngôi nhà thiếu vệ sinh, chật chội, không có bếp và hệ thống sưởi, không có nước dẫn theo đường ống, nhà tắm hoặc nhà xí riêng.

Mặc dù có lời cảnh báo của Cato, khi xã hội La Mã trở nên lịch lãm và giàu có hơn, hoặc ít đoan chính và chỉ mới đủ ăn, theo cách nói của các nhà phê bình, các công dân La Mã đã sớm tìm đến các thầy thuốc Hy Lạp để được cung cấp một chế độ điều trị tinh tế hơn là bắp cải và thần chú. Sự nghiệp của Asclepiades (khoảng 124-50 trước CN) là một ví dụ giáo dục về cách thức mà nền y học Hy Lạp đã được cải biến như thế nào cho phù hợp với khách hàng La Mã. Ban đầu Asclepiades đến Rome làm thầy dạy khoa tu từ, nhưng chẳng bao lâu sau ông nhận thấy rằng hành nghề y mới có nhiều triển vọng tốt hơn. Asclepiades đưa ra những cách điều trị bảo đảm có tác dụng “nhanh chóng, an toàn và êm ái”. Nếu cách tiếp cận lý thuyết của ông ta chỉ mang tính cơ học, thì trên thực hành Asclepiades tư vấn cho khách hàng một chế độ hợp lý, như tùy theo người mà có chế độ ăn, nghỉ ngơi và thể dục riêng, cùng với những phương thuốc đơn giản như rượu vang, nước lã, tắm lạnh thay vì trích huyết và xổ ruột. Mặc dù Asclepiades đưa ra một hình thức hành nghề y học có thể mang lại thành công theo cách thức của người La Mã, nhưng vẫn còn sự nghi kị và ngờ vực như ta thấy trong các tài liệu của Nguyên lão Pliny (23-79).

Giống như Cato trước đó, Nguyên lão Pliny, một hình mẫu quý ông La Mã và tác giả của một trong những công trình bách khoa chính của thời cổ đại, ông này nghi ngờ các thầy thuốc chuyên nghiệp. Theo Pliny, các thầy thuốc đều là đồ bất tài, hám tiền, phù phiếm và nguy hiểm. Ông ta cảnh báo, các thầy thuốc Hy Lạp đã quyến rũ các công dân La Mã từ bỏ các thứ thuốc thảo dược truyền thống của mình và họ đã góp tay làm băng hoại xã hội La Mã. Pliny than phiền rằng các thầy thuốc đã học nghề trên thân xác bệnh nhân và tố cáo họ là những kẻ giết người mà không sợ bị trừng phạt rồi sau đó đổ thừa bệnh nhân chết là do không theo đúng lời khuyên chuyên môn của họ.

Bộ sách Lịch sử tự nhiên của Pliny là một công trình khảo sát vô giá, bao quát, nếu không nói là thiếu hệ thống về khoa học, y học, nông nghiệp, kỹ nghệ, và nghệ thuật của cuối thời cộng hòa và đầu thời đế quốc. Khi ca ngợi những tính tốt của các thứ thuốc cây cỏ truyền thống của Rome, Pliny cho rằng mọi thứ được tạo ra là để cho con người sử dụng, cả thế giới là một tiệm thuốc đối với những ai hiểu được các đơn thuốc đơn giản của tự nhiên, chẳng hạn như băng bó vết thương bằng rượu nho, giấm, trứng, mật ong, bột giun đất, phân heo và dùng lá cây dương xỉ để điều trị các thứ giun sán ký sinh. Trong số các thứ thuốc do Pliny đưa ra, một số có chứa các thành phần hoạt tính về mặt dược lý học chẳng hạn như ma hoàng để chữa bệnh hen, ho và chảy máu.

Có thể thấy trong công trình của Dioscorides (khoảng 40-80) một phương thức mang tính hệ thống hơn trong việc tìm tòi những thứ làm thuốc. Ông này là người soạn ra bộ De materia medica (Dược liệu), một trong những quyển sách đầu tiên của phương Tây về thảo dược. Dioscorides là một thí dụ điển hình cho thấy nền y học La Mã thường là do các thầy thuốc Hy Lạp đảm nhiệm. Không biết gì nhiều về cuộc đời của ông này, ngoại trừ việc ông có thể đã học tại Alexandria trước khi làm thấy thuốc trong quân đội của Hoàng đế Nero. “Bác sĩ quân đội” có lẽ là một từ quá hiện đại khi dịch chữ này, bởi vì hầu như chẳng có một lực lượng thầy thuốc nội khoa hoặc ngoại khoa nào tháp tùng các đoàn quân viễn chinh La Mã vào thời kỳ này cả. Quân đội La Mã có thể mang theo nhiều thứ để chăm sóc cho ngựa bị ốm hơn là cho lính ốm. Tuy thế, trong suốt thời gian tồn tại của Đế quốc La Mã, các hoạt động của quân đội và đội ngũ y tế đã đem phổ biến nền y học La Mã - Hy Lạp ra khắp châu Âu, Bắc Phi và thế giới phía đông Địa Trung Hải.

Khi phục vụ trong các quân đoàn La Mã, Dioscorides có cơ hội đi lại nhiều nơi và nghiên cứu nhiều thứ cây cỏ mới, trong đó có hàng trăm loại mà Hippocrates chưa hề biết tới. Là một người quan sát sắc sảo và là nhà tự nhiên học xuất sắc, Dioscorides cung cấp nhiều thông tin có giá trị về các thứ cây cỏ có tác dụng làm thuốc, nơi phát sinh, thổ nhưỡng, các đặc trưng phát triển và cách sử dụng hợp lý. Ông ta cũng mô tả các phương thuốc bào chế từ khoáng chất và động vật. Các nhà dược lý học khi nghiên cứu tài liệu do ông viết đã phát hiện ra nhiều công thức có chứa các chất điều trị có giá trị như thuốc giảm đau, sát trùng, làm ói, thuốc xổ, thuốc thụt tháo và nhiều thứ khác.

Nhiều thứ thảo dược được Dioscor ides nhận dạng và phân loại có thể được tìm thấy trong hộc đựng gia vị của nhiều nhà bếp ngày nay. Tuy nhiên, những tính chất chữa bệnh gán cho các thứ cây cỏ và gia vị cũng làm cho các đầu bếp hiện đại giật mình. Lấy ví dụ, quế và ba đậu (cassia) được coi là có giá trị trong điều trị những chứng viêm nhiễm bên trong, các vết đốt có nọc độc, thuốc độc, chảy mũi nước và rong kinh. Nếu được bào chế phù hợp, những thứ cây cỏ và gia vị như thế có thể gây rối loạn kinh nguyệt. Một dạng thuốc sắc từ cây măng tây có thể gây vô sinh; còn nếu lấy cọng măng tây đeo làm bùa thì sẽ làm tăng tác dụng của đơn thuốc này. Các nạn nhân bị chó dại cắn có thể dùng thử đơn thuốc có con cua sông, rễ cây long đởm (gentian root) và rượu nho. Sau đó, để phòng ngừa các biến chứng, người bệnh nên ăn gan con chó đã đớp mình và lấy răng của nó làm bùa đeo. Bộ sách Dược liệu cũng nói đến nhiều công thức kỳ dị và khó ngửi, chẳng hạn như phương thuốc điều trị bệnh sốt rét chế bằng con rệp trộn với thịt và đậu, nhưng những nghiên cứu gần đây về tài liệu này cho thấy là Dioscorides đã phân loại các bài thuốc của mình theo các tiêu chuẩn tinh tế và đầy phức tạp. Đó là, dường như Dioscorides đưa ra cách phân loại dựa trên một hệ thống mối quan hệ giữa các loại thuốc hơn là trên các phương pháp truyền thống chẳng hạn như hình dạng của cây cỏ hoặc thổ nhưỡng. Điều này đòi hỏi phải có kiến thức chính xác về các đặc điểm sinh trưởng của cây cỏ, thu hái và bào chế đúng cách, và hiệu quả mà thứ thảo dược đó tạo ra khi sử dụng trên một số đông bệnh nhân.

Khác với sách thảo dược của Dioscorides, vốn thường được chép lại và sử dụng rộng rãi, các tài liệu của Aulus Cornelius Celsus (khoảng 1437) hầu như bị quên lãng cho tới khi bộ sách De re medicina (Bàn về y học) của ông được phát hiện trở lại vào năm 1426. Nhờ bộ sách này mà các học giả thời Phục hưng mới biết được một thứ tiếng Latin cổ điển thuần khiết. De re medicina trở thành một trong những bản văn y học đầu tiên được phục hồi bằng thuật in ấn mới của châu Âu.

Celsus đã tiến hành một công trình bách khoa đầy tham vọng chia ra làm 4 phần: nông nghiệp, y học, tu từ, nghệ thuật chiến tranh, nhưng phần duy nhất còn sót lại đến ngày nay là Bàn về y học. Hầu như ta chẳng hề biết điều gì về cuộc đời của Celsus trừ việc những người đồng thời cho rằng ông chỉ là người có trình độ tri thức hạng xoàng. Mặc dù Celsus rất thành thạo về cách sắp xếp, sự trong sáng và văn phong, nhưng câu hỏi là liệu là với bộ Bàn về Y học, ông ta có biên soạn, tổng hợp hoặc đạo văn hay không vẫn còn mù mờ. Trong phần giới thiệu về lịch sử khi bàn luận về y học, Celsus ghi nhận rằng người Hy Lạp đã miệt mài nghiên cứu nghệ thuật nhiều hơn bất cứ dân tộc nào khác. Theo ông, người La Mã cổ đại có được sức khỏe tự nhiên không phải nhờ đến thuốc bởi vì họ có các thói quen tốt. Khi họ quay sang một cuộc sống xa hoa và biếng nhác, có lẽ là do ảnh hưởng xấu của nền văn hóa Hy Lạp, thì bệnh tật mới xuất hiện và phải cần đến thuốc men.

Dioscorides đang khảo sát các cây cỏ làm thuốc.

Sau khi Hippocrates mất, nền y học Hy Lạp, vốn chưa bao giờ là một lĩnh vực thống nhất, đã phân mảnh ra thành nhiều hệ phái suốt ngày tranh cãi nhau, một số đặt tên theo người lãnh đạo, một số khác đặt tên theo cách tiếp cận đối với ngành y như phái Học Thuyết, phái Tiên Nghiệm, phái Phương Pháp. Đến nay cũng chưa biết gì nhiều về nguồn gốc, các thành viên, và cách thực hành của những hệ phái này, nhưng nhờ Celsus người ta có thể dựng lại khá nhiều khía cạnh về các hệ phái đã từng hưng thịnh vào thời đại của ông.

Phái Học Thuyết nhấn mạnh đến việc nghiên cứu giải phẫu học và cho rằng Erasistratus, Herophilus, và Hippocrates là tiền bối của họ. Cho rằng y học là tổng hợp của lý thuyết, thực hành và triết lý, phái Học Thuyết dạy rằng người thầy thuốc phải nghiên cứu giải phẫu học và sinh lý học cũng như các nguyên nhân gây bệnh hiển nhiên, trực tiếp và mù mờ. Các thành viên của các hệ phái khác có thể khác biệt nhau về nhiều điểm, nhưng họ thường thống nhất là phái Học Thuyết có lỗi khi thiếu chú ý đến các lý thuyết suy đoán và bỏ quên các mục đích thực tiễn của y học.

Nắm vững một quan điểm hạn hẹp hơn hoặc thực tiễn hơn về phạm vi của y học, phái Tiên Nghiệm tin rằng cần phải hiểu rõ những nguyên nhân hiển nhiên hoặc trực tiếp, nhưng việc tìm hiểu các nguyên nhân mơ hồ hoặc tận cùng là không cần thiết bởi vì, nói cho cùng, con người không thể nào hiểu được tự nhiên. Trong y học, các thầy thuốc chỉ nên đi theo kinh nghiệm bởi vì nó trả lời được câu hỏi: bệnh nhân có khỏi bệnh hay không? Một số người theo phái Tiên Nghiệm cho rằng việc nghiên cứu giải phẫu học là hoàn toàn chẳng đem lại lợi ích gì để hiểu rõ cơ thể sống. Họ lấy làm kinh hãi đối với việc mổ sống con người và cho rằng đó là tội ác giết người khi nhân danh nghệ thuật chữa bệnh. Tuy nhiên, tiếng tăm tuyệt vời của các phẫu thuật viên phái Tiên Nghiệm chứng tỏ họ chú trọng đến hành động hơn lý luận.

Phái Phương Pháp tin rằng cơ thể con người bao gồm các nguyên tử và các lỗ hổng. Bệnh là do các trạng thái bất thường của các lỗ hổng do quá căng thẳng hoặc quá chùng. Vì thế khi người thầy thuốc hiểu được ba tình trạng thường gặp của cơ thể con người - co thắt, lỏng lẻo và phối hợp - thì sẽ nắm được cách thức điều trị bệnh nhân. Cần có các phương thuốc thích hợp để làm giãn hoặc siết chặt các lỗ hổng. Phái Phương Pháp cho rằng, vì lẽ hệ thống của họ đã quá đầy đủ, nên không cần phải nghiên cứu thêm làm gì về nguyên nhân của bệnh cũng như cách trị liệu. Nhưng Juvenal, một nhà thơ trào phúng La Mã, đã nói rằng các thầy thuốc phái Phương Pháp đã giết quá nhiều bệnh nhân đến nỗi không đếm được.

Celsus kết luận rằng không có hệ phái nào hoàn toàn đúng hay sai. Trong khi đi tìm sự thật một cách không thiên vị, cần thiết phải thừa nhận rằng có một số thứ không nhất thiết phù hợp với thực hành y học nhưng lại có giá trị để kích thích và mở mang đầu óc của người thầy thuốc. Khi xử lý các vấn đề với trâu bò, ngựa, người nước ngoài và các hậu quả của thiên tai, đôi khi cần phải nhìn vào ngay những đặc trưng đơn giản nhất của bệnh. Bình thường, một thầy thuốc bậc cao phải chú ý đến địa lý, khí hậu và những phản ứng đơn nhất của nhiều bệnh nhân khác nhau.

Nếu xét cho đúng, nghệ thuật y học có thể chia ra làm ba phần: chữa được bằng chế độ ăn (mà trong ngữ cảnh này có thể dịch sát hơn bằng chữ “phong cách sống”); chữa được bằng cách dùng thuốc; và chữa được bằng phẫu thuật. Kinh nghiệm dạy cho thầy thuốc biết rằng các cách điều trị y học chuẩn không phải lúc nào cũng cho kết quả giống nhau cho mọi bệnh nhân. Celsus kết luận, nghệ thuật làm thuốc là phải có lý luận, và dựa trên các nguyên nhân trực tiếp, nhưng nói cho cùng y học là một nghệ thuật đòi hỏi phải suy đoán nhiều dựa trên các thông tin khai thác được. Giải phẫu học là một phần quan trọng trong kiến thức y học, nhưng Celsus cho rằng việc mổ trên người sống là tàn ác và không cần thiết. Các sinh viên ngành y có thể học hỏi các vị trí và sự liên hệ của các nội tạng trên các xác chết, nhưng người hành nghề y phải nhanh nhẹn chộp lấy kiến thức về giải phẫu học khi “thời khắc thuận lợi” hé ra vào lúc điều trị các vết thương.

Dù rằng ông bác bỏ quan niệm của người Hy Lạp cho rằng cần phải có người thầy thuốc hướng dẫn một chế độ điều trị đúng trong cuộc sống, nhưng Celsus cho rằng đối với mỗi người, điều cơ bản là phải hiểu được sự liên hệ giữa bệnh tật với các giai đoạn của cuộc đời. Hơn thế nữa, khi giải thích mối liên hệ này, ông ta cũng đưa ra nhiều lời tư vấn như bất cứ “sư phụ” hiện đại nào khác về “phong cách sống”. Những bệnh cấp tính, tức là những bệnh “giết người nhanh nhưng cũng chấm dứt nhanh” là mối đe dọa lớn nhất đối với con nít. Người già thường bị đe dọa nhiều nhất bởi những bệnh mạn tính. Giới trung niên là an toàn nhất, nhưng bệnh tật có thể giáng xuống bất cứ tuổi nào, bất cứ mùa nào. Không thể bổ sung gì nhiều vào kết luận của Celsus khi ông cho rằng đơn thuốc tốt nhất để được một cuộc sống khỏe mạnh là một cuộc sống đa dạng và cân bằng, nghỉ ngơi và vận động đúng mức, tìm lời chỉ bảo y học để tránh xa những ám ảnh bê tha.

Theo Celsus, thì phẫu thuật là lĩnh vực đem lại nhiều điều hài lòng nhất cho thầy thuốc, bởi vì nó đem lại các kết quả chắc chắn hơn là cách điều trị bằng thuốc hoặc chế độ ăn uống. Các thầy thuốc đều biết rằng có bệnh nhân khỏi bệnh mà không cần đến thuốc, có người dù với thuốc tốt nhất cũng không chữa được bệnh. Ngược lại, bệnh mà chữa được bằng phẫu thuật rõ ràng là do sự khéo léo chứ không phải do những lực lượng siêu nhiên hoặc sự may mắn. Một phẫu thuật viên phải dốc lòng muốn chữa bệnh cho người bệnh và phải mạnh mẽ thực hiện công việc của mình dù bệnh nhân có kêu la đau đớn. Sau phẫu thuật, người thầy thuốc phải cảnh giác đến biến chứng chảy máu và nhiễm trùng khi có 4 dấu hiệu chính về viêm nhiễm như - sưng, đỏ, nóng, đau. Thầy thuốc phẫu thuật người La Mã sử dụng thành thạo các kỹ thuật và dụng cụ mà các thầy thuốc Hippocrates tiền bối chưa hề biết như cách buộc dây thắt khi mạch máu bị rách và những thứ muỗng và nong để rút các mũi tên có ngạnh ra khỏi vết thương. Họ cũng có thể thực hiện thủ thuật đoạn chi và giải phẫu tạo hình cũng như các phẫu thuật gắp sỏi bàng quang, bướu giáp, thoát vị, đục thủy tinh thể và các vết rắn cắn. Bộ sách De medicina cũng đưa ra một bảng khảo sát có giá trị về các cách điều trị nội và ngoại khoa tại Rome vào thế kỷ thứ nhất. Tuy nhiên, trong suốt thời Trung cổ, Celsus và tất cả các tác giả y học của thời cổ đại, trừ Hippocrates đều bị lu mờ trước các công trình của Galen vĩ đại xứ Pergamum (130-200 hoặc 210).