← Quay lại trang sách

THAY TIM MỚI KHI TIM CŨ BỊ BỆNH

Bệnh tim mạch trở thành một nguyên nhân tử vong chính tại các nước công nghiệp hóa là một hiện tượng mới đây, nhưng tử vong do cơn đau tim và đột quỵ đã được các thầy thuốc và các nhà khoa học quan tâm từ lâu. Tiếc thay, những cách tiếp cận trong điều trị bệnh tim được các phương tiện truyền thông chú ý nhiều - phẫu thuật thay tim và tim nhân tạo - là những phương pháp không hề tạo ra được hiệu quả tương xứng với số người mắc bệnh và số người chết vì bệnh. Phẫu thuật ghép tim ở người đầu tiên là do một nhà phẫu thuật người Nam Phi tên Christiaan Barnard thực hiện vào tháng 12 năm 1967. Theo sau sự thành công nổi tiếng đình đám trên thế giới, chẳng bao lâu các nhà phẫu thuật mổ tim khác cũng tiến hành những phẫu thuật xuất sắc không kém.

Một số các nỗ lực táo bạo nhất và không thành công trong những năm 1960 và 1970 có liên quan đến việc ghép tim ở tinh tinh, khỉ baboon, cừu, và tim nhân tạo cho người hấp hối. 10 năm sau khi Barnard khai mở một thời đại đầy phấn kích và cạnh tranh khốc liệt giữa các trung tâm phẫu thuật, ngành ghép tim đã trải qua một giai đoạn đầy thất vọng và mất phương hướng. Khi thuốc Cyclosporin ra đời vào năm 1980 có tác dụng chế ngự phản ứng thải ghép sau khi ghép tim, sự thành công của thuốc đã thúc đẩy việc phát triển những chương trình thay tim mới. Vào những năm giữa thập kỷ 1980, có ít nhất hai ngàn phẫu thuật ghép tim được thực hiện trên 100 trung tâm ghép tạng của Mỹ hàng năm.

Ghép tạng được gọi là sự tiến bộ lớn nhất về trị liệu của nửa sau thế kỷ 20 và cũng là đề tài được thổi phồng nhiều nhất. Nhưng những vấn đề sau khi ghép tạng, chẳng hạn như các biến chứng do thuốc ức chế miễn dịch gây ra và sự tái phát của chứng bệnh ban đầu, cũng như các vấn đề đạo đức, trong đó có vấn đề sử dụng các nguồn tạng hiếm hoi, vẫn còn tồn tại. Càng ngày càng có nhiều người có nhu cầu cần ghép tạng, chẳng hạn như viêm gan C. Mặc dù số lượng người hiến tạng, sống hoặc chết, đã tăng lên hàng năm, nhưng số người chờ nhận tạng lại tăng lên gấp 4. Tức là hàng năm có hàng ngàn người chết trong khi chờ nhận tạng. Nhìn lại, rõ ràng những kỳ vọng lớn nảy sinh với những ca ghép tim đầu tiên hoàn toàn dựa trên sự liều lĩnh của nghệ thuật phẫu thuật thay vì những hy vọng tỉnh táo về khả năng thành công lâu dài. Cũng vẫn là vấn đề đã từng đánh gục Denis ba thế kỷ trước - cơ thể không chấp nhận những vật lạ - nay chắc chắn cũng làm cho việc ghép tạng thất bại. Tuy nhiên khác với Denis, các bác sĩ trong thập niên 1960 đã biết khá rõ về những rào cản miễn dịch học của cơ thể. Ngay cả khi có những thứ thuốc ức chế được hệ thống miễn dịch của người bệnh, thì những cố gắng nhằm làm cho mô phù hợp một phần, nguy cơ thải ghép và nhiễm trùng hậu phẫu đều là những trở ngại dường như không thể nào vượt qua nổi.

Các phẫu thuật viên lạc quan chỉ ra rằng truyền máu đã từng đối phó với những trở ngại hầu như không vượt qua nổi, và họ dự đoán rằng sự ghép tạng một ngày nào đó sẽ trở nên thông thường như truyền máu. Những người ủng hộ ghép tạng thậm chí còn bỏ qua lý do chống đối rành rành là máu là một thứ mô được tái sinh, còn tim thì không phải như thế. Tuy nhiên, khi các nhà phẫu thuật tuyên cáo một thời đại mới trong đó sự ghép tạng sẽ trở nên thường xuyên chứ không còn là thực nghiệm, thì các nhà tiên tri về y tế cảnh báo rằng trong một tương lai không xa, thiếu nguồn tiền chứ không phải thiếu tim mới là yếu tố làm hạn chế tốc độ phát triển. Căn cứ vào con số quá nhiều người chết vì bệnh tim mạch, một số nhà phân tích lập luận rằng chính dự phòng mới là nhu cầu cấp thiết nhất của chúng ta chứ không phải là điều trị. Các liệu pháp liều lĩnh và đắt tiền được ví như điều trị bệnh liệt mềm ở trẻ con bằng cách chế những máy thở nhân tạo tinh vi hơn thay vì phát triển các vaccine dự phòng. Rủi thay, dự phòng thiếu cái vẻ hào nhoáng và nhộn nhịp của can thiệp bằng phẫu thuật.

SANTOR IO SANTORIO VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH LƯỢNG

Sự thành công của Harvey nhiều lúc được coi chỉ là do ông ta khéo léo sử dụng các phương pháp định lượng trong khuôn khổ phương pháp thiên về cơ học. Nhưng như nghề nghiệp của Santorio Santorio (Sanctorius, 1561-1636) cho thấy, sự trung thành với nền triết học cơ học và khả năng thực hiện những thí nghiệm tốn nhiều công sức và tiến hành những đo đạc chính xác chưa chắc đưa ra được những câu trả lời có ý nghĩa cho nhiều loại câu hỏi khác nhau. Nhiều nhà khoa học của thế kỷ 17 tiếp nhận ý tưởng mở rộng kiến thức y khoa bằng phương pháp định lượng, nhưng không ai chuyển được mục tiêu này thành hiện thực một cách tận tình như Santorio, là thầy thuốc và triết gia. Tại Ý, ông ta được vinh danh là người lập ra môn sinh lý học định lượng thực nghiệm. Santorio đã xây dựng một cơ sở hành nghề tư nhân thành công sau khi tốt nghiệp đại học Padua năm 1582. Năm 1611, ông được bổ nhiệm làm giáo sư chủ nhiệm môn Y học lý thuyết tại trường đại học, nhưng đến năm 1624, học trò tố là ông xao nhãng việc dạy dỗ khi thấy rằng ông chú tâm nhiều đến phòng mạch tư hơn là trách nhiệm dạy học. Mặc dù được chứng minh vô tội, Santorio tự xin nghỉ việc ở đại học vào năm 1629 để quay về Venice.

Ngoài việc hành nghề y, Santorio dồn nhiều sức lực để nghiên cứu một hiện tượng gọi là sự đổ mồ hôi không thấy được. Theo lý thuyết cổ điển, thì một hình thức hô hấp xảy ra xuyên qua da tạo nên sự bốc hơi rất tinh tế gọi là sự đổ mồ hôi không thấy được. Santorio tin rằng ông có thể chuyển vấn đề đổ mồ hôi không thấy được thành những tiến trình hoàn toàn cơ học mà ta có thể nghiên cứu được qua sự đo lường chính xác. Để làm được như thế, ông ta sáng chế ra một cái cân đặc biệt, là một cái ghế treo treo trên đòn cái cân dọc, qua đó ông đo lường trọng lượng cơ thể của chính mình sau khi ăn, uống, ngủ, nghỉ ngơi, và vận động, lúc khỏe cũng như lúc đau, trên 30 năm như thế.

Santorio công bố các kết quả của mình dưới dạng những cách ngôn trong một quyền sách nhỏ tên là Ars de statica medicina (Số liệu y học, 1614). Quyển sách này được xuất bản ít nhất 30 lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng, bản dịch tiếng Anh đầu tiên xuất hiện năm 1676. Mặc dù mỗi câu cách ngôn được trình bày những nhận xét được diễn dịch từ sự đo đạc, Santorio không nói rõ lắm về các phương pháp thí nghiệm của mình. Tuy thế, ông ta khoe là mình đã đạt được một cái gì đó mới và chưa hề có trong y học - việc đo lường chính xác sự đổ mồ hôi không nhận thấy được qua các suy luận và thực nghiệm. Nghĩ rằng những người khác có thể chia sẻ sự dâng hiến của ông dành cho một phong cách sống định lượng, Santorio đề nghị người đọc có thể học lấy gương của mình và sống một cuộc đời “tuân theo luật lệ”. Lấy ví dụ, khi ăn cơm, họ có thể ngồi trên một cái cân đặc biệt, cái cân này có thể đưa ra lời cảnh báo khi đã tiêu thụ đúng số lượng thực phẩm cần thiết.

Tin rằng việc cân sự đổ mồ hôi không thấy được là cần thiết đối với tiến bộ y học, Santorio lập luận rằng thầy thuốc nào không hiểu được các khía cạnh định lượng của hiện tượng này thì không thể chữa bệnh nhân khỏi bệnh. Để trả lời luận điểm của Santorio rằng ông ta có thể đo được số lượng sự đổ mồ hôi không nhận biết được, những người công kích cho rằng ngay cả khi đo được lượng hơi nước, thì chính chất lượng mới là phần có ý nghĩa đối với các hiện tượng bệnh lý.

Trong những bài viết khác, Santorio phát hiện rằng mặc dù theo đuổi các mục đích sáng tạo, nhưng ông ta vẫn làm việc và suy nghĩ trên cái di sản của Galen của nền y học thế kỷ 17. Nhìn chung, cả cuộc đời và sự nghiệp của ông đều dành hết cho lý luận, kinh nghiệm và sự nghiên cứu về Hippocrates, Galen và Avicenna. Trong khi chấp nhận thực tế là các nhà giải phẫu học thời Phục hưng đối nghịch với Galen về một số điểm đặc biệt, Santorio không cho đây là một vấn đề lớn đối với lý thuyết và thực hành y học. Những nghiên cứu định lượng về chuyển hóa, không phải là không giống với những nghiên cứu của Santorio, vẫn còn được thực hiện trong thế kỷ 19 khi nhà sinh lý học lớn người Pháp, Claude Bernard (1813-1878), lớn tiếng công kích những thử nghiệm trên giống như việc cố gắng muốn biết điều gì đã xảy ra trong một ngôi nhà bằng cách đo đạc những người đi vào bằng cửa lớn và đi ra bằng ống khói.

Santorio trong chiếc ghế cân trọng lượng của mình.

Tuân theo những mục đích đã trình bày trong quyển Số liệu y học, Santorio sáng chế và cải tiến nhiều dụng cụ giúp cho sự đo lường trở thành hữu ích trong thực hành y khoa và nghiên cứu khoa học, trong số đó có một nhiệt kế sử dụng trong lâm sàng, một dụng cụ đo độ ẩm, một dụng cụ đo mạch, một giường có đệm nước, những loại bàn chuyên dụng, giường, phòng tắm, ghế, đồ thụt tháo và nhiều dụng cụ phẫu thuật khác. Santorio không gạt bỏ di sản của Hippocrates và Galen, nhưng ông ta là người ủng hộ ngành y học khoa học và chống lại những điều mê tín, những ảnh hưởng thần bí và dựa vào chiêm tinh vốn phổ biến trong thời đại của ông.

Tinh thần sáng tạo đã phát triển một cách diệu kỳ ở người thầy thuốc này, ngay cả khi những kết quả đạt được chưa xứng với những công sức mà ông bỏ ra khi nghiên cứu. Ông cũng không nghĩ rằng các dụng cụ đo lường và các thí nghiệm định lượng sẽ làm ông cắt đứt với quá khứ, nhưng chỉ là đem lại một số phương tiện để hỗ trợ việc thực hành y học Galen. Nói cho cùng, chính Galen cũng đưa ra một tấm gương suốt đời chú tâm vào việc quan sát và thí nghiệm.