BỆNH GIANG MAI VÀ SỰ THÍ NGHIỆM TRÊN CON NGƯỜI
Năm 1932, Cơ quan Y tế công cộng Mỹ (United States Public Health Service) khởi xướng một nghiên cứu về lịch sử tự nhiên của bệnh giang mai không được điều trị, có phần nào dựa theo nghiên cứu Oslo, mặc dù động cơ nghiên cứu không phải vì sự nghi ngờ hiệu quả điều trị. Được tiến hành tại Macon County, Alabama, với sự giúp đỡ nhân lực của viện Tuskegee, Bệnh viện Cựu chiến binh tại Tuskegee, Phòng Y tế Macon County và nhiều cơ quan khác, thí nghiệm này được biết dưới tên nghiên cứu Tuskegee, mặc dù trong thập niên 1970, Viện Tuskegee cho rằng mình không có hoặc ít liên hệ với cuộc thử nghiệm sau thập niên 1930. 600 đàn ông da đen nghèo được đưa vào nghiên cứu với lời hứa là họ sẽ được miễn phí y tế và được chu cấp tiền bạc để chôn cất (sau khi làm giải phẫu bệnh): 400 người được chẩn đoán mắc bệnh giang mai và 200 được chọn làm nhóm chứng không nhiễm bệnh.
Các báo cáo từ nghiên cứu Tuskegee về bệnh giang mai không được điều trị trên đàn ông da đen xuất hiện khá đều đặn từ 1936 đến tận thập niên 1960. Có nhiều viên chức liên bang và địa phương giúp đỡ các nhà nghiên cứu khi có tình huống rắc rối. Lấy ví dụ, R.A.Vonderlehr, thứ trưởng Y tế, dùng ảnh hưởng của mình để bảo đảm rằng các đối tượng nghiên cứu sẽ không được nhận những phác đồ điều trị có hiệu quả từ các thầy thuốc không tham gia nghiên cứu. Năm 1943, khi Vonderlehr được báo cáo rằng ủy ban tuyển mộ nhập ngũ có thể buộc một số đối tượng nghiên cứu phải điều trị bệnh hoa liễu, ông ta đã yêu cầu ủy ban miễn nhập ngũ những người nằm trong danh sách nghiên cứu. Vonderlehr không chút nghi ngờ là ủy ban sẽ hợp tác nếu các nhà nghiên cứu chứng tỏ “tầm quan trọng khoa học” để hoàn thành nghiên cứu. Trong suốt thời gian thí nghiệm, các thầy thuốc tham gia nghiên cứu đã cố tình không cho họ được điều trị gì cả và lừa gạt họ khi cam đoan rằng họ đang được chăm sóc đúng mức để chữa bệnh do “máu xấu”. Năm 1970, một viên chức của Cơ quan Y tế Công cộng tuyên bố rằng nghiên cứu Tuskegee không phù hợp với mục đích phòng chống bệnh hoa liễu bởi vì không rút ra điều gì trong một nghiên cứu được thiết kế sơ sài và triển khai tệ hại mà chẳng hề “ngăn ngừa, phát hiện hoặc chữa khỏi” một ca giang mai nào cả. Nhưng chỉ mãi đến năm 1972 khi các nhà báo xoi mói đưa thí nghiệm này ra công chúng thì nghiên cứu mới chấm dứt.
Cho tới 1997 còn 8 người sống sót trong nghiên cứu Tuskegee, trong đó có ông Shaw và ông Simmons 95 tuổi, khai là mình đã 110 tuổi, khi Tổng thống Clinton đưa ra lời xin lỗi chính thức đối với công trình nghiên cứu đáng hổ thẹn Tuskegee. Mục đích của Tổng thống là mang lại niềm tin cho hệ thống nghiên cứu y sinh học của quốc gia bằng cách đưa ra những luật lệ nhằm bảo đảm rằng tất cả các chương trình nghiên cứu y học đều phải tuân thủ các tiêu chuẩn cao nhất về đạo đức và rằng các nhà nghiên cứu nên cộng tác chặt chẽ hơn nữa với cộng đồng. Bộ Y tế và các Dịch vụ con người đưa ra các kế hoạch thành lập một trung tâm tại Tuskegee để đào tạo đạo đức y học coi đây là một đài tưởng niệm dành cho các nạn nhân của nghiên cứu Tuskegee. Tổng thống cũng mở rộng các điều khoản trong hiến chương của Ủy ban Tư vấn Quốc gia về Đạo đức trong y học.
Nghiên cứu Tuskegee chẳng đưa ra điều gì có giá trị về lịch sử tự nhiên của bệnh giang mai ngoài một câu chuyện đáng buồn về sự phân biệt chủng tộc, sự nghèo đói và dốt nát. Các sử gia khi phân tích nghiên cứu Tuskegee đi đến kết luận là nghiên cứu này “đưa ra ánh sáng nhiều điều về bệnh học của sự phân biệt chủng tộc hơn là về bệnh học bệnh giang mai”. Các cuộc điều tra chính thức thường tập trung vào câu hỏi vì sao nghiên cứu này được phép tiếp tục sau thập niên 1940 khi Penicillin đã là thứ thuốc đầu tay dành để trị bệnh này. Luận cứ luôn được viện dẫn cho việc từ chối điều trị cho bệnh nhân trong những năm của thập niên 1930 là vì những thứ thuốc thời ấy không có tác dụng đối với bệnh giang mai. Trong thập niên 1930, các thầy thuốc không còn ca ngợi Salvarsan như là một thần dược điều trị bệnh giang mai nữa, nhưng họ lại bắt bệnh nhân phải theo những chương trình điều trị tốn kém thời gian, tiền của và đau đớn như tiêm bắp Salvarsan nhiều lần, kết hợp với việc thoa ngoài da các thứ thuốc mỡ thủy ngân hoặc bismuth. Có lẽ các vấn đề đạo đức vì sao điều trị cho người khá giả, từ chối không điều trị cho người nghèo chỉ có ý nghĩa trong giai đoạn trước khi Penicillin ra đời.
Cả hai thí nghiệm Oslo và Tuskegee liên quan đến các nghiên cứu về bệnh giang mai mắc phải tự nhiên, nhưng nghiên cứu khác về bệnh lại liên quan đến sự gây nhiễm cố ý trên các đối tượng con người. Trong khi một số nhà nghiên cứu lấy thân mình làm vật thí nghiệm, thì những thí nghiệm của Camille Gibert (chết 1866) và BS Joseph Alexandre AuziasTurenne (chết 1870) tại Paris năm 1859 lại sử dụng bệnh nhân trong bệnh viện. Auzias-Turenne tự xưng là người sáng chế ra “phương pháp gây bệnh giang mai”, tức là ông ta cho tiêm vào người bệnh một loạt các dạng “virus giang mai” đã được làm yếu đi, những thứ này được lấy từ các bệnh nhân vào các giai đoạn giang mai khác nhau. Auzias-Turenne tin rằng những thí nghiệm của ông ta sẽ giải quyết xong cuộc tranh luận đương thời về các triệu chứng và tính lây nhiễm của giang mai giai đoạn 2. Để chứng minh rằng giang mai giai đoạn 2 cũng lây nhiễm, AuziasTurenne tiêm “chất mủ” lấy từ một bệnh nhân bị giang mai giai đoạn 2 cho 4 bệnh nhân nằm viện - những người này không bị bệnh hoa liễu. Tất cả 4 người này đều mắc bệnh. Phần lớn cộng đồng y khoa đều lên án những kiểu thí nghiệm này là vi phạm đạo đức và không cần thiết. Nhìn chung, các bác sĩ và công chúng đều phản ứng với những thí nghiệm có thể làm hại cho bất cứ bệnh nhân nào dù giàu hay nghèo. Tuy nhiên, Auzias-Turenne lại hồ hởi bởi vì công trình của ông ta đã buộc Ricord phải thừa nhận là giang mai giai đoạn 2 cũng lây nhiễm.
Các động vật thí nghiệm, như thỏ chẳng hạn, dần dà được sử dụng trong nhiều nghiên cứu về Treponema pallidum, nhưng các nhà nghiên cứu lập luận rằng một số vấn đề chỉ có thể tìm được câu trả lời trên các đối tượng con người. Lấy ví dụ, năm 1916, Udo J. Wile tiêm cho thỏ treponema lấy từ não người bị liệt vì giang mai. Những nghiên cứu này được đưa ra nhằm xác định liệu giang mai thần kinh là do một chủng nhất định của con vi trùng gây giang mai. Wile khoan sọ người bệnh nhập viện vì loạn thần kinh do giang mai để lấy mô não. Noguchi và các nhà khoa học khác đã nghiên cứu mối liên hệ giữa T.pallidum trong các phẫu tích não được lưu giữ hoặc trên các mẫu nghiệm giải phẫu bệnh còn mới, nhưng Wile lập luận rằng cần phải chứng minh sự hiện diện của các con xoắn khuẩn còn hoạt động trên não của người bị liệt đang sống. Ông ta cho biết, những phát hiện như thế sẽ rất quan trọng trong việc điều trị bệnh nhân bởi vì nhiều thầy thuốc vẫn còn cho rằng người bệnh giang mai giai đoạn liệt không thể lây bệnh được.
VIỆC PHÁT HIỆN RA SỰ TUẦN HOÀN CỦA MÁU
Cuộc Cách mạng Khoa học thường được nghĩ đến dưới hình thức các khoa học tự nhiên, nhưng khi chuyển sự quan tâm từ môn vật lý và thiên văn học sang y học và sinh lý học, ta có thể tìm những phương cách mới để tìm hiểu và kết hợp khoa học và y học vào trong nội dung của những thay đổi về chính trị, tôn giáo và xã hội của thời kỳ này. Vào thế kỷ thứ 16, như chúng ta đã thấy, các nhà giải phẫu học và giả kim thuật đã thách đố các tư tưởng thời cổ đại về bản chất của tiểu vũ trụ, tức là cái thế giới nhỏ bé của cơ thể con người. Vào thế kỷ thứ 17, William Harvey và ngành sinh lý học thực nghiệm đã chuyển đổi cách suy nghĩ về ý nghĩa của nhịp tim, mạch, và sự di chuyển của máu. Các kiến thức mang tính cách mạng rọi vào cái tiểu vũ trụ đã củng cố cho những ngỡ ngàng xảy ra khi Copernicus, Kepler, và Galileo tước bỏ vai trò trung tâm của vũ trụ của Trái đất.
Máu luôn luôn gợi lên những liên tưởng kỳ bí vốn không liên quan gì đến vai trò sinh lý học của thứ mô dạng lỏng này. Máu được dùng trong các nghi thức tôn giáo, các nghi thức tín ngưỡng phồn thực, bùa ngải, và thuốc, và không có phim kinh dị nào lại không vung vãi máu me. Sức mạnh, lòng can đảm và khí lực thanh xuân đều được cho là nằm trong máu. Thậm chí các thầy thuốc và các nhà thần học thời Phục hưng đều tin rằng máu của thanh niên có chức năng chữa bệnh. Người ta nói rằng các thầy thuốc của Giáo hoàng Innocent VIII (1432-1492) đã kê đơn máu người để tìm cách mang lại khí lực cho vị Giáo hoàng đang thoi thóp. Không rõ máu được đưa vào cơ thể bằng cách nào, nhưng kết quả thì có thể đoán trước được. Ba thanh niên cho máu chết, Giáo hoàng cũng chết, còn mấy ông thầy thuốc của ngài thì mất tăm dạng.
Các triết gia, thầy thuốc và dân thường đều có chung niềm tin về sức mạnh của máu, tinh thần hăng hái hầu như phổ biến trong việc trích máu trị bệnh dường như trái ngược với các cảm nhận hiện đại. Tuy nhiên, trong hàng trăm năm, học thuyết của Galen và thực hành y học đã đòi hỏi và hợp lý hóa việc trích máu điều trị và dự phòng như một phương cách để lọc bỏ các chất dịch xấu ra khỏi cơ thể. Theo Nguyên lão Pliny (23-79) nhà bách khoa người La Mã, ngay cả các động vật hoang dã cũng thực hiện cách trích máu. Các thầy thuốc chuyên trích máu đã tấn công người bệnh với nào là mũi tên, dao, dao mổ, lọ giác hút và con đỉa. Thật vậy, cho tới mãi gần đây, thầy thuốc ngoại khoa vẫn quen cách làm cho máu chảy bằng dao mổ và con đỉa hơn là tìm cách bịt kín không cho dòng máu chảy.
Mặc dù các nhà giải phẫu học thời Phục hưng đã bác bỏ nhiều ảo tưởng của trường phái Galen liên quan đến cấu trúc cơ thể con người, nhưng các quan niệm của họ về chức năng của cơ thể cũng chẳng thay đổi gì mấy. Các học thuyết thời xa xưa được đưa ra nhằm bảo vệ cho các thầy thuốc khi phải đối diện với những vấn nạn về nghề nghiệp, chính trị, tri thức và thần học. Ngay cả Vesalius cũng tránh không công kích trực tiếp vào môn sinh lý học của Galen và cũng khá mơ hồ về toàn bộ vấn đề phân bố của máu và linh hồn (spirits). Khi sự tìm tòi khoa học có khả năng dẫn tới tư tưởng lạc đạo, Vesalius thấy rằng cần phải viện dẫn đến các tác giả cổ đại và thán phục trước sự tài tình của Tạo hóa. Nhưng mặc dù có những vấn đề tế nhị về sự liên hệ giữa sự di chuyển của dòng máu và sự phân bố của linh hồn (spirits), các nhà khoa học khác của thế kỷ 17 lên tiếng thách thức ý kiến của Galen cho rằng có một lối tắt lưu thông máu giữa tim phải và tim trái.
Michael Servetus (1511-1553), thầy thuốc châu Âu đầu tiên mô tả hệ thống tuần hoàn phổi, là một người dành cả đời tranh đấu chống lại chủ nghĩa giáo điều và tính bất dung tràn ngập khắp thế giới thời Phục hưng. Nếu có người nào phải chết hai lần cho những tín niệm của mình thì người đó là Servetus. Ông ta tấn công dữ dội vào chủ nghĩa chính thống đến mức ông bị người Công giáo đem đốt hình nộm và người Tin lành đốt sống. Khi công kích giáo điều tôn giáo, Servetus chứng minh rằng các thông tin về giải phẫu học đương thời đủ để cho phép một kẻ lạc đạo hiểu rõ là máu trong hệ tuần hoàn nhỏ hay tuần hoàn phổi đi theo đường nào.
Servetus từ giã quê nhà Tây Ban Nha để đi học luật, nhưng chẳng bao lâu sau ông ta gia nhập vào đội ngũ các học giả lang thang và các tâm hồn trăn trở muốn dành cả cuộc đời để quấy rầy vũ trụ. Sau khi chuyên luận lớn đầu tiên, Về những sai lầm của ba ngôi (1531) được xuất bản, các nhà thần học Công giáo lẫn Tin lành đều nhất trí tác giả là một kẻ lạc đạo tệ hại nhất. Thấy cần phải giấu kín hành tung, Servetus chọn một lý lịch mới ‘‘Michael Villanovanus’’. Với tên này, ông ta đến học tại Đại học Paris trước khi xuống Lyons nơi mà ông cho công bố một ấn bản mới bộ Địa lý học của Ptolemy, nhà thiên văn và địa lý thành Alexandria. Thậm chí khi biên tập một tác phẩm cổ điển rất xa xưa như thế, Servetus cũng không bỏ lỡ cơ hội phát biểu các ý kiến nguy hiểm. Khi tả về nước Pháp, Servetus nhắc đến nghi lễ Chữa bệnh nhờ Đế Vương chạm vào (Royal Touch) trong đó nhà vua đã chữa khỏi một cách kỳ diệu những người bị chứng tràng nhạc (hạch lao ở cổ). Ông ta viết: “Chính tôi đã thấy nhà vua sờ nhiều người mắc bệnh này, nhưng chẳng thấy ai khỏi bệnh cả”.
HÌNH
Các tác giả có công khám phá ra hệ thống hệ tuần hoàn lớn và nhỏ.
Quay lại trường Đại học Paris để học nghề y, Servetus kiếm sống bằng cách dạy thêm toán, địa lý và thiên văn học. Khi ông ta bước qua ranh giới mà học thuyết Thiên Chúa giáo vạch ra giữa những lĩnh vực được chấp nhận trong khoa chiêm tinh và khu vực cấm trong chiêm tinh phán đoán (chủ yếu là bói toán), thì ông bị dọa rút phép thông công. Những sự công kích về môn chiêm tinh phán đoán có thể truy nguyên từ thời Thánh Augustine (354-430), nhưng sự chống đối thần học và sự hoài nghi triết học dường như trở nên dữ dội hơn vào cuối thế kỷ 15. Mặc dù ý hướng đầu tiên là phải bảo vệ các hành động của mình, nhưng không thể nào làm khác hơn được nên Servetus đành phải rút lui vào bóng tối. Sự tách rời sau đó giữa y học và chiêm tinh trong tầng lớp học giả tại Pháp được coi là do sự công kích vào khoa y của đại học Paris nhằm vào một chiêm tinh gia có tên là Villanovanus vào năm 1537.
Như thể muốn có thêm rắc rối, Servetus bắt đầu trao đổi thư tín với John Calvin (1509-1564), một nhà cải cách tôn giáo người Pháp phái Tin lành, người khai sinh ra một hệ thống tôn giáo đặt các tín điều trên sự tiền định và cứu chuộc chỉ nhờ ơn Chúa. Ngoài việc chỉ trích tác phẩm Các Nguyên Lý Cơ đốc Giáo của Calvin, Servetus còn gởi trước cho ông này một bản của chuyên luận cấp tiến của mình, Về Sự Phục hồi Đạo Cơ đốc (1553). Calvin đáp trả bằng cách gởi những trang sách xé từ quyển Phục hồi này cho Tòa án tôn giáo kèm theo thông tin rằng Servetus đã in ra một quyển sách chứa đầy những lời báng bổ đầy xúc phạm. Servetus bị bắt và nhốt vào ngục nhưng tìm cách thoát ra được trước khi bị đưa ra xử, kết tội và đốt hình nộm. 4 tháng sau, Servetus lộ diện tại Geneva của Calvin, tại đây ông ta bị bắt và kết tội bị thiêu sống “không chút thương xót”. Nhiều cố gắng nhằm làm giảm nhẹ bản án thành thiêu sống “với sự khoan dung” (tức là thắt cổ trước rồi mới đem thiêu) không thành công. Hầu như tất cả các bản vừa mới in của quyển Phục hồi đều bị ném vào lửa. Năm 1903 giáo đoàn phái Calvin tại Geneva bày tỏ sự hối tiếc và dựng lên một tượng đài kỷ niệm cho một kẻ lạc đạo hy sinh. Hơn thế nữa, khi phúc tra lại vụ án cho thấy rằng án tử hình không đúng luật, bởi vì hình phạt đúng mức chỉ ở mức trục xuất.
Do thực tế là sự trình bày của Servetus về tuần hoàn phổi bị chôn vùi trong 700 trang sách của bộ Phục hồi, rõ ràng là động cơ và cảm hứng của ông này trước tiên là vì tôn giáo chứ không phải y học hoặc khoa học. Theo Servetus, để hiểu được mối liên hệ giữa Thượng đế và nhân loại, và để biết đấng Thánh Linh, ta phải hiểu được cái hồn trong cơ thể con người. Sự hiểu biết về chuyển động của máu đặc biệt quan trọng, như được nêu trong chương Lê Vi ký trong Cựu Ước, “sự sống của xác thịt nằm trong máu”. Không đồng ý với các quan niệm của Galen, Servetus lập luận rằng trên thực tế, có nhiều máu được đưa vào phổi hơn là nhu cầu nuôi dưỡng của phổi cho thấy rằng việc máu đi qua những lỗ trên vách tim không phải là lối chính để máu đi vào buồng tim trái. Trong hệ thống của Galen, nạp oxy vào máu là chức năng của thất trái, nhưng Servetus nghĩ rằng sự thay đổi màu của máu chứng tỏ rằng quá trình nạp oxy xảy ra ở phổi. Thế rồi, máu màu đỏ tươi sau khi đã được nạp sinh khí do sự trộn lẫn giữa không khí và máu ở phổi sẽ được chuyển lại thất trái. Servetus không tiếp tục xét đến khả năng của một hệ thống tuần hoàn toàn thân. Hiển nhiên là ông ta thỏa mãn với việc đã hòa giải môn sinh lý học với những tín niệm thần học có liên quan đến sự thống nhất của linh hồn.
Michael Servetus
Thế thì Servetus đã mang lại ảnh hưởng gì cho khoa học thế kỷ thứ 16? Nhìn lại, Servetus có vẻ là một anh hùng, nhưng nếu những người đương thời hiểu được công trình của ông, họ vẫn không có khả năng đồng cảm với kẻ lạc đạo xấu số. Hơn thế nữa, các sử gia tin rằng chỉ có ba cuốn Phục hồi không bị lửa làm cháy mất. Khó có khả năng là Servetus đã có ảnh hưởng đến các nhà giải phẫu học nhiều hơn là Ibn an-Nafis, một thầy thuốc người Ai Cập đã mô tả hệ thống tuần hoàn phổi vào thế kỷ thứ 13. Tuy nhiên, luôn luôn có nhiều điều không chắc chắn về sự truyền bá thực sự các thông tin và tư tưởng - nhất là những điều được coi là lạc đạo, nguy hiểm và mang tính phản loạn khi đối chiếu với những nguồn tài liệu còn sót lại. Dù Servetus có tạo ra ảnh hưởng hay không trên nền khoa học thế kỷ 16, sự nghiệp của ông vẫn là một sự phát hiện kỳ thú về phần tối tăm của thời Phục hưng và sự thiếu khoan dung tôn giáo. Quyển Phục hồi của ông chứng minh rằng vào thế kỷ 16, một con người không được đào tạo nhiều về y học và giải phẫu học có thể phát hiện ra được cách thức hoạt động của hệ tuần hoàn phổi.
Không hề có một khuôn mặt đầy màu sắc như Servetus, Realdo Colombo (Renaldus Columbus (khoảng 1510-1559)), là một nhà khoa học và thầy giáo có ảnh hưởng nhiều hơn. Colombo là con của một người bán thuốc, học việc tại một phẫu thuật viên người Venice trong 7 năm trước khi bắt đầu học y khoa, phẫu thuật và giải phẫu học tại Đại học Padua. Hồ sơ của trường đại học cho biết ông là một sinh viên xuất sắc về phẫu thuật. Khi Vesalius, vốn là giáo sư về môn giải phẫu học và phẫu thuật từ năm 1537, rời trường đại học năm 1542 để trông coi việc xuất bản bộ sách The Fabrica, thì Colombo được bổ nhiệm để thay thế Vesalius. Colombo được bổ nhiệm làm giáo sư chính thức năm 1544 khi Vesalius từ chức. Bày tỏ sự bất kính đối với người tiền nhiệm giỏi giang, Colombo trở thành một trong những người phê bình to tiếng nhất đối với bộ The Fabrica và các đồng nghiệp cũ lại trở thành những kẻ thù ác liệt. Vesalius gọi Colombo là tên đểu cáng và dốt nát.
Từ lúc thực hiện những phiên trình bày giải phẫu học công cộng đầu tiên cho đến khi chết, Colombo nhắc mọi người chú ý đến những sai sót trong công trình của Vesalius và thổi phồng những tài năng của mình trong phẫu thuật, phẫu nghiệm, mổ xác và mổ xác người sống. Tuy nhiên, Colombo không thành công trong cố gắng thực hiện một bộ chuyên luận giải phẫu học có minh họa ăn đứt bộ The Fabrica. Năm 1545, Colombo rời Padua để nhận chức giáo sư tại Pisa. 3 năm sau, ông định cư vĩnh viễn tại Rome. Sau này, nhà giải phẫu học Gabriele Fallopio (1523-1562), người gọi Vesalius là “Vesalius thần thánh” đã tố cáo Colombo ăn cắp các phát hiện do ông và các nhà giải phẫu học tìm ra. Bộ Các quan sát giải phẫu học của Fallopio chủ yếu là những bài bình chú về bộ The Fabrica.
Colombo có thể đã mô tả hệ tuần hoàn phổi ngay từ năm 1545, nhưng bộ chuyên luận về giải phẫu học của ông, De re anatomica, mãi đến 1559 mới được xuất bản. Kêu gọi người đọc chấp nhận những quan sát của mình có được qua mổ xác và mổ người sống, Colombo khoe rằng chỉ một mình đã phát hiện được cái cách mà hai lá phổi đóng vai trò sản sinh ra các khí lực. Không khí đi vào hai lá phổi, tại đây không khí hòa trộn vào máu đi từ động mạch phổi phát xuất từ thất phải. Máu và khí được chuyển vào các nhánh tĩnh mạch phổi để đến thất trái từ đó phân phối ra khắp cơ thể. Mặc dù Ibn an-Nafis và Michael Servetus cũng đã mô tả hệ tuần hoàn phổi, nhưng Colombo rõ ràng không hề biết đến công trình của họ và đã khám phá ra hệ thống này khi tự mổ xác và làm các thực nghiệm trên cơ thể sống. Ngoài ra, do không được học hành chính quy bằng Vesalius, cho nên chắc hẳn ông ta không biết nhiều đến một số điều mà Galen viết về phổi, tim và máu. Mặc dù mạnh miệng về tính độc đáo và bạo gan, Colombo khá bảo thủ khi bàn luận về chức năng của tim, máu và hô hấp. Bất luận thế nào, học thuyết của Galen vẫn còn được bảo vệ quá vững chắc đến nỗi khó mà tìm được những chỗ thiếu nhất quán và cần chỉnh lý.
Khó khăn để xây dựng mối liên hệ giữa một phát kiến khoa học, hoặc một quan sát chuyên biệt, và sự chuyển hướng của các thầy thuốc với một lý thuyết mới được minh họa khá rõ trong trường hợp Andrea Cesalpino (Andreas Cesalpinus; 1519-1603). Được một số người ngưỡng mộ ca tụng là người phát hiện ra cả hệ tuần hoàn lớn lẫn hệ tuần hoàn nhỏ, Cesalpino, giáo sư y khoa và thực vật học của Đại học Pisa, là một người có học vấn uyên thâm, người vừa hết lòng tôn kính Aristotle nhưng cũng không bỏ qua những cải tiến của thời Phục hưng. Các học thuyết y khoa của ông đặt cơ sở trên khung triết học Aristotle được xây dựng trong quyển Quaestionum peripateticarum do ông viết năm 1571. Trong khi cũng viết nhiều sách về y học thực hành, nhưng lĩnh vực ưa thích của ông lại là thực vật học.
Điều chắc chắn là, Cesalpino có năng khiếu chọn những từ như sự tuần hoàn và các mao mạch là những từ nghe có độ dự cảm đáng chú ý trong tai của hậu thế, ít nhất cũng là trong dịch thuật. Những mô tả của ông về các van tim, mạch máu nối liền tim với phổi và các con đường của tuần hoàn phổi được xác định rõ ràng. Cesalpino cũng sử dụng những thuật ngữ trữ tình để ví von trái tim như một nguồn nước phun ra 4 mạch máu lớn tưới khắp cơ thể “giống như 4 con sông chảy ra từ Thiên đàng”. Nếu những người cùng thời với Cesalpino thường bỏ qua những ý kiến của ông về trái tim, thì những người ủng hộ Cesalpino hiện đại đã bỏ nhiều công sức để tìm ra những phần được ông đề cập liên quan đến hệ tuần hoàn và sắp xếp những viên ngọc quý này thành các sơ đồ giúp cho các độc giả có ít thời gian không bỏ sót.
Giống như Servetus, Cesalpino xứng đáng được coi như là người phản ánh tầm vóc các tư tưởng của các nhà giải phẫu học thế kỷ 16. Cesalpino bận bịu với các tư tưởng thuộc trường phái Aristotle về vị trí ưu thế của tim và sự vận chuyển của chất nóng bên trong cơ thể. Là người theo Aristotle, Cesalpino tấn công các quan niệm của Galen bằng những luận cứ triết học và bằng chứng về giải phẫu học. Về việc này, Cesalpino xứng đáng có một chỗ trong lịch sử sinh lý học, nhưng không phải là chỗ của chính William Harvey.
Do William Harvey cho rằng sự trình bày các van tĩnh mạch do Girolamo Fabrici (Hieronymus Fabricius; 1533-1619), thầy của ông ta tại Đại học Padua, là một yếu tố chính giúp ông nghĩ rằng máu lưu hành theo một vòng tròn, sự khám phá ra những cấu trúc này chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử của hệ tuần hoàn. Có nhiều nhà giải phẫu học đã mô tả về các van tĩnh mạch hầu như cùng lúc với Harvey, nhưng ở đây ta chỉ xem xét công trình của con người đã trực tiếp truyền cảm hứng cho Harvey.
Sau khi lấy học vị tiến sĩ tại Đại học Padua, Fabrici mở được một phòng mạch tư phát đạt và dạy môn giải phẫu học. Dần dà ông ta thay thế chức danh giáo sư phẫu thuật và giải phẫu học của Gabriele Fallopio. Dạy môn giải phẫu học là một công việc khó khăn và buồn chán và Fabrici cũng như Fallopio dường như trốn tránh nhiệm vụ này mỗi khi có cơ hội. Đôi khi ông ta bỏ đi trước khi hoàn tất khóa học, làm nổi giận các sinh viên đến Padua tìm học nhà giải phẫu học danh tiếng. Fabrici coi việc giảng dạy là một cực hình ảnh hưởng lớn tới việc nghiên cứu và hành nghề tư của mình. Học trò than phiền rằng ông ta chán nản ra mặt và không thiết tha gì đến việc dạy dỗ. Có lẽ họ cho rằng đúng ra thầy phải nhiệt tình còn học trò thì nên buồn chán và hững hờ. Chuyên luận “Về các van của tĩnh mạch” mãi đến 1603 mới được xuất bản, nhưng Fabrici cho biết rằng ông ta đã nghiên cứu về cấu trúc, sự phân bố và chức năng của các van tĩnh mạch từ năm 1574. Fabrici cho rằng Tự nhiên đã tạo ra các van là nhằm làm chậm lại dòng máu đi từ tim ra ngoại vi để cho mọi bộ phận của cơ thể nhận đều chất nuôi dưỡng. Các động mạch không cần đến van bởi vì nhịp đập liên tục của thành mạch dày sẽ ngăn không cho động mạch bị dãn ra, phồng lên và tụ máu lại. Sau khi kêu gọi mọi người chú ý đến một thủ thuật thông thường, Fabrici cho thấy rằng khi buộc một dây thắt vào cánh tay của người sống để chuẩn bị trích huyết, ta có thể thấy những nốt nhỏ xuất hiện dọc theo đường đi của tĩnh mạch. Khi mổ xác cẩn thận sẽ phát hiện rằng những chỗ phồng này tương ứng với vị trí của các van trong tĩnh mạch. Tò mò vì phần trình bày của Fabrici về các van tĩnh mạch, Harvey lặp lại những thí nghiệm đơn giản của mình và nhận thấy khi đặt dây thắt vào vị trí, thì không thể nào đẩy được máu vượt qua các van đó được. Fabrici tin rằng những cấu trúc nhỏ nằm trong tĩnh mạch hoạt động như các cửa cống của hồ chứa nước nhà máy xay, chỉ nhằm điều tiết lượng nước chảy, chứ không phải hướng chảy. Khác với Fabrici, Harvey cho rằng máu tĩnh mạch chảy về tim chứ không ra phía ngoại vi.