BỆNH GIANG MAI, TAI HỌA CỦA THỜI PHỤC HƯNG
Sự thay đổi dạng của các bệnh gây dịch hoặc phân loại chẩn đoán bệnh tiêu biểu cho thời Phục hưng cũng tạo ra ấn tượng như sự chuyển biến về nghệ thuật, khoa học và học thuật. Mặc dù bệnh phong chưa biến mất hoàn toàn, và các đợt dịch hạch vẫn còn tiếp tục giáng xuống châu Âu, những bệnh trước đây vốn hiếm, không hề có, hoặc chưa nhận ra - như giang mai, sốt chấy rận, đậu mùa và cúm - bây giờ trở thành những mối đe dọa chính về y tế công cộng. Nhiều bệnh cần phải có một bản lý lịch đầy đủ, nhưng không có bệnh nào đưa ra nhiều vấn đề lôi cuốn hơn là bệnh giang mai, “một tai họa của thời Phục hưng”. Do giang mai là một bệnh lây qua đường tình dục, cho nên đây là một công cụ truy tìm đặc biệt nhạy cảm những ngóc ngách tối tăm về các quan hệ của con người trên khắp thế giới, cũng như những móc nối mật thiết giữa các quan niệm về xã hội và y học.
Để chế giễu sự tôn kính đối với Venus, nữ thần tình yêu trong thần thoại La Mã, thuật ngữ venereal từ lâu được dùng như một uyển từ trong các vấn đề liên quan đến tình dục. Nhưng trong một thời đại tự hào là đưa ra cuộc cách mạng tình dục, thì thuật ngữ bệnh lây qua đường tình dục (STD) trần trụi hơn đã thay thế cho thuật ngữ bệnh hoa liễu (VD). Bất cứ bệnh nào có thể lây qua quan hệ tình dục đều có thể là bệnh hoa liễu. Một định nghĩa hạn hẹp hơn chỉ bao gồm những bệnh không bao giờ hoặc hầu như không bao giờ lây lan theo bất cứ cơ chế nào khác ngoài quan hệ tình dục. Cho đến nửa cuối thế kỷ 20, giang mai và lậu được coi như là hai bệnh hoa liễu chính tại các nước công nghiệp hóa giàu có, nhưng những bệnh tạm gọi là hoa liễu nhỏ - như hạ cam mềm (chancroid), hột xoài (lymphogranuloma venereum), và hạ cam (granuloma inguinale) cũng gây ra các biến chứng nghiêm trọng. Bệnh ghẻ và rận mu cũng có thể nằm trong nhóm bệnh này nếu định nghĩa bệnh STD nới lỏng hơn. Những bệnh STD mới là herpes sinh dục, nhiễm trichomonas, viêm niệu đạo không do lậu cầu và AIDS. Herpes sinh dục ngày nay là bệnh hoa liễu đáng sợ nhất tại Mỹ cho đến những năm 1980, nhưng sau đó AIDS đã trở thành một đại dịch lớn kiểu dịch hạch của thời hiện đại.
Mặc dù từ thời cổ đại đã có tài liệu nhắc đến bệnh hoa liễu, nhưng nhiều thầy thuốc thời Phục hưng bị thuyết phục là mãi đến cuối thế kỷ 15 châu Âu mới biết đến bệnh giang mai; những người khác lập luận rằng có một tai họa bệnh tình dục đã có từ xa xưa như quả đất và xuất hiện dưới nhiều hình thức như thể bệnh lậu và giang mai. Sự mù mờ này không có gì đáng ngạc nhiên như đã thấy trong một tổng quan ngắn về lịch sử tự nhiên của các bệnh hoa liễu. Một chẩn đoán phân biệt nhất định của bệnh giang mai hoặc bệnh lậu không thể chỉ dựa vào các triệu chứng đơn thuần. Trong một phòng thí nghiệm thế kỷ 20, ta có thể đưa ra một chẩn đoán giang mai dựa trên test Wassermann, nhưng đối với bệnh lậu, chẩn đoán xác định đòi hỏi phải tìm ra Neisseria gonorrhoea, vi khuẩn gram âm được Albert Neisser (1855-1916) phát hiện năm 1879.
Bệnh lậu thường được coi là bệnh hoa liễu lâu đời và có lẽ là thường gặp nhất. Galen có thể đã gọi chứng bệnh cổ xưa này bằng tên thông thường, bệnh lậu thực sự có nghĩa là “chảy tinh dịch”. Trong tiếng Anh, bệnh lậu được gọi bằng các tiếng lóng như “clap, dose, strain, drip, và hot piss”. Triệu chứng bệnh lậu thường xuất hiện khoảng từ 3 đến 5 ngày sau khi bị nhiễm, nhưng thời kỳ ủ có khi đến 10 ngày. Đái buốt, nóng, đái ra mủ thường là các triệu chứng được ghi nhận đầu tiên ở đàn ông. Dần dà, do niệu đạo bị viêm làm ngăn trở dòng nước tiểu và đưa tới biến chứng nguy hiểm hẹp niệu đạo. Thầy thuốc dùng ống thông bằng sắt để nong phần bị trít và để tháo nước tiểu bị nghẽn. Avicenna dùng một syringe bằng bạc để đưa thuốc vào bàng quang và nếu có thể được, nhét một con rận vào trong niệu đạo (nếu không có rận thì lấy một con bọ chét hoặc rệp cũng được). Những thứ thuốc an thần và thuốc phiện làm bớt đau và lo lắng, nhưng về tác dụng tâm lý, không có thứ gì qua mặt được những thứ thuốc của lang băm có nhiều chất màu khiến cho bệnh nhân tiểu ra nhiều thứ màu sặc sỡ. Với phụ nữ, bệnh lậu thường là một bệnh thầm lặng ngấm ngầm tấn công các nội tạng, gây ra viêm phúc mạc, viêm nội tâm mạc, viêm khớp, thai ngoài dạ con, sảy thai tự nhiên, thai chết lưu, viêm tiểu khung mạn tính và vô sinh. Trẻ sơ sinh có thể bị nhiễm lậu cầu vào mắt trong khi sinh. Để ngăn ngừa dạng mù mắt này, Karl Siegmund Credé, tại bệnh viện sản Leipzig, đưa ra phương pháp tra nitrate bạc vào mắt trẻ sơ sinh. Các biến chứng ít gặp hơn - viêm da và viêm khớp, viêm kết mạc, viêm nội tâm mạc, viêm cơ tim, viêm gan, viêm màng não - có thể xảy ra ở đàn ông và đàn bà nếu lậu cầu phát tán qua đường máu. Nhiều bệnh nhân được điều trị viêm khớp và gút có lẽ là do nhiễm lậu cầu.
Các nhà chức trách y tế công cộng trước kia cho rằng Penicillin có thể thanh toán được bệnh lậu, nhưng ngay đến cuối thế kỷ 20, bệnh lậu vẫn còn là bệnh hoa liễu phổ biến nhất và bệnh nhiễm trùng thường gặp nhất trên Trái đất. Các chủng kháng Penicillin trở nên phổ biến kể từ khi những chủng này được phát hiện trong thập niên 1970 đến nỗi kháng sinh này không còn dùng để điều trị bệnh lậu nữa. Không còn chút lạc quan nào vì càng ngày càng có nhiều chủng lậu cầu kháng kháng sinh. Khắp thế giới đều có những “siêu chủng” mới. Năm 2002, những chủng lậu cầu vừa kháng cả fluoroquinolone và đa kháng đã di cư từ châu Á sang Hawaii vào California. Trước đây, bệnh lậu có thể điều trị bằng một liều duy nhất fluoroquinolones hoặc cephalospo rins. Tại một số vùng, 60 đến 80% các ca lậu kháng với fluoroquinolones. Các liệu trình làm giảm nhẹ triệu chứng mà không trị hết nhiễm trùng chỉ đem lại phiền hà, bởi vì người bệnh cứ lầm tưởng rằng họ đã khỏi hẳn bệnh cho nên có thể gây lây bệnh dễ dàng cho người khác.
Bệnh giang mai do xoắn trùng Treponema pallidum gây ra, được gọi bệnh “đại bắt chước” bởi vì khi diễn biến, nó giả cách theo nhiều bệnh khác. Có thể bị nhầm các thương tổn giang mai với bệnh phong, lao, ghẻ, bệnh nấm và nhiều loại ung thư da khác. Trước khi có các test miễn dịch và vi khuẩn học chuyên biệt, thách thức chẩn đoán bệnh giang mai được phản ánh trong câu nói “Ai mà biết mọi thứ về giang mai thì cũng biết hết mọi thứ về y học”. Bệnh giang mai không được điều trị sẽ biến chuyển qua ba giai đoạn ngày càng nặng. Dấu hiệu đầu tiên là một thương tổn nhỏ gọi là săng. Săng này sẽ chuyển thành loét hoặc biến mất. Giai đoạn thứ hai có thể là sốt, nhức đầu, đau họng, nổi ban khu trú, có thương tổn ngoài da, có những vệt rụng lông, hạch sưng đau, họng đau và mắt sưng. Các triệu chứng có thể xuất hiện nhiều tuần hoặc tháng sau và sau đó không cần điều trị cũng biến mất. Trong giai đoạn 3, các tổn thương như tắc nghẽn mạn tính các mạch máu nhỏ, áp-xe, và viêm nhiễm sẽ dẫn đến những hư hoại vĩnh viễn hệ thống tim mạch và các tạng khác. Giang mai thần kinh có thể làm giảm thị lực, làm mất sự điều hợp các cơ, liệt và điên loạn. Một người phụ nữ bị bệnh giang mai có thể sẩy thai hoặc thai chết lưu, hoặc sinh ra đứa con có thị lực kém, điếc, thiểu năng tâm thần và bệnh tim mạch.
Nếu phân loại bệnh tật chỉ dựa vào tác nhân gây bệnh thay vì theo cách lây truyền, thì bệnh giang mai nằm trong nhóm bệnh nhiễm treponema. Bệnh nhiễm treponema là những bệnh có tác nhân gây bệnh là xoắn khuẩn Treponema. Mặc dù các vi khuẩn này mọc chậm, sau khi định khu được trên một ký chủ thích hợp, chúng sẽ tăng sinh một cách kiên trì và lặng lẽ. Giang mai là một trong 4 bệnh nhiễm treponema ở người với những đặc trưng lâm sàng khác hẳn nhau; ba bệnh còn lại là: pinta, ghẻ cóc và bejel. Về mặt vi khuẩn học và miễn dịch học, các tác nhân gây bệnh của 4 bệnh này hầu như tương tự, nhưng về mặt lâm sàng thì hoàn toàn khác nhau.
Một số nhà vi khuẩn học tin rằng pinta, ghẻ cóc, bejel, và giang mai là các biến thể của một loại xoắn khuẩn tổ tiên đã thích ứng với các hình thái khác nhau về khí hậu và tập tính của con người. Căn cứ theo cái thường được gọi là thuyết nhất thể, thì những bệnh nhiễm treponema không phải hoa liễu là những bệnh cổ xưa lây lan giữa trẻ em với nhau. Khi con người di chuyển sang các khu vực ôn đới và phủ lên mình quần áo thì sự lây lan không mang tính hoa liễu bị ngăn lại. Với những điều kiện này, khi trở thành người lớn nhiều người không có được các miễn nhiễm vào các thời kỳ còn sơ khai. Pinta, một bệnh lưu hành tại Mexico và Trung Mỹ với đặc điểm là nổi ban ngoài da có nhiều màu sắc và mức độ trầm trọng khác nhau. Cho tới khi Treponema carateum được phát hiện, pinta được xếp vào nhóm các bệnh nấm ngoài da. Bệnh ghẻ cóc (yaw) do Treponema pertenue gây ra, phát triển mạnh tại những vùng có khí hậu nóng, ẩm. Giống như giang mai, bệnh ghẻ cóc làm tiêu các mô, xương và khớp. Bejel, còn gọi là bệnh giang mai không do hoa liễu, thường xảy ra trên trẻ con vùng thôn quê tại những vùng có khí hậu khô, ấm. Giống như giang mai, bejel có một giai đoạn tiềm phục, và người nhiễm bệnh có thể lây bệnh trong nhiều năm trời.
Mặc dù có những bước tiến bộ trong việc tìm hiểu những bệnh do nhiễm treponema, các sử gia y học cũng không đi xa trong việc tìm ra nguồn gốc bệnh giang mai hơn là các giới thẩm quyền y khoa trong việc thanh toán bệnh lây qua đường tình dục (STD). Các tài liệu đáng tin cậy về bệnh giang mai xuất hiện đầu tiên vào thế kỷ thứ 16, khi tai họa làm nổi trên da nạn nhân những tổn thương ghê tởm được gọi dưới nhiều tên. Người Pháp gọi đó là bệnh của người xứ Naples, người Ý gọi đó là bệnh của người Pháp, và người Bồ Đào Nha gọi là bệnh của xứ Castile. Tại Ấn Độ và Nhật Bản, đó là bệnh của người Bồ Đào Nha và những tên gọi khác như bệnh Quảng Đông, bệnh đậu mùa lớn, và bệnh dịch hoa liễu (lues venereum) cũng được sử dụng. Tên gọi giang mai (syphilis) hiện nay là do Girolamo Fracastoro (tiếng Latin là Fracastorius; 1478-1553) đặt ra. Ông này là một thầy thuốc người Ý, vừa là nhà khoa học, toán học, chiêm tinh gia, địa chất học và nhà thơ nữa. Trong truyện “Syphilis hoặc bệnh của người Pháp (1530)”, Fracastoro đưa ra câu chuyện chàng chăn cừu Syphilis, là người gây ra tai họa đầu tiên này khi nguyền rủa Mặt trời. Để trừng trị con người tội phỉ báng này, Mặt trời chiếu những tia sáng mang bệnh chết người xuống mặt đất. Syphilis là nạn nhân đầu tiên của bệnh dịch mới này, nhưng tai ách chẳng bao lâu lại lan rộng ra đến từng làng, từng thành phố và thậm chí đến cả nhà vua nữa.
Việc rà soát bằng chứng lịch sử liên quan đến nguồn gốc của bệnh giang mai cũng giống như đi vào một mê cung. Nếu chúng ta gộp luôn những suy đoán của Fracastoro và những người cùng thời, và sau đó là các tác gia y học, chúng ta nắm được nhiều lý thuyết nhưng không có một câu trả lời xác định cho câu hỏi được nêu ra ở thế kỷ thứ 16: Những nguyên nhân chính gây ra bệnh giang mai là gì? Các nhà chiêm tinh y học thế kỷ 16 gán nguồn gốc của một tai họa bệnh tình dục mới cho sự hội giao tai ác của ba hành tinh là sao Mộc, sao Thổ và sao Hỏa vào năm 1485, sự hội giao này tạo ra một thứ độc chất khó thấy đã lan truyền ra khắp vũ trụ, và tuôn ra một trận dịch kinh khiếp trên khắp châu Âu. Các đồ đệ của khoa chiêm tinh ngày nay vẫn còn cho rằng thuyết này chưa bao giờ bị gạt bỏ, nhưng có những thuyết hợp lý hơn về mặt khoa học vẫn còn được tranh luận sôi nổi.
Cái tạm gọi là thuyết Columbus về nguồn gốc bệnh giang mai dựa trên thực tế là Tân Thế Giới nơi sản sinh ra những thứ cây cỏ và động vật vốn xa lạ với người châu Âu. Vì thế, nhiều thầy thuốc thời Phục hưng cho rằng bệnh giang mai là một trong nhiều thứ mới được Columbus và tùy tùng đem từ Tân Thế Giới về cho Cựu Thế Giới. Thế kỷ thứ 15 là thời kỳ của những chuyến du hành lớn, khuếch trương thương mại và chiến tranh, trong thời kỳ này các nhóm dân trước đây còn cô lập thì đột nhiên bị nhấn chìm trong một bể chứa vi trùng bao phủ toàn cầu. Nhiều bệnh gây dịch phát triển mạnh nhờ những điều kiện đó, nhưng chính bệnh giang mai mới nổi danh là “tấm danh thiếp của con người lịch lãm”.
Có nhiều bằng chứng ngẫu nhiên ủng hộ thuyết Columbus: thời điểm của các cuộc du hành, thủy thủ đoàn có nhiều xuất xứ, từ thủy thủ họ được chuyển thành chiến binh, sự có mặt của họ tại những vùng nơi bệnh được báo cáo đầu tiên, lời chứng thực của các thầy thuốc, sự lan truyền sau đó của bệnh giang mai, và hình thái lâm sàng luôn thay đổi của bệnh này. Thật vậy, một số sử gia quy tội cho tình trạng suy giảm sức khỏe và tâm thần của Columbus là do bệnh giang mai, mặc dù những lời giải thích khác cũng không kém phần hợp lý. Nếu những bằng chứng ủng hộ cho thuyết Columbus gộp lại thì cũng có cơ sở để tin, nhưng điều quan trọng cần phải nhớ là không nên nhầm lẫn sự trùng hợp với nguyên nhân. Hơn thế nữa, cũng phải nghi ngờ phần nào giá trị chẩn đoán của những tài liệu được đưa ra để gán gép “chứng bệnh đậu độc địa” với tính vô đạo đức, những tai họa của con người, và thông điệp của Chúa Trời.
Xoắn khuẩn giang mai theo mô tả của F. R. Schaudinn và P. E. Hoffmann năm 1905.
Rodrigo Ruiz Diaz de Isla (1462-1542), một thầy thuốc người Tây Ban Nha, có lẽ là người đầu tiên cho rằng thủy thủ đoàn của Columbus đã mang bệnh giang mai từ vùng West Indies về châu Âu. Trong một quyển sách mãi đến năm 1539 mới được xuất bản, de Isla cho rằng vào năm 1493, ông ta đã điều trị cho nhiều thủy thủ mắc chứng bệnh lạ lùng có đặc điểm là nổi trên da những mảng ban kinh tởm. Ý kiến bổ sung ủng hộ thuyết Columbus có thể tìm thấy trong các báo cáo do Gonzalo Hernandez de Oviedo y Valdez, Thủ hiến vùng West Indies viết năm 1525. Theo Ovideo, các thủy thủ bị nhiễm bệnh tại Tân Thế Giới đã gia nhập vào đội quân của vua Charles VII khi bao vây thành Naples (1494). Khi quân đội Pháp tháo chạy khỏi nước Ý năm 1495, đội quân bị nhiễm và lực lượng phục vụ doanh trại đã tung vãi bệnh dịch ra khắp châu Âu.
Thuyết Columbus cũng đòi hỏi ít nhất cũng phải có bằng chứng thuyết phục về sự hiện diện của bệnh giang mai tại Tân Thế Giới trước năm 1492. Thuyết này không đứng vững trước bằng chứng dứt khoát rằng bệnh giang mai đã có mặt tại châu Âu trước các chuyến hải hành của Columbus. Tuy nhiên, do những khó khăn vốn có của môn bệnh học cổ sinh, bằng chứng chẩn đoán sự hiện diện của bệnh giang mai tại châu Mỹ thời tiền - Columbus và châu Âu vẫn còn là vấn đề đang tranh cãi và các sử gia vẫn còn tiếp tục tranh luận. Vấn đề càng trở nên rắc rối do gần đây có khuynh hướng không phân biệt giữa bệnh giang mai với các nhiễm trùng treponema không lây qua tình dục.
Thuyết tạm gọi là Thuyết bệnh phong dựa trên khả năng là bệnh giang mai, một bệnh giả cách rất giỏi có thể đã tìm chỗ ẩn nấp trong đám bệnh nhân phong lúc nhúc thời Trung cổ. Các nguồn tài liệu đề cập tới “bệnh phong do tình dục” và “bệnh phong bẩm sinh” tại châu Âu trước năm 1492 lại phù hợp với thuyết này, nhưng tất cả các lời nói bóng gió thời Trung cổ về mối liên kết giữa bệnh phong và tình dục phải được cân nhắc. Theo một ý kiến có liên quan từ thế kỷ thứ 16, thì tai họa mới là một dạng lai tạo hình thành khi một người đàn ông bị bệnh phong quan hệ tình dục với một con điếm bị bệnh lậu. Để xác định liệu trong những người mắc bệnh phong có thực sự bị giang mai, các nhà khoa học đã tìm kiếm các thương tổn giang mai ở xương tại các nghĩa địa dành cho người phong. Bằng chứng vẫn còn chưa rõ.
Một giả thuyết khác gọi là thuyết bệnh ghẻ cóc hay thuyết châu Phi về cơ bản lật ngược thuyết Columbus. Theo thuyết này, giang mai là một trong nhiều tai họa mà người châu Âu đã mang đến Tân Thế Giới qua cách hợp nhất tại châu Mỹ ổ vi khuẩn của châu Phi và châu Âu. Khi thổ dân châu Mỹ đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt vì bệnh đậu mùa và những thứ bệnh lạ khác, người Âu đã mang các nô lệ châu Phi sang Tân Thế Giới trong 20 năm đầu của những lần tiếp xúc đầu tiên. Nếu người Phi được mang sang châu Âu và châu Mỹ bị nhiễm bệnh ghẻ cóc, thì những thay đổi về khí hậu và cách ăn mặc sẽ làm ngăn trở sự lây lan của các xoắn khuẩn không gây bệnh hoa liễu. Trong các điều kiện như thế, bệnh ghẻ cóc chỉ còn có cách biến thành một bệnh hoa liễu.
Nếu đúng, thuyết châu Phi sẽ giải thích được mối liên hệ hiển nhiên giữa sự xuất hiện bệnh giang mai và những cuộc phiêu lưu của Columbus và thủy thủ đoàn. Thuyết này cũng đưa ra một hình thức trừng phạt về mặt vi trùng học liên lục địa dưới dạng một bài học thích đáng cho những cái xấu của chế độ nô lệ. Tuy nhiên, thuyết này chỉ có những bằng chứng tình huống khá yếu và gây lắm tranh luận. Căn cứ trên những sự giao thương đã có từ xa xưa giữa châu Âu và châu Phi, bệnh ghẻ cóc có thể đã được đưa từ châu Phi vào Ai Cập, Ả Rập, Hy Lạp và Rome từ nhiều thế kỷ trước khi có những chuyến du hành của Columbus. Vì thế, cần có thêm một mồi lửa khác để dấy lên đám cháy lớn vào thế kỷ thứ 15. Mỗi thuyết đều có người đưa ra nhiều lập luận độc đáo, nhưng bằng chứng lại không đủ thuyết phục. Câu hỏi về nguồn gốc bệnh giang mai lại càng rối rắm hơn khi có sự nhầm lẫn giữa bệnh lậu và giang mai trong các nguồn tài liệu xa xưa.
Dù bệnh giang mai có nguồn gốc nào đi nữa, thì Fracastoro tin rằng ở giai đoạn đầu, bệnh này có thể chữa được bằng một chế độ điều trị được kiểm soát cẩn thận, trong đó có các bài thể dục để gây đổ nhiều mồ hôi. Khi bệnh đã nhập vào nội tạng, thì việc điều trị cần đến những thứ thuốc hầu như cũng độc địa như chứng bệnh. Trong một mạch tưởng tượng khác, Fracastoro kể lại câu chuyện một người làm vườn nhu mì tên là Ilceus bị mắc một chứng bệnh khủng khiếp do tội giết một con hươu thiêng đối với thần Apollo và em gái của thần là Diana. Các vị thần đã thề là dưới quyền của các ngài sẽ không có thứ thuốc nào chữa được, nhưng Ilceus tìm đến một hang sâu trong lòng đất. Tại đây, anh ta được chữa khỏi khi các nữ thần ở đây nhúng anh ta vào một con sông chứa đầy thủy ngân tinh khiết.
Khác với các nữ thần, các bác sĩ thích kết hợp thủy ngân với những thứ khác, chẳng hạn như mỡ lợn, nhựa thông, trầm, chì và lưu huỳnh. Có lẽ đơn thuốc kỳ dị nhất là đơn của Giovanni de Vigo (1450-1525) trong đó có thêm ếch còn sống và thuốc mỡ có chứa thủy ngân. Fracastoro ưa một toa thuốc có chứa nhiều thủy ngân, cây lê lư đen và lưu huỳnh. Phủ khắp người bằng hỗn hợp này, người bệnh được bó lại bằng len rồi cho nằm lên giường cho tới khi nào bệnh được tống xuất ra khỏi cơ thể ồ ạt theo mồ hôi và nước bọt. Một phương pháp chữa trị khác là làm cho bệnh nhân ốm đi qua cách điều trị bằng những chế độ ăn cực kỳ khắc khổ, xổ ruột, cho đổ mồ hôi và cho chảy nhiều nước bọt bằng thủy ngân. Nếu chế độ trị liệu 30 ngày này không chữa hết giang mai, thì chắc chắn sẽ làm giảm thần kỳ bệnh béo phì.
Thủy ngân trở thành một chất gắn kết chặt chẽ với tai họa bệnh tình dục đến nỗi các thầy lang băm lấy thủy ngân làm thước đánh giá bệnh giang mai; nếu thủy ngân chữa lành, tức là người bệnh bị giang mai. Mối liên quan giữa bệnh giang mai và thủy ngân có lẽ đi từ niềm tin rằng chất này chữa lành các bệnh ngoài da. Lập luận dựa trên sự tương đồng khi thấy các loại thuốc mỡ có tác dụng trên bệnh ghẻ và những bệnh ngoài da khác, các bác sĩ cho rằng thủy ngân sẽ chiến thắng được các vết loét do giang mai. Kết quả là, bệnh giang mai tạo điều kiện cho bọn lang băm kiếm được nhiều bệnh nhân đến mức họ thực hiện được giấc mơ của các nhà giả kim thuật - biến thủy ngân thành vàng. Người bệnh được điều trị bằng cách ngồi vào một cái chậu tắm đặt trong một phòng đóng kín, oi bức, thoa thủy ngân lên khắp người nhiều lần trong ngày. Những ai chỉ thích đọc Shakespeare hơn là các tài liệu y học cổ xưa có thể tìm gặp nhiều chỗ nhắc đến các nỗi thống khổ do giang mai gây ra và “cái bồn tắm ô nhục”. Những chỗ khác nhắc tới việc “ngồi trong bồn tắm và chà xát” cho thấy rằng hình thức điều trị này rất phổ biến. Nếu sự kết hợp giữa bệnh giang mai và chất thủy ngân không bị quên lãng hoàn toàn vào cuối thế kỷ 20, thì nhóm cực đoan tôn giáo Moral Majority chắc chắn sẽ đòi kiểm duyệt vần này của bài hát ru Mother Goose Rub-a-dub-dub, three men in a tub...”.
Cho đến mãi gần đây mới có được bằng chứng rõ ràng về độc tính của thủy ngân, nhưng từ thời Phục hưng các thầy thuốc đã nghi ngờ về những nguy hại của chất này rồi. Bernardino Ramazzini (1633-1714) đã dành cả một chương trong bộ sách đồ sộ “Bàn về các chứng bệnh của công nhân” để nói tới “bệnh của những người chà xát thủy ngân trên cơ thể bệnh nhân để trị bệnh”. Như Ramazzini đã đề cập một cách ý nhị, các thầy thuốc ngoại khoa hạng bét mới thực hiện việc tắm thủy ngân này bởi vì các bác sĩ hạng cao hơn không thèm “mó tới cái công việc khó chịu và đầy hiểm nguy này”. Thấy rằng tiền công không xứng với sự hao tổn sức khỏe, một số lang băm cho các bệnh nhân tự xoa thuốc mỡ thủy ngân cho nhau. Vào đầu thế kỷ 19, một số người phê phán cách điều trị bằng thủy ngân nhận thấy rằng sự tăng tiết nước bọt quá mức và các vết loét trong miệng là dấu hiệu của “sự kích thích độc hại do thủy ngân” hơn là một dấu hiệu cho biết bệnh giang mai được chữa lành.
Ngay cả các thầy thuốc xem thủy ngân là một phương thuốc thần kỳ cũng không chịu để bệnh nhân chạy thoát khỏi danh mục điều trị dày đặc của họ. Người bệnh giang mai được cho nào thuốc xổ nhanh, xổ chậm, thuốc làm toát mồ hôi, thuốc bổ, và phải kiêng theo các chế độ ăn uống kỳ dị. Nhiều chế độ điều trị, kể cả của Fracastoro đều nhấn mạnh đến sức nóng, vận động, và làm toát mồ hôi. Thật vậy, “liệu pháp gây sốt”, còn gọi là gây sốt trị liệu, được sử dụng để điều trị giang mai và bệnh lậu mãi đến tận thế kỷ 20. Các thí nghiệm về liệu pháp gây sốt sử dụng chất tuberculin, các vaccine vi khuẩn, thùng tạo nhiệt (fever cabinet) và ký sinh trùng sốt rét. Trong đầu thế kỷ 20, liệu pháp gây sốt bằng sốt rét được đưa ra để điều trị những bệnh nhân bị giang mai thần kinh nặng. Người ta tiêm vào tĩnh mạch người bị liệt vì giang mai một lượng máu có chứa ký sinh trùng sốt rét Plasmodium vivax hoặc P. malariae (là những ký sinh trùng gây sốt rét nhẹ) để tạo những cơn sốt khoảng 410C. Sau khoảng 12 đợt sốt cao như thế, người ta rút ra một số lượng máu để dùng cho lần sau, và người bệnh lại được cho thuốc quinine để điều trị sốt rét. Các thầy thuốc duy trì những chủng sốt rét ưa chuộng bằng cách cho truyền bệnh này từ người này sang người khác. Các lý thuyết đã trải qua nhiều thay đổi kể từ thời cổ đại, nhưng ý nghĩa của sốt đối với bệnh tật vẫn còn là một điều bí hiểm. Cơ sở lý luận cho liệu pháp gây sốt này là thân nhiệt cao sẽ là một cơ chế phòng vệ giết hoặc làm ức chế các vi khuẩn gây bệnh trước khi có thể làm hại cho người bệnh. Tuy nhiên, thân nhiệt tăng không có nghĩa là không có nguy cơ. Không có gì ngạc nhiên là sau khi trải qua liệu pháp gây sốt, nhiều bệnh nhân bị chứng mất định hướng và các tác dụng phụ không mong muốn. Trong giai đoạn đầu của dịch giang mai, thách thức nghiêm trọng nhất đối với điều trị bằng thủy ngân là nhựa guaiac, một thứ thuốc điều trị mới. Guaiac được trích từ một loại cây lưu niên mọc tại Nam Mỹ và vùng West Indies. Để giải thích sự phát hiện thứ thuốc này, Fracastoro người khuyến cáo cách điều trị như vận động tích cực, làm cho toát mồ hôi, và thủy ngân, đưa ra một câu chuyện mang tính huyền thoại về một nhóm thủy thủ người Tây Ban Nha thấy đám thổ dân tại Tân Thế Giới chữa bệnh giang mai bằng dầu gỗ guaiac. Căn cứ theo lý thuyết tín hiệu (Doctrine of Signatures), nếu bệnh giang mai có nguồn gốc từ Tân Thế Giới, thì thuốc chữa cũng phải tìm ở xứ này. Loại gỗ guaiac trở thành thuốc chữa bệnh ưa chuộng của các thầy thuốc dành cho các bệnh nhân giàu có, còn thủy ngân vẫn là thứ thuốc dành cho người nghèo. Khi công kích những người kê đơn dầu guaiac, Paracelsus than phiền rằng chính các nhà buôn giàu có và thầy thuốc đã lừa dối người bệnh khi cổ súy những cách điều trị đắt tiền nhưng vô bổ đã cấm cản công trình của ông về các tác dụng điều trị của thủy ngân. Một trong những người đầu tiên có ảnh hưởng và cuồng nhiệt chống lại cách điều trị bằng thủy ngân là Ulrich Ritter von Hutten (1488-1523), chính ông này vừa là nạn nhân của bệnh hoa liễu và những cách điều trị có hại do các thầy thuốc riêng kê đơn. Năm 1519, von Hutten công bố một tài liệu của chính bản thân mình về chất dầu guaiac và giang mai. Vốn đã trải qua 11 đợt điều trị bằng thủy ngân trong 9 năm, von Hutten cho rằng dầu guaiac đã giúp ông lành bệnh hoàn toàn và không đau đớn. Ông này khuyến khích những ai đang bị đau khổ vì giang mai nên theo gương mình. Tuy nhiên ông ta chết chỉ mấy năm sau khi khỏi bệnh, có lẽ do các biến chứng của giang mai giai đoạn 3.
Dĩ nhiên còn có nhiều thử thách nhỏ dành cho thủy ngân và dầu guaiac, chẳng hạn như phải bào chế thuốc có vàng, bạc, arsenic, chì và cả tá các thứ cây cỏ khác. Dầu guaiac được sử dụng phổ biến trên một thế kỷ, tuy thủy ngân vẫn còn được sử dụng để điều trị mãi cho đến 1940. Do bệnh học dựa trên thể dịch dần dần phải nhường chỗ cho môn bệnh học dựa trên sự tìm kiếm các thương tổn nội tạng, thì sự tiết nhiều nước bọt không còn được giải thích như là dấu hiệu đã điều trị có kết quả, và các thứ thuốc có chứa thủy ngân nhẹ bắt đầu được chú ý trở lại. Vì tính chất giang mai là khó dự đoán cho nên cần phải tìm hiểu từng ca bệnh để chứng minh tính hiệu quả của từng cách trị liệu.
Có lẽ câu chuyện dài dòng của việc sử dụng thủy ngân trong y học chỉ nhằm để chứng minh mối liên kết chặt chẽ giữa những ảo tưởng trong điều trị và sự thôi thúc không cưỡng lại được là phải làm một việc gì đó. Sử dụng thủy ngân để điều trị bệnh giang mai được đánh giá có lẽ là một trong những chuyện lừa bịp lớn nhất trong lịch sử y học. Khi mà cộng đồng y tế và công chúng tin rằng thủy ngân chữa được bệnh giang mai, hầu như không thể nào thực hiện được các thử nghiệm lâm sàng trong đó thủy ngân không được đem ra sử dụng cho bệnh nhân. Tuy nhiên, Tổng giám đốc các bệnh viện của quân đội Bồ Đào Nha ghi nhận có một “thí nghiệm lâm sàng” khá thú vị tuy không nằm trong kế hoạch trong các chiến dịch của quân đội Anh tại Bồ Đào Nha vào năm 1812. Lính Bồ bị giang mai nói chung không được điều trị gì cả, còn lính Anh thì được điều trị tích cực bằng thủy ngân. Ngược lại sự mong đợi của thầy thuốc, lính Bồ dường như hồi phục nhanh chóng và hoàn toàn hơn là các đồng nghiệp Anh. Khoảng 100 năm sau, các nhà nghiên cứu người Na Uy đưa ra chứng cứ không sử dụng thủy ngân trong một nghiên cứu khoảng 2.000 ca giang mai không được điều trị. Năm 1929, các nghiên cứu theo dõi các bệnh nhân trong nghiên cứu Oslo năm 1891-1910 cho thấy ít nhất 60% các trường hợp giang mai không được điều trị có ít vấn đề khi theo dõi hơn là các bệnh nhân nằm trong nhóm được điều trị bằng thủy ngân. Việc đánh giá các thứ thuốc điều trị bệnh hoa liễu cũng còn bị rối rắm vì có sự lẫn lộn phổ biến giữa bệnh lậu và giang mai. Nhiều thầy thuốc cho rằng lậu về cơ bản là một trong những triệu chứng của bệnh giang mai, do đó, thủy ngân là thứ thích hợp để điều trị cho mọi bệnh nhân hoa liễu. Vào thế kỷ 18, John Hunter (1728-1793), một nhà phẫu thuật và giải phẫu học ưu tú người Anh đã thử làm rõ sự lẫn lộn về chẩn đoán giữa lậu và giang mai bằng cách tự chích vào người chất mủ lấy ở một bệnh nhân hoa liễu (hoặc vào đứa cháu trai theo một nguồn tài liệu ít cường điệu hơn). Rủi thay, kết quả đạt được lại càng thêm mù mờ, bởi vì Hunter kết luận rằng lậu là một triệu chứng của giang mai. Khi hồi cứu, có thể giải thích các kết quả của Hunter có thể là do bệnh nhân của ông ta mắc vừa lậu lẫn giang mai.
Philippe Ricord (1799-1889), tác giả quyển “Một chuyên luận thực tiễn về các bệnh hoa liễu hoặc các nghiên cứu thực nghiệm và mang tính phê phán việc tiêm nguồn bệnh được áp dụng vào việc nghiên cứu những bệnh này”, nhìn chung được coi là người đầu tiên tách rời giang mai và lậu. Công trình của ông cho phép thuật ngữ “giang mai” được sử dụng rộng rãi hơn và thay thế cho từ bệnh hoa liễu lues venerea không chuyên biệt. Theo Ricord, triệu chứng đầu tiên của giang mai là một loét hạ cam (chancre) và chỉ loét hạ cam đầu tiên mới chứa “tác nhân lây bệnh” giang mai. Do không tìm ra được một mô hình động vật cho bệnh giang mai, và tin rằng không phù hợp với y đức khi tiến hành thực nghiệm trên người, cho nên Ricord cho kiểm chứng lý thuyết của mình trên các bệnh nhân đang mắc bệnh hoa liễu. Sử dụng một kỹ thuật mà ông ta gọi là “tự gây bệnh cho chính mình”, Ricord lấy mủ từ một thương tổn hoa liễu và sau đó đem tiêm vào một chỗ khác trên cùng người bệnh để xem liệu có thể tạo ra một thương tổn hay không. Mặc dù Ricord lập luận rằng các thí nghiệm của mình chứng minh rằng chỉ có mủ từ vết loét giang mai đầu tiên mới tạo ra được một vết loét ở nơi được tiêm vào, nhưng nhiều thầy thuốc khác báo cáo rằng giang mai giai đoạn hai cũng có tính lây nhiễm.
Tất cả những ngờ vực còn vương vấn về sự phân biệt giữa giang mai và những bệnh hoa liễu khác đều được giải quyết vào đầu thế kỷ 20 khi người ta phát hiện được “vi trùng gây bệnh giang mai” và sự ra đời của test chẩn đoán dựa trên phản ứng Wassermann. Vào năm 1905, Fritz Richard Schaudinn (1871-1906) và Paul Erich Hoffmann (1868-1959) xác định được tác nhân gây bệnh giang mai, Spirochaeta pallida, sau này được gọi là Treponema pallidum. Chẳng bao lâu sau, Hideyo Noguchi (1876-1928) thừa nhận sự phát hiện này. Việc sàng lọc chẩn đoán ra đời năm 1906 khi August von Wassermann (1866-1925) phát minh ra test chẩn đoán giang mai. Phản ứng Wassermann xác định lại lịch sử tự nhiên của bệnh giang mai, nhất là các thời kỳ 2 và 3, và giang mai tiềm ẩn và giang mai bẩm sinh. Wassermann và cộng sự, những người khi bắt đầu công việc nghiên cứu dựa trên các giả định mà sau này được chứng minh là sai, được ví như Columbus, bởi vì cái mà họ bất ngờ tìm thấy không phải là cái mà họ có ý định đi tìm. Vào đầu thế kỷ 20 test Wassermann được cổ súy rộng rãi như một điều kiện phải có để xin phép kết hôn vì đây là một cách để ngăn ngừa sự lây truyền bệnh giang mai sang trẻ con.
Những người ủng hộ thuyết ưu sinh (eugenics) cho rằng những test này là một phần trong chiến dịch ngăn ngừa sự ra đời của những trẻ khuyết tật. Khi Noguchi chứng minh sự hiện diện của T.pallidum trong não những người bệnh giang mai bị liệt, thì lịch sử tự nhiên của bệnh giang mai được nắm trọn vẹn, từ loét hạ cam đầu tiên cho đến dạng giang mai thần kinh và cuối cùng là chết. Vào thời điểm Noguchi chứng minh được sự liên quan giữa T.pallidum và bệnh liệt, những bệnh nhân của dạng mất trí này chiếm đến 20% các lượt nhập viện đầu tiên tại các bệnh viện công lập của tiểu bang New York vì bệnh tâm thần. Những bệnh nhân này thường chết trong vòng 5 năm.
Chẳng bao lâu sau khi tìm ra được Treponema pallidum và tìm ra một test chẩn đoán nhạy, các thuốc mới đã cho phép nhà chức trách y tế công cộng tung ra các chiến dịch nhằm thanh toán các bệnh hoa liễu. Dĩ nhiên việc dự phòng bằng cách tiết dục hoặc sống trinh bạch bao giờ cũng là một khả năng, nhưng cái cách “chỉ cần nói không” không bao giờ có tác dụng đối với các bệnh lây qua đường tình dục. Bao cao su đã được cổ súy là phương tiện an toàn kể từ thế kỷ thứ 17, nhưng các nhà quan sát khó tính đã chế nhạo các phương tiện này “là quá mong manh để phòng chống bệnh” và “làm mất cảm giác tình yêu”. Năm 1910, khi Paul Ehrlich (1854-1915) đưa ra Salvarsan, một thứ thuốc chữa bệnh có chứa thạch tín, thì lúc này bệnh giang mai mới được coi là một mối đe dọa do vi khuẩn gây bệnh chứ không phải là sự trừng phạt của thần thánh vì tội tình dục bất chính. Khi Sakahiro Hata (1873-1938) phát triển được một hệ thống để thử hoạt tính của thuốc trên thỏ được gây nhiễm với xoắn trùng đã tạo điều kiện tìm kiếm thành công một thứ thuốc riêng cho bệnh giang mai. Paul Ehrlich đem thí nghiệm một phức hợp arsenic tổng hợp gọi là atoxyl để điều trị bệnh ngủ do trypanosoma gây ra ở người. Atoxyl tiêu diệt trypanoma trong ống nghiệm nhưng lại làm cho người mù mắt. Bằng cách tổng hợp các phức hợp có chứa arsenic, Ehrlich hy vọng tìm được một thứ có thể diệt được trypanosoma nhưng an toàn cho người. Chất dẫn xuất mang số 606, được tổng hợp năm 1907, được chứng minh là “một viên đạn được phù phép” - có tác dụng diệt xoắn khuẩn gây giang mai, nhưng tương đối an toàn cho người.
Thuốc Salvarsan giúp cho thầy thuốc và bệnh nhân nghĩ đến giang mai chỉ là một bệnh thay vì là một vấn đề đạo đức, nhưng sự chuyển tiếp không xảy ra dễ dàng và nhanh chóng được. Mặc dù có những tiến bộ trong điều trị, thái độ đối với bệnh hoa liễu hầu như không thay đổi mấy kể từ năm 1872, khi BS Emil Noeggerath làm cho các đồng nghiệp ngỡ ngàng tại một phiên họp của Hội Phụ khoa Mỹ. Bác sĩ Noeggerath đã công khai cho biết 90% các phụ nữ hiếm muộn là do lấy phải ông chồng bị bệnh lậu. Chắc hẳn là các bác sĩ giỏi bị choáng vì những thảo luận trực tiếp của bác sĩ Noeggerath về bệnh hoa liễu, chứ không phải do con số thống kê mà ông này đưa ra. Khi Salvarsan và những thứ thuốc khác chứng tỏ có tác dụng trong việc chữa lành các bệnh hoa liễu chính, thì những bậc đạo đức lại lo ngại rằng Thượng đế sẽ tìm một hình phạt nào đó để răn đe thói vô đạo đức. Đối với những ai nhất mực coi bệnh tật là một hình thức trừng phạt cho những tội lỗi cá nhân và tập thể, thì bệnh herpes sinh dục và AIDS, những bệnh do virus mà kháng sinh không có tác dụng, là những thứ được sinh ra để phục vụ mục đích này.
Giang mai bẩm sinh - một bé trai với cục gồ xương sọ (cranial gummata), 1886.
Tên thương mại Salvarsan phản ánh niềm hy vọng lớn mà kỹ nghệ dược và cộng đồng y học đặt vào thứ thuốc mới này. Các nhà đạo đức, lang băm và những ai làm giàu nhờ lừa bịp bệnh nhân bị bệnh hoa liễu đã công kích thứ “thuốc độc biến thể này” của Ehrlich. Tuy nhiên, đa số các thầy thuốc đều hoan nghênh Salvarsan cùng với thủy ngân là những thuốc “tiêu diệt spirochete”. Mặc dù một số thầy thuốc lạc quan cho rằng Salvarsan sẽ thanh toán được bệnh giang mai, nhưng nhiều nhà quan sát thận trọng và tỉnh táo hơn cảnh báo rằng bệnh giang mai có khả năng làm sụp đổ ảo tưởng điều trị này.
Sau một giai đoạn giảm mạnh số ca mới mắc trong những năm 1950, tỷ suất nhiễm bắt đầu tăng trở lại trong thập niên 1960. Trong khi AIDS làm lu mờ các vấn đề y tế công cộng trong thập niên 1980, trung tâm kiểm soát bệnh vẫn tiếp tục báo cáo sự gia tăng các trường hợp giang mai giai đoạn một và giai đoạn hai. Chắc chắn rằng sự dai dẳng của bệnh lậu và giang mai - dù với Salvarsan, penicillin, các chương trình phòng chống bệnh hoa liễu, tìm ca bệnh và truy tìm các người có tiếp xúc tình dục, làm xét nghiệm tiền hôn nhân, giáo dục đạo đức và thuyết giáo không ngừng nghỉ, và các chiến dịch giáo dục - cũng không làm tăng thêm sự lạc quan về khả năng kiểm soát AIDS, một “tai họa hoa liễu mới”. Cả AIDS lẫn giang mai cho ta thấy những bài toán khó về mặt sinh học đầy hấp dẫn, đòi hỏi phải hiểu rõ những yếu tố xã hội và môi trường, cũng như về vi khuẩn học và miễn dịch học. Thật vậy, không thể cưỡng lại được liên tưởng có sự giống nhau giữa bệnh giang mai, với lịch sử 500 năm và AIDS, một chẩn đoán chỉ mới được biết từ thập niên 1980. Những nỗi sợ hãi, thành kiến và thiếu các đáp ứng hiệu quả hoặc sáng tỏ về mặt y học hoặc từ phía công chúng là những phản ứng điển hình đối với hai chứng bệnh này. Cụ thể, lịch sử về cuộc nghiên cứu Tuskegee đáng hổ thẹn chỉ là sự biểu lộ cho cái cách mà các bệnh căn sâu xa về xã hội và văn hóa được phát hiện thông qua các dấu hiệu của những chứng bệnh nhất định nào đó.