← Quay lại trang sách

BÀN VỀ GALEN VÀ HỌC THUYẾT CỦA GALEN

Không có một khuôn mặt nào trong lịch sử y học đã ảnh hưởng đến các quan niệm về giải phẫu học, sinh lý học và triết học nhiều như Galen, người thầy thuốc được gọi là Giáo hoàng của Y học thời Trung cổ và là bậc thầy của các nhà giải phẫu học và sinh lý học thời Phục hưng. Galen đã để lại những công trình đồ sộ đề cập đến mọi chủ đề chính về y học, khoa học, triết học và tôn giáo của thời đại của mình. Những người hâm mộ cùng thời, kể cả Hoàng đế Marcus Aurelius, người bảo trợ, đã gọi ông là “Người đứng đầu trong hàng ngũ thầy thuốc và triết gia”. Những người chống đối thì thích những tước vị như “đầu lừa” và gọi ông là một “kẻ to mồm” rỗng tuếch, kiêu căng. Khi tổng kết các công trình và tư tưởng của ông, các học giả cho rằng, với vai trò thầy thuốc, Galen về cơ bản theo Hippocrates, nhưng với vai trò triết gia, thì nhìn chung ông theo Aristotle.

Galen sinh ra tại Pergamum, một thành phố vùng Tiểu Á được coi là có vai trò văn hóa tương đương với Alexandria. Khi nói về mình, Galen cho rằng ông cố noi gương về tính cách tuyệt vời của cha mình, Aelius Nikon, là một kiến trúc sư giàu có, tính tình hiếu khách và rộng rãi. Mặc dù ông cố gắng tránh xa không lặp lại tính tình của bà mẹ, một phụ nữ khó tính, suốt ngày quát tháo cha ông, hay gây gổ, và cắn đầy tớ, nhưng những cố gắng này không thành công hoàn toàn. Ông đã thành thạo toán học và triết học khi mới 14 tuổi. Hai năm sau, Asclepius hiện ra trong mộng của Nikon và báo cho ông này biết số phận sẽ đưa con ông thành một thầy thuốc. Khi còn là một sinh viên ngành y tại đền thờ Asclepius danh tiếng tại Pergamum, Galen đã soạn ra ít nhất ba quyển sách. Về sau, trong lời khuyên của ông dành cho sinh viên và thầy giáo ngành y, Galen nhấn mạnh về tầm quan trọng của sự nuôi dưỡng tình yêu sự thật cho thế hệ trẻ, tình yêu này sẽ thúc giục họ miệt mài làm việc ngày đêm nhằm học tất cả những gì mà các bậc tiền bối đã viết ra và tìm cách để chứng minh những kiến thức đó.

Sau khi cha mất, Galen rời Pergamum để tiếp tục học nghề y tại Smyrna, Corinth, và Alexandria. Khi quay lại Pergamum sau những năm học tập và phiêu du, Galen được bổ nhiệm làm thầy thuốc chăm sóc các võ sĩ giác đấu. Mặc dù cũng làm việc tại đền thờ Asclepius và có một phòng mạch tư phát đạt, nhưng sau vài năm ông cảm thấy bồn chồn trở lại.

Năm 161, ông đi đến Rome nơi mà với vận may, các chẩn đoán xuất sắc và các kết quả điều trị thần kỳ nên chẳng bao lâu ông lôi cuốn được nhiều bệnh nhân, người bảo trợ và người hâm mộ trong giới quyền thế ở đây. Trong thời kỳ này, Galen đã tham gia giảng bài về giải phẫu học, trình giảng và tranh luận nơi công cộng và soạn một số tài liệu quan trọng về giải phẫu học và sinh lý học. 5 năm sau, Galen trở về Pergamum, cho rằng vì sự thù nghịch của các thầy thuốc khác khiến cho ông phải rời bỏ Rome. Những người chống đối thì cho rằng việc ra đi đột ngột của Galen trùng hợp với sự bùng phát của một trận dịch lan tới thành phố sau khi nhiều binh sĩ tham gia chiến trận tại Parthia trở về. Chẳng bao lâu sau đó, nể lời mời của Hoàng đế Marcus Aurelius, Galen quay lại Rome và định cư vĩnh viễn tại đây. Nói cho đúng, dù Galen không phải là “ngự y”, nhưng ông cũng kết bạn và tìm được sự bảo trợ của các vị Hoàng đế như Marcus Aurelius, Commodus, Septimius Severus, và nhiều nhân vật tiếng tăm khác.

Cuối đời, bực mình vì thấy có nhiều kẻ chép sách cẩu thả, những kẻ mạo danh trơ trẽn và bọn đạo văn làm sai lệch những gì mình viết, Galen soạn ra một tài liệu hướng dẫn người đọc nên cẩn thận gọi là quyển Nói về sách của chính mình, trong đó kê ra các công trình thực sự của Galen cũng như một chương trình mà người thầy thuốc cần phải đọc. Galen than phiền là cần phải có sách cho người nhập môn, bởi vì nhiều sinh viên không có một nền học vấn cổ điển, tốt và phần lớn các “thầy thuốc” chỉ là bọn trí thức rởm, chẳng đọc chút gì cả. Các tài liệu của Galen về y học, triết học và ngữ văn bàn luận hầu như mọi khía cạnh của lý thuyết và thực hành y học của các thời kỳ Hy Lạp và La Mã, cũng như những nghiên cứu chính ông về giải phẫu học, sinh lý học, dinh dưỡng và điều trị. Rủi thay, một trận hỏa hoạn tại Đền Thái Bình năm 191 đã thiêu hủy phần lớn các bản thảo này. Tuy nhiên, phần còn sót lại cũng chứa đầy khoảng 20 bộ bằng tiếng Hy Lạp. Một số công trình của ông được dịch ra tiếng Ả rập và tiếng Latin thời Trung cổ.

Galen dạy rằng người thầy thuốc giỏi phải đồng thời là một triết gia. Vì thế, người thầy thuốc chân chính phải thành thạo ba ngành của triết học: đó là luận lý học, ngành khoa học về cách suy nghĩ; vật lý, ngành học về tự nhiên và; đạo đức học, ngành học về điều phải làm. Với những kiến thức như thế, người thầy thuốc mới có được sự tuân phục của bệnh nhân và sự ngưỡng mộ dành cho một vị thần. Lý tưởng mà nói, người thầy thuốc nên hành nghề y vì tình yêu nhân loại chứ không phải vì lợi nhuận, bởi vì mục đích của khoa học và tiền bạc không thể đi đôi với nhau được. Trong các tác phẩm của mình, Galen tự cho mình là một học giả nhận thức rằng không thể nào khám phá ra hết mọi thứ mà mình thiết tha muốn biết mặc dù miệt mài tìm kiếm chân lý.

Những đặc trưng cơ bản của hệ thống của Galen là xem tự nhiên như là một tác phẩm của sự khéo tay và sáng tạo có mục đích và nguyên tắc cân bằng giữa 4 tính chất và 4 thứ dịch thể. Đối với Galen, nghiên cứu

Galen, trầm ngâm trước một bộ xương người.

giải phẫu học là đầu mối của một “môn thần học lý tưởng” tức là nghiên cứu về hình thể và chức năng xét về mặt “hữu ích” của các bộ phận trong cơ thể. Thay vì giết bò và nhang khói để cúng tế, nhà giải phẫu học tỏ lòng thành kính đối với Tạo hóa bằng cách phát hiện ra sự khôn ngoan, quyền lực và lòng hào hiệp của Người thông qua những sự tìm tòi về giải phẫu học. Sự mổ xẻ cơ thể của bất kỳ động vật nào cũng thấy được một tiểu vũ trụ được làm nên do sự khôn ngoan và khéo léo của Đấng Tạo hóa. Cho rằng tự nhiên đã ra tay với một sự khôn ngoan tuyệt đối và không làm điều gì vô ích, cho nên Galen lập luận rằng mỗi cấu trúc được tạo ra đúng theo chức năng mà nó cần có.

GALEN BÀN VỀ CÁC QUY TRÌNH GIẢI PHẪU HỌC

Mổ xác có thể là một trải nghiệm tôn giáo đối với Galen, nhưng phần lớn các thầy thuốc học giải phẫu học là để chuẩn bị cho các phẫu thuật ngoại khoa, điều trị các chấn thương, vết loét, mạch lươn và áp-xe. Mổ xác có hệ thống là một bước chuẩn bị cần thiết cho phẫu thuật viên, bởi vì một thầy thuốc mà không có kiến thức giải phẫu học sẽ vô tình hoặc lơ đễnh gây tổn thương cho bệnh nhân. Chọn nơi nào để rạch đường mổ, kiến thức về giải phẫu học sẽ giúp cho phẫu thuật viên gây nên các tổn hại càng ít càng tốt. Mặt khác, nếu thầy thuốc ngoại khoa phải cắt các cơ để điều trị một áp-xe, thì kiến thức giải phẫu học sẽ giúp ông ta biết trước được những tổn thương về sau và không phải bị trách cứ.

Cũng có thể viện đến môn giải phẫu học để dàn xếp những chủ đề triết học lớn hơn, chẳng hạn như sự tranh luận về trung tâm lý luận nằm ở đâu trong cơ thể con người. Môn đồ của Aristotle đặt lý luận nằm ở tim, còn những người khác thì đặt ở đầu. Một luận điểm của phái Aristotle cho rằng do tiếng nói, là công cụ của lý luận, đi từ phần ngực. Vì thế, chứng minh của Galen cho rằng dây thần kinh thanh quản quặt ngược kiểm soát giọng nói đã khẳng định lập luận của những người cho rằng giọng nói do não kiểm soát là đúng và giải thích được những gì xảy ra nếu những dây thần kinh này bị cắt đứt do vô ý. Galen cho rằng không nhất thiết phải chứng minh một cách khiên cưỡng một nghiên cứu phải có những ứng dụng thực tiễn, nhưng dĩ nhiên, ông không cần phải chuẩn bị các thuyết minh đề tài hoặc báo cáo tiến độ hàng năm.

Mãi cho đến thế kỷ thứ 16, nói chung Galen được coi như là người có thẩm quyền tối cao về các vấn đề giải phẫu học và sinh lý học dù rằng môn “giải phẫu học con người” của ông ta chỉ dựa trên việc mổ xác các loài khác bởi vì luật pháp La Mã cấm không cho mổ xác người. Luôn luôn chống đối với các bậc tiền bối, nhất là Erasistratus và Herophilus, Galen ganh ghét ra mặt những đặc quyền và nguồn cung cấp xác của họ. Hẳn nhiên, Galen không hề dấu diếm thực tế là công trình của ông dựa trên những nghiên cứu về các loài động vật khác, như lợn, voi, hoặc “một thứ gì đó giống như người một cách lố bịch” đó là khỉ nhân hình vùng Trung Đông.

Nếu Galen không nghiên cứu giải phẫu học con người một cách hệ thống, điều này không có nghĩa là ông chưa bao giờ nghiên cứu xác người. Kinh nghiệm về giải phẫu học dồi dào của ông đã tạo điều kiện để đưa các cơ hội ngẫu nhiên thành lợi thế. Có lần, một trận lụt cuốn trôi một xác chết ra khỏi mồ và đẩy cái xác chết nằm dạt lên bờ sông, phần thịt thối ruỗng trôi mất nhưng xương vẫn còn gắn dính vào nhau. Qua lời mô tả đầy thích thú của Galen cho thấy tình huống này hiếm gặp, nhưng một vài học giả tin rằng một vài đoạn trong bộ ‘Bàn về các quy trình giải phẫu học’ cho thấy rằng việc mổ xác người đã được thực hiện trên các xác tội phạm không được chôn sau khi hành hình và các xác trẻ em sơ sinh không được mai táng. Như Celsus từng phát biểu, người thầy thuốc có thể học được nhiều điều về hình dạng và chức năng của các nội tạng khi lợi dụng các vết thương và thương tích của người bệnh để “dòm” vào bên trong cơ thể. Chắc chắn là Galen đã tranh thủ các cơ hội có được khi băng bó những vết thương khủng khiếp của các võ sĩ giác đấu. Thật vậy, Galen cho biết rằng khi quan sát các vết thương, thầy thuốc nào đã từng trải qua việc mổ xác hệ thống trên động vật sẽ biết “những gì cần biết, còn kẻ dốt nát thì chẳng học được điều gì”.

GALEN BÀN VỀ SINH LÝ HỌC:

MÁU, HƠI THỞ, KHÍ VÀ LINH HỒN

Không hề thỏa mãn với sự mô tả giải phẫu học đơn thuần, Galen luôn cố tìm những con đường vận hành từ cấu trúc đến chức năng, từ giải phẫu học đơn thuần đến sinh lý học thực nghiệm. Thật là hiếm gặp phải một vấn đề trong cái ta có thể gọi là sinh lý học cổ điển mà Galen không có ý định lý giải bằng thực nghiệm hoặc suy đoán. Bằng cách mở rộng sự nghiên cứu y học từ giải phẫu học sang sinh lý học, Galen đã đặt nền móng cho một chương trình làm biến đổi y học như một nghệ thuật theo Hippocrates thành một ngành khoa học.

Để xây dựng các nguyên tắc sinh lý học đôi khi Galen bị các tư tưởng sai lầm và định kiến làm sai lạc và bị cản trở vì những khó khăn kỹ thuật vốn gắn liền với những nghiên cứu đó. Căn cứ trên tầm vóc của công việc do ông tự đặt ra, và bản chất đồ sộ và phong phú của các tác phẩm do ông viết, thì toàn bộ sự nghiệp của ông được kính nể hơn là hiểu được. Dường như người ta nói quá nhiều về những sai lầm của ông, những sai lầm này về sau đã làm dấy lên những cuộc cách mạng trong giải phẫu học và sinh lý học vào thế kỷ 16 và 17. Do đó, điều quan trọng là phải cân nhắc đến những công trạng và những thiếu sót trong tác phẩm nhiều ảnh hưởng của Galen để có thể thỏa mãn những đòi hỏi của các học giả và thầy thuốc hàng trăm năm sau.

Hệ thống sinh lý học của Galen bao trùm những quan niệm về sự tạo máu, sự hô hấp, nhịp đập của tim, nhịp đập của động mạch, sự tiêu hóa, chức năng thần kinh, phôi thai học, sự phát triển, dinh dưỡng và sự đồng hóa. Môn sinh lý học Galen dựa trên học thuyết của Plato về sự phân chia làm ba phần của linh hồn. Học thuyết này đưa ra cách phân chia các chức năng sống thành các tiến trình chịu sự điều hành của những thứ “linh hồn” hoặc “chất khí” thực vật, động vật và duy lý. Nằm trong cơ thể con người, phần khí là hơi thở của vũ trụ, chịu những thay đổi bắt nguồn từ các tính năng bẩm sinh của ba cơ quan chính - gan, tim, và não - và được phân bố qua ba loại ống mạch - tĩnh mạch, động mạch và thần kinh. Hệ thống của Galen phức tạp và thường khó hiểu. Ngoài ra, khó và có lẽ cũng không đem lại lợi ích gì khi cố gắng phân biệt rõ ràng giữa những gì mà Galen thực sự nói và cái cách mà các học thuyết của ông ta được hiểu và truyền tụng bởi những nhà chú giải sau này. Dù vậy, đôi khi Galen nói đến nhiều điều khác nhau trong các tài liệu khác nhau và vì lẽ không phải tất cả những gì ông viết cũng đều được lưu giữ, cho nên có khả năng là những chú giải của một nhà bình chú nào đó có thể đã dựa trên những bản thảo đã bị thất lạc.

Về cơ bản, theo hệ thống Galen, khí được gan làm biến đổi để trở thành linh hồn (soul) dinh dưỡng hoặc dịch khí tự nhiên (natural spirits) có nhiệm vụ hỗ trợ các chức năng thực vật của sự tăng trưởng và dinh dưỡng; linh hồn dinh dưỡng này được các tĩnh mạch phân phối. Quả tim và các động mạch giữ nhiệm vụ duy trì và phân phối chất nóng bẩm sinh và chất khí hoặc các sinh hồn (vital spirits) để làm nóng và khởi động các bộ phận của cơ thể. Sự thích ứng thứ ba xảy ra ở não, tạo ra chất sinh dịch (animal spirits) để tạo ra cảm giác và làm cho cơ vận động; chất sinh dịch được phân phối qua các thần kinh. Đôi khi những lập luận của Galen về những vấn đề đặc biệt cho thấy ông vẫn còn dè dặt về các chức năng của các dịch khí (spirits), nhưng ông cũng tin chắc rằng đời sống động vật chỉ có thể xảy ra khi có chất khí bên trong cơ thể.

Do các lý thuyết về cử động của quả tim và mạch máu đóng vai trò trung tâm trong lịch sử y học phương Tây, cho nên các quan điểm của Galen về chủ đề này là mục tiêu của nhiều tranh luận. Phần khó khăn để dựng lại một cách đơn giản hơn quan niệm của Galen về vấn đề này nằm ở chỗ là sự hô hấp và chuyển động của máu lại gắn kết chặt chẽ trong hệ thống của Galen cho nên khó mà gỡ ra được những rối rắm của từng vấn đề, hoặc xem các vấn đề này không nằm trong các học thuyết của ông liên quan đến sự hình thành và phân bố của chất khí và dịch khí (spirits). Hô hấp rõ ràng là cần thiết cho sự sống bởi vì nó được coi như có liên quan đến quá trình làm nguội cái nóng quá mức của quả tim. Vì thế, sinh hồn (vital spirit) nhất thiết phải gắn kết với các cơ quan hô hấp, mà trong hệ thống của Galen gồm có quả tim, các động mạch cũng như phổi. Nếu quả thật có chất dịch khí tự nhiên (natural spirit), thì Galen nghĩ rằng chất này sẽ nằm trong gan và các tĩnh mạch. Khi thử đơn giản hóa các lập luận phong phú của Galen, các môn đồ của ông thường chuyển các giả thuyết “nếu có như thế” mang tính thăm dò thành những điều chắc chắn “có như thế” mang tính giáo điều.

Trong ý tưởng chính về sinh lý học của Galen, máu được tổng hợp liên tục từ các thực phẩm được ăn vào. Phần hữu ích của máu được vận chuyển dưới dạng dưỡng trấp từ ruột qua tĩnh mạch cửa rồi vào gan, tại đây, nhờ tính chất bẩm sinh của gan, dưỡng trấp được chuyển thành máu tĩnh mạch màu đen. Sau đó, các mô rút các chất nuôi dưỡng cần thiết từ máu nhờ tính năng chọn lọc riêng biệt của từng loại mô. Phần thực phẩm vô dụng được lách chuyển đổi thành mật đen. Ngay cả Galen cũng không hiểu chính xác bằng phương cách nào mà những sự chuyển đổi này - tất cả các hiện tượng mà hiện nay ta gọi chung là sự chuyển hóa - thành hình được.

Giống như Erasistratus, Galen cho rằng phải có những kết nối giữa các tĩnh mạch (bắt nguồn từ gan) và các động mạch (phát xuất từ tim) bởi vì khi chảy máu từ mạch máu nào cũng làm cạn máu của cả hệ thống. Nhưng Galen đã khéo léo gạt bỏ ý kiến cho rằng, trong điều kiện bình thường, các động mạch chỉ chứa khí mà thôi. Các lập luận và chứng cứ thí nghiệm của ông được trình bày trong một công trình ngắn gọn nhan đề ‘Liệu trong tự nhiên động mạch có chứa máu?’. Nếu động mạch của một động vật còn sống được bộc lộ và cột chặt ở hai điểm, đoạn mạch máu nằm giữa hai chỗ bị buộc sẽ chứa đầy máu. Hơn thế nữa, khi mở tung lồng ngực của một động vật còn sống, người ta thấy máu trong thất trái quả tim. Theo sơ đồ của Galen, mạch đập của động mạch sinh ra từ tim. Trong kỳ tâm trương, sự giãn nở của các động mạch sẽ hút khí từ các lỗ nhỏ ngoài da và hút máu từ các tĩnh mạch. Vì thế, các động mạch có chức năng cung cấp chất nóng bẩm sinh cho khắp cơ thể. Có thể chứng minh quan niệm này bằng cách dùng một dây buộc chặt một chi cho đến khi nào không sờ được mạch đập. Phần chi phía dưới dây buộc sẽ trở nên lạnh và nhợt nhạt, bởi vì các động mạch không còn cung cấp chất nóng bẩm sinh nữa.

Mặc dù Galen đã mô tả khá rõ ràng quả tim, các buồng tim và các van, nhưng các quan niệm tiên định đã tạo nên những điểm mù mờ, giải thích lệch lạc và thậm chí làm sai lệch các nhận xét về giải phẫu học. Để cho hệ thống Galen hoạt động thì máu phải đi thông từ tim phải sang tim trái. Vì thế, ông ta cho rằng máu trong tim phải có thể đi theo nhiều đường. Một phần máu có chứa các chất không tinh khiết, hoặc “các chất hơi có muội đen”, để thải ra ngoài qua các tĩnh mạch giống như động mạch (động mạch phổi). Máu cũng có thể đi từ tim phải sang tim trái nhờ những lỗ nhỏ ở vách tim. Không thể nhìn thấy được chính các lỗ nhỏ này, nhưng Galen giả định rằng những chỗ lõm thấy ở vách tim là miệng của các lỗ hổng. Ý tưởng cho rằng máu có khả năng phồng hoặc xẹp như thủy triều từ lâu đã nằm trong môn sinh lý học của Galen mặc dù dường như đây là một sự giải thích sai lệch của những phát biểu nói chung thường mơ hồ của Galen về chuyển động của máu trong các mạch máu. Tuy nhiên, hệ thống dường như phụ thuộc vào một chuyển động hai chiều còn chưa rõ của máu qua một số mạch máu nào đó.

Sau khi được “tiêu hóa” thích hợp ở phổi, khí hít vào được mang đến tim qua tĩnh mạch phổi. Phần không khí bị biến đổi này được tác động thêm tại tim và được vận chuyển đến các phần khác của cơ thể qua các động mạch. Máu động mạch rất nguyên chất và có chứa hơi nên có thể nuôi dưỡng được phần sinh hồn (vital spirit). Máu được tinh lọc thêm trong các động mạch cấu thành hệ mạng thần kỳ (rete mirabile) — một hệ thống các mạch máu nằm ở đáy não của bò và các động vật khác, nhưng không có ở người. Việc biến đổi máu động mạch thành chất sinh dịch (animal spirits) ở não và khi chất khí đó được phân bố qua thần kinh tức là đã hoàn tất cái hệ thống ba vòng của các chất dịch khí (spirits).

Điều rõ ràng là, cái quan niệm về tuần hoàn của máu này sẽ không phù hợp với một sơ đồ trong đó máu được liên tục tổng hợp ở gan để được đồng hóa hoặc tiêu thụ lúc nhiều lúc ít trong các mạch máu. Dĩ nhiên, tự nhiên trong hệ thống của Galen có tính chất rất phức tạp cho nên “rõ ràng là” khó tìm được một từ thích hợp để mô tả cho ngắn gọn. Thay vì làm cho chủ đề trở nên rối rắm thêm, ta hãy bàn đến các tư tưởng của Galen về cách điều trị bệnh.

GALEN BÀN VỀ TRỊ LIỆU VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA BỆNH

Khi viết về bản chất của trị liệu, Galen cho rằng cần phải có các kiến thức khoa học về nguyên nhân của bệnh thì mới bảo đảm chữa trị thành công. Về tiên lượng, Galen dựa vào các công cụ truyền thống, chẳng hạn như bắt mạch và xem xét nước tiểu và “những ngày nguy hiểm”, một dạng học thuyết của Hippocrates tuy khá cứng nhắc. Giống như Hippocrates, Galen là một nhà lâm sàng xuất sắc và một người có tài chẩn đoán bệnh; ông tin rằng người thầy thuốc phải giải thích bệnh tật theo các nguyên nhân tự nhiên. Ông cảnh báo người đọc “đừng có hỏi các vị thần cách bói ra bệnh mà nên học hỏi từ ông thầy giải phẫu học”. Mọi thứ bệnh đều có nguyên nhân tự nhiên, nhưng Galen sẵn sàng chấp nhận lời khuyên y học do Asclepius, là Thần chữa bệnh. Khi Galen bị đau đớn nhiều vì một áp-xe, Asclepius hiện ra trong giấc mộng và bảo ông này nên rạch vào một động mạch ở bàn tay phải. Sau khi thực hiện cách chữa trị này, ông đã hồi phục hoàn toàn và nhanh chóng.

Học thuyết về các chất dịch, được thể hiện trong học thuyết Galen, rõ ràng là có khả năng giải thích sự phát sinh và bản chất của tất cả các thứ bệnh và làm cho phù hợp với lý luận tất cả các dấu chứng lâm sàng.

Theo Galen, các chất dịch được hình thành khi chất nóng bẩm sinh biến đổi các chất nuôi dưỡng; chất nóng này là do sự đốt cháy chậm xảy ra ở tim. Các thực phẩm có tính ôn sản xuất ra mật, còn những thứ có tính hàn sẽ tạo ra dư thừa chất dịch nhầy (phlegm). Khi chất mật dư thừa sẽ gây ra các “bệnh ôn” và dư thừa dịch nhầy sẽ gây ra “bệnh hàn”. Có nhiều tài liệu y học Galen bàn về thực phẩm, các chất dịch và mối liên hệ giữa thực phẩm và các chất dịch. Trong số các tài liệu đó có “Bàn về các chất dịch, Bàn về mật đen, Bàn về cháo lúa mạch đen”, và “Bàn về ảnh hưởng của thức ăn”.

Để tránh mắc bệnh thì phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc vệ sinh của Galen tức là cần phải có sự hướng dẫn liên tục của một thầy thuốc có năng lực, như đã được nêu ra trong bộ sách của Galen ‘Bàn về vệ sinh’. Khác với Celsus, vốn cho rằng một người La Mã điều độ không cần nhiều đến lời khuyên y học, Galen cho rằng cần có một chế độ điều trị điều chỉnh cho phù hợp “dành cho người Hy Lạp và những người khác tuy là sinh ra ở nước ngoài nhưng muốn noi theo văn hóa của người Hy Lạp”. Chế độ nâng cao sức khỏe được điều chỉnh cho từng người do thầy thuốc đưa ra cần phải luôn chú ý đến “6 yếu tố không nằm trong tự nhiên”, là một thuật ngữ dễ gây nhầm lẫn của học thuyết Galen có nghĩa là các yếu tố mà người bệnh có thể kiểm soát được nhưng không phải là địa dư, thời tiết, mùa trong năm, và tuổi tác. Các chuyên gia sức khỏe và thể dục ngày nay có thể xem các yếu tố không -thuộc tự nhiên là phong cách sống, đó là đồ ăn thức uống, thức và ngủ, vận động và nghỉ ngơi, “tính quy củ” và “thái độ tinh thần”. Sau này, dưới tay của các thầy thuốc kém khả năng, cách tiếp cận phức tạp của Galen về dự phòng và điều trị bệnh tật dành riêng cho từng cá nhân đã suy đồi và biến thành một hệ thống trích huyết, xổ ruột, giác hơi, làm phỏng, các chế độ nhịn ăn và hỗn dịch phức tạp các thứ thuốc với liều lượng cao.

Mặc dù kính trọng Hippocrates, nhưng khi đối diện với bệnh tật, Galen không muốn đứng yên, không làm gì có hại, và để chờ bệnh tự lành lấy. Một công trình quan trọng tên là “Phương pháp chữa trị” và nhiều tài liệu khác đã làm rõ thêm cách lựa chọn này. Galen coi việc trích huyết là cách điều trị thích hợp dành cho phần lớn các thứ bệnh, kể cả xuất huyết và mệt mỏi. Cần phải khéo léo nhiều để xác định là nên lấy bao nhiêu máu, nên xẻ tĩnh mạch nào và lúc nào nên làm. Trong một số trường hợp, Galen khuyên làm hai lần trích huyết nhanh trong ngày. Lần thứ nhất nên ngừng ngay trước khi bệnh nhân ngất. Nhưng thầy thuốc cũng đừng nên sợ nếu bệnh nhân ngất lần thứ 2, bởi vì người bệnh nào chịu được lần thứ nhất cũng sẽ không bị hề hấn gì với lần thứ 2. Galen rất hào hứng với những lợi ích khi trích máu đến mức ông đã viết ba quyển sách về vấn đề này.

Một bằng chứng cho thấy tự nhiên ngăn không cho bệnh xảy ra bằng cách không cho cơ thể dư thừa máu. Galen lý luận rằng có nhiều thứ bệnh chỉ tấn công đàn ông nhưng lại chừa phụ nữ, bởi vì lượng máu dư của họ được thải đi qua kinh nguyệt và sự tiết sữa. Phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt đều đặn được cho là không bị các bệnh gút, viêm khớp, động kinh, buồn chán, đột quỵ và nhiều thứ khác. Đàn ông nào thường xuyên thải bỏ máu dư qua bệnh trĩ hoặc chảy máu cam cũng có hy vọng là không mắc phải những thứ bệnh đã nêu ở trên.

Khi nói đến học thuyết các chất dịch, thì thầy thuốc và bệnh nhân đều đồng ý là việc trích huyết để điều trị là giúp cho cơ thể thải bỏ các chất thối rữa, bẩn thỉu và độc hại. Một vài nhà khoa học cho rằng trích huyết thực sự có thể giúp ích cho một số bệnh nhân khi ngăn chặn các biểu hiện lâm sàng của một số bệnh nào đó, chẳng hạn như sốt rét, bằng cách làm giảm lượng chất sắt có trong máu. Nói chung, thiếu máu không phải là một tình trạng đáng mong muốn, nhưng sự hiện diện của chất sắt trong máu có thể sẽ giúp cho một số tác nhân gây bệnh phát triển và tăng sinh. Trích huyết cũng làm ảnh hưởng đến đáp ứng của cơ thể đối với bệnh tật khi làm giảm độ nhớt của máu và làm tăng khả năng máu lưu thông qua lưới vi quản. Trích huyết đến mức độ làm cho bệnh nhân bị ngất sẽ buộc họ phải nằm im để nghỉ cho lại sức. Nếu cho rằng sự chăm sóc tốt và môi trường hỗ trợ chung quanh là quan trọng, cũng nên chú ý rằng khi một bệnh nhân lên cơn sốt, cuồng sản, khó chiều bị trích huyết đến mức ngất, thì những người chăm sóc cũng nhân đó mà nghỉ ngơi cho lại sức.

Nổi tiếng nhờ sự hiểu biết sâu về thuốc, Galen khảo sát các tính chất của những loại thuốc đơn giản, các thứ thuốc pha chế phức tạp, và những thứ xa lạ từ các nơi xa xăm như “nhựa thơm một - dược” từ Palestine, chất đồng từ Cyprus và đất lấy từ đảo Lemos. Đất đảo Lemos chính là một loại đất sét đặc biệt (giống như Kaopectate) được đóng thành từng gói nhỏ trên đó có đóng triện mang hình nữ thần. Galen khuyên nên sử dụng thứ đất sét này để điều trị trúng độc như vết rắn cắn và các vết loét có mủ. Nhiều thứ “đất” được dùng làm thuốc hàng trăm năm qua. Rõ ràng là khi thêm hình ảnh của nữ thần vào những gói đất sét cũng không hại gì, nhưng việc tiêu thụ một số dạng đất sét và những chất không sạch tương tự có thể gây nguy hiểm.

Các hỗn dược phức tạp về sau được gọi là dược Galen và dấu hiệu “cái đầu của Galen” gắn trên cửa để cho biết đó là tiệm thuốc. Một số thuốc dạng dược Galen được các bà mệnh phụ La Mã giàu có dùng làm đồ trang điểm. Unguentum refrigerans là một dạng nhũ dịch gồm có nước pha với dầu hạnh nhân, có thêm sáp ong và nước thơm hoa hồng, tương tự như loại kem lạnh ngày nay. Ông Hoàng của các thầy thuốc cũng đưa ra các đơn thuốc khá khó chịu, chẳng hạn như mật con bò mộng, mạng nhện, da rắn lột, và dầu giúp tiêu hóa chế bằng cao chồn và linh cẩu. Trong một tác phẩm nhỏ Galen có giải thích, là các thầy thuốc lắm khi phải tham gia phát hiện những kẻ giả vờ ốm để trốn việc, và họ có thể sử dụng đem các thứ thuốc độc hại để thử trên các nô lệ không muốn làm việc, hay thử trên những công dân và binh sĩ tìm cách trốn tránh các nghĩa vụ quân sự và chính trị.

Galen cũng xây dựng những quan niệm suy đoán phức tạp về phương thức hoạt động của các chế phẩm y học và những lý luận hợp lý hóa về tác dụng y học của những thứ bùa chú và chất thải. Ông cũng sử dụng tốt những câu chuyện về sự phát hiện tình cờ các tính chất chữa bệnh của nhiều thứ chất độc. Lấy ví dụ, trong quyển ‘Bàn về những thứ đơn giản’, Galen đưa ra một câu chuyện sống động trong đó một ông lão khốn khổ vì một căn bệnh ngoài da kinh khiếp đã khỏi bệnh sau khi uống một bình rượu nho trong đó có một con rắn độc chết chìm.

Trong khắp đế quốc La Mã, những người giàu có và quyền thế sống trong sợ hãi bị hạ độc trong bàn tiệc, còn các nông dân, người lữ hành và binh sĩ thì luôn luôn bị những thứ cây độc và các con vật có nọc độc đe dọa. Galen chú ý đến các vết cắn của khỉ nhân hình, chó, rắn, nhiều loại thú hoang, và có lẽ con người nữa (có lẽ khi nhớ tới mẹ mình), tất cả đều được coi là có độc. Vì lúc nào cũng sợ hãi các chất độc và nọc độc, cho nên phải nghĩ tới việc sáng chế ra các thứ thuốc giải độc kỳ dị. Các công thức giải độc bao gồm thảo dược, chất khoáng, và các bộ phận hoặc sản phẩm từ động vật chẳng hạn như bột châu chấu khô và thịt của con rắn lục. Có thể truy tìm nguồn gốc các công thức thuốc giải độc của người La Mã đến tận thời Mithridates (132-63 trước CN), vua của xứ Pontus vùng Tiểu Á.

Nổi danh nhờ kiến thức về thảo dược, các thứ chất độc và thuốc giải độc, Mithridates đã chứng minh giá trị của các đơn thuốc của mình khi đem áp dụng trên người. Người ta nói rằng Mithridates đã gởi kèm một tù nhân bị kết án đi theo để làm vật thí nghiệm khi trao đổi các công thức thuốc giải độc với những nhà nghiên cứu khác. Nhờ mỗi ngày đều sử dụng một liều lượng thuốc giải độc tốt nhất, cho nên Mithridates được coi như miễn nhiễm với tất cả các chất độc. Năm 66 trước CN, bị quân La Mã vây khốn trong pháo đài, Mithridates đã bắt tất cả các bà vợ, nàng hầu và con gái uống thuốc độc nhưng không có thứ thuốc độc nào giết được Mithridates. Theo Galen, thầy thuốc của Nero là Andromachus đã sử dụng kiến thức về chất độc của Mithridates để bào chế một thứ thuốc giải tuyệt chiêu, một hỗn hợp kinh khủng có chứa 64 thành phần, trong đó có thuốc phiện và thịt con rắn lục. Andromachus cho rằng thuốc giải độc của mình là một thứ rượu bổ đồng thời cũng là một thứ thuốc giải bá độc.

Tài năng và sự trung thực của Galen được các người bảo trợ đánh giá rất cao đến mức ba vị Hoàng đế La Mã đã tin cẩn giao cho ông bào chế thuốc giải độc cho họ. Do những người khác thường đối mặt với nguy cơ gặp những sản phẩm chất lượng xấu hoặc giả mạo, cho nên Galen đưa ra ý kiến là những người mua thuốc nên kiểm chứng công hiệu của các thứ thuốc giải độc bằng cách uống một thứ thuốc gây xổ nhẹ. Nếu thứ thuốc được gọi là giải độc có thể chặn được tác dụng bình thường của thứ thuốc uống vào, thì thứ thuốc giải độc đó là thật. Thuốc giải độc chân thực phải được pha chế với các thành phần có chất lượng tốt nhất. Mặc dù, có thể hoàn tất trong vòng 40 ngày các công việc nghiền, trộn, đun nóng và khuấy chế phẩm cuối cùng, nhưng những người có thẩm quyền cho rằng nhất thiết phải để thời gian ủ từ 5 đến 12 năm. Trong suốt thời Trung cổ, thuốc giải độc là một món hàng buôn bán quan trọng giữa các thành phố Venice, Milan, Genoa, Padua, Bologna, và Cairo. Tại một số đô thị, việc sản xuất thuốc giải độc là một sự kiện lớn. Thuốc giải độc, thịt và toàn thân rắn lục vẫn còn gặp trong các Dược điển của Pháp và Đức đến tận cuối thế kỷ 19. Tại Anh, thuốc giải bá độc biến dạng thành một loại kẹo gọi là mật đường (treacle).

Được nhiều người nể trọng là một thầy thuốc và triết gia, rõ ràng là Galen thành thạo trong nghệ thuật làm thuốc cũng như trong khoa học. Ý thức được rằng nghề y bị mang tiếng xấu vì tham vọng, ưa cãi vã và tham lam, cho nên Galen nhấn mạnh đến sự khéo léo, phẩm cách và thái độ không màng đến tiền bạc. Ông khuyến khích các thầy thuốc nên rèn luyện nghệ thuật khêu ra những manh mối liên quan đến tình trạng bệnh tật của người bệnh thậm chí trước khi bước vào buồng bệnh. Một cách là hỏi bất chợt người đi mời thầy thuốc, cũng như bạn bè và thân nhân người bệnh. Cũng có thể moi thêm các đầu mối khi kín đáo quan sát những gì đựng trong bô lấy từ buồng bệnh đem đi đổ vào hố phân và những thứ thuốc đã dùng. Một nguồn tin tức khác có giá trị là bắt mạch khi khám bệnh. Để tránh bị trách cứ khi không thành công và để chiếm được lòng ngưỡng mộ, người thầy thuốc phải trau dồi nghệ thuật đưa ra chẩn đoán và tiên lượng giống như kiểu thầy bói. Một ứng dụng khéo léo của chiến thuật này là đưa ra tiên lượng xấu nhất khi miễn cưỡng phải nhận chữa ca bệnh. Nếu bệnh nhân chết, thì dự đoán của thầy thuốc là đúng; nếu bệnh nhân qua được, thì thầy thuốc được coi là người tạo ra phép mầu.

Nói cho cùng, thì Galen quả thật là người tạo ra phép mầu; người cùng thời thừa nhận sự nghiệp đáng kể của ông về mặt số lượng và chất lượng. Ngay cả những ai từng tranh luận kịch liệt với Galen cũng phải kính phục trí thông minh, sức làm việc và sự cuồng nhiệt của ông khi bảo vệ học thuyết của mình. Tuy nhiên, mặc dù giỏi giang trong tranh luận, giảng dạy cho nhiều người, nhưng Galen hầu như không có học trò hoặc môn đồ. Có lẽ những cá tính của ông vốn làm cho các vị Hoàng đế La Mã và các quan chức cao cấp ái mộ, thì lại làm cho ông bị các đồng nghiệp và học trò xa lánh. Trong khi một số trong các công trình đồ sộ của ông bị thất lạc qua nhiều thế kỷ sau khi ông mất và nhiều công trình khác bị quên lãng, thì những đoạn trích, chú dẫn và bản dịch các tài liệu của ông lại trở thành một bộ phận chính trong giáo trình y học và văn chương bác học của cuối thời cổ đại và thời Trung cổ.

Một bản dịch giản hóa, có sửa đổi và rút gọn công trình của ông được gọi là Học thuyết Galen đã chi phối nền giáo dục y học suốt thời Trung cổ của châu Âu và Thời Hoàng kim của Hồi giáo. Thẩm quyền của Galen chỉ bị thử thách nghiêm trọng khi kỹ thuật in ra đời và trùng với thời điểm người ta quay lại chú ý các tác phẩm chân chính của thời cổ đại, nhờ đó đã làm cho các công trình thực sự của Galen và Hippocrates được phổ biến rộng rãi. Rốt cuộc, khi các học thuyết về sinh lý học và giải phẫu học của Galen bị công kích dữ dội vào thế kỷ thứ 16 và 17, thì các thầy thuốc mà hiện nay ta coi là những người cải cách và cách mạng đã khởi nghiệp với tính cách là các môn đồ của Galen. Có lẽ những công kích của họ về học thuyết Galen nên được coi là sự chiến thắng đúng nghĩa của tinh thần Galen, người thầy thuốc, triết gia và nhà khoa học.