7- Những nền văn hóa và văn minh của thổ dân châu Mỹ
Các báo cáo ban đầu về Tân Thế Giới, đã nói đến nơi này như một vườn Địa đàng thứ thiệt, nơi sinh sống của những người khỏe mạnh, sống lâu có thể chữa được các bệnh tật với nhiều thứ cây cỏ làm thuốc xa lạ và không biết đến những thứ bệnh thường gặp tại các nơi khác trên Trái đất. Columbus nói rằng mình đã tìm được “Chốn Thiên đàng trên mặt đất” tại các đảo châu Mỹ mới tìm thấy. Những báo cáo đầy lạc quan về các khung cảnh thơ mộng và sự giàu có tìm được tại Tân Thế Giới có thể là do sự dốt nát, hoặc chỉ là những lời cường điệu trong một chiến dịch quảng cáo nhằm mục đích lôi kéo các nhà đầu tư và dân lập nghiệp châu Âu. Dù vậy, trong nhiều thập niên, sự phát hiện và chinh phục châu Mỹ đã đưa tới một sự trao đổi chưa hề có giữa các dân tộc, cây cỏ, động vật và các tác nhân gây bệnh ở quy mô toàn cầu. Cùng với tai họa về nhân khẩu học xảy ra đối với thổ dân châu Mỹ và nhu cầu đòi hỏi thêm lao động của thực dân Tây Ban Nha, sự buôn bán nô lệ đã mang một sốt lượng lớn người châu Phi đến Tân Thế Giới. Tức là, chỉ trong vài chục năm, châu Mỹ đã trở thành một nơi pha trộn các dân tộc và nguồn bệnh của các lục địa vốn trước đây hoàn toàn cách biệt.
Vào cuối thế kỷ 20, các sử gia nói chung đều nhất trí là cần phải có một bộ lịch sử mới mang tính so sánh và chung cho châu Mỹ. Cũng cần phải thừa nhận thực tế là cái gọi là Tân Thế Giới chỉ có mới đối với người châu Âu; còn châu Mỹ thực ra đã được phát hiện và định cư bởi tổ tiên những người mà ta gọi hiện nay là thổ dân. Vì lẽ lịch sử của các thổ dân châu Mỹ được biết chủ yếu qua các tài liệu cung cấp bởi những nhà thám hiểm, chinh phục, truyền đạo châu Âu, cho nên sự thiên vị nghiêng về châu Âu là điều không thể tránh khỏi. Hơn thế nữa, ngoại trừ các tài liệu đầu tiên về các nhà chinh phục Tây Ban Nha, các báo cáo của người Âu đều được hình thành sau sự sụt giảm dân số đầy tai họa đã phá hủy hầu như toàn bộ các nền tảng văn minh và văn hóa của thổ dân châu Mỹ. Các học giả giờ đây đang cố vượt qua những giả định ngầm chứa trong các từ như Sự Phát hiện, Thế giới Mới, và Sự Bành trướng châu Âu để hiểu được lịch sử của châu Mỹ trước năm 1492, nhưng do các chứng cứ manh mún, cho nên để có được một cái nhìn tổng thể như mong muốn về lịch sử châu Mỹ vẫn còn là một công việc khổng lồ và không biết bao giờ kết thúc.
Các sử gia và các nhà khoa học còn tiếp tục bàn cãi về bản chất và thời điểm xảy ra cuộc di cư sớm nhất của con người đến châu Mỹ. Một số học giả tin rằng con người đầu tiên băng qua eo đất nối Siberia với Tân Thế Giới vào cuối kỷ Băng hà cuối cùng, tức là khoảng 10.000 năm trước đây. Những di dân này có thể là các thợ săn du mục tài năng, những người đã góp phần làm tuyệt chủng các loài voi răng mấu (mastodon), voi ma-mút, ngựa, lạc đà và những loài thú có vú lớn khác. Bằng chứng khác cho thấy rằng con người có lẽ đã đến Tân Thế Giới khoảng 20.000 năm trước, và sinh nhai bằng cách hái lượm và săn bắt. Cứ liệu về đồ tạo tác của con người tại những địa điểm ở Bắc và Nam Mỹ có tuổi từ 15.000 đến 20.000 năm, nhưng phần lớn các địa điểm cổ xưa nhất đều được bảo tồn rất kém. Do bằng chứng đều rất manh mún và không rõ ràng đến mức khi có một phát hiện mới về công cụ và đồ tạo tác thời tiền sử thì lại nổi lên những tranh luận về hình thức di cư, lý lịch của những người đầu tiên đến châu Mỹ và mối liên hệ của họ đối với thổ dân châu Mỹ ngày nay. Một số nhà khoa học tin rằng các bộ xương và test DNA kỷ Băng hà có thể giải quyết xong sự bàn cãi về lý lịch của những người đầu tiên đi đến châu Mỹ. Vào cuối thế kỷ 20, các nhà khoa học đã tìm thấy bằng chứng di truyền cho biết có những đợt di dân độc lập từ châu Á, Đa đảo, và thậm chí Tây Âu. Tuy nhiên, bằng chứng đi từ đồ tạo tác, hài cốt của người và thậm chí DNA của người cũng vẫn còn mơ hồ. Không rõ con người đi đến châu Mỹ lần đầu tiên vào lúc nào, nhưng những đợt di dân đáng kể từ lục địa Á-Âu có lẽ đã dừng lại khi eo đất nối giữa Alaska và Siberia biến mất, khiến cho nhiều nhóm dân châu Mỹ bị tách biệt ra khỏi phần còn lại của thế giới. Tính đồng nhất tương đối về di truyền của thổ dân châu Mỹ có lẽ đã ảnh hưởng đến đáp ứng của họ khi gặp các tác nhân gây nhiễm trùng của Cựu Thế Giới. Lấy ví dụ, sự phân bố các nhóm máu ở châu Mỹ không biến thiên nhiều như tại lục địa Á-Âu.
Do không biết rõ về kiểu thức những đợt di cư đầu tiên cho nên kết quả là cũng không biết rõ về dạng bệnh tật nào đã thịnh hành tại Tân Thế Giới thời tiền sử. Các học giả cho biết là cuộc di cư qua eo biển Bering vào châu Mỹ đã đóng vai trò như một “bộ lọc lạnh” sàng lọc đi nhiều tác nhân gây bệnh và côn trùng, nhưng điều này không có nghĩa là châu Mỹ trước thời Columbus là một vườn Địa đàng không hề có bệnh tật. Tuy nhiên, khắp phần lớn châu Mỹ, do mật độ dân số được coi là quá thấp đến mức không thể nào duy trì vô tận chu kỳ các bệnh gây dịch và bệnh ở trẻ em vốn thường gặp tại các vùng đô thị của Cựu Thế Giới. Dĩ nhiên, có những cây cỏ và loài bò sát có nọc độc, cũng như các côn trùng và tiết túc có thể đóng vai trò vectơ truyền bệnh. Những bệnh hầu như chắc chắn đã hiện diện tại châu Mỹ trước năm 1492 bao gồm viêm khớp, ung thư, bệnh nội tiết, bệnh thiếu chất dinh dưỡng, loãng xương, ký sinh trùng đường ruột, lỵ, viêm phế quản, viêm phổi, lao, những bệnh gây sốt do virus và rickettsia, ghẻ cóc, bệnh Carrion (do nhiễm Bartonella bacilliformis), bệnh ruồi cát (leishmaniasis) châu Mỹ và bệnh Chagas. (Ký sinh trùng Trypanosoma cruzi gây bệnh Chagas ở người qua trung gian truyền bệnh là bọ xít hút máu Triatominae. Diễn biến lâm sàng của bệnh khó trị này rất biến thiên, nhưng có thể gây tổn thương cho gan, lách và tim. Tác nhân gây bệnh và cách lây truyền được nhà khoa học người Brazil là Carlos Chagas (1879-1934) phát hiện. Các nhà dịch tễ học ước tính có khoảng 18 triệu người tại châu Mỹ Latin bị nhiễm bệnh Chagas, mỗi năm có khoảng 50.000 người chết vì bệnh này). Không tính được tỷ lệ mắc lao tại châu Mỹ thời tiền Columbus, nhưng những nghiên cứu trên xác ướp ở Peru phát hiện bằng chứng lao phổi, cũng như sán dây, giun kim và giun đũa.
Các vi sinh vật gây nhiễm trùng vết thương, nhọt, viêm họng và ngộ độc thức ăn chắc chắn là khá phổ biến. “Sốt” chắc chắn là những bệnh lưu hành tại châu Mỹ, nhưng tình hình bệnh sốt rét và sốt vàng thời tiền Columbus còn chưa rõ. Nhiều bệnh gây sốt tại địa phương do các vi khuẩn và ký sinh trùng chắc chắn đã được lây truyền qua muỗi, con ve, ruồi, bọ chét và bọ xít. Lấy ví dụ, bệnh sốt đốm vùng núi Rocky Mountain, do một tác nhân gây bệnh đặc thù Rickettsia rickettsii chỉ thấy ở châu Mỹ. Những bệnh khác ở châu Mỹ có tỷ lệ tử vong cao - như sốt Colorado do con ve, viêm não St. Louis, viêm não ngựa miền Tây, và viêm não ngựa miền Đông - đều do Arbovirus (virus truyền bệnh qua trung gian của loài tiết túc như muỗi và con ve) đều có ổ chứa ở loài bò sát, chim và động vật có vú.
Bệnh tả, dịch hạch, đậu mùa, sởi, sốt tinh hồng nhiệt, sốt rét, sốt chấy rận, sốt thương hàn, cúm và có lẽ bệnh lậu và phong đều không có mặt trước khi thổ dân tiếp xúc với người Âu. Thậm chí ta cũng không biết rõ về những thứ ký sinh vật nào có nguồn gốc tại Tân Thế Giới. Trong nhiều bệnh gây dịch và lưu hành, thì các trung gian truyền bệnh chẳng hạn như côn trùng, loài tiết túc và loài gặm nhấm đều đóng vai trò quyết định trong việc phân bố và lan truyền bệnh. Con ve, kiến đốt, muỗi, ruồi, rận, ruồi nhuế (gnat), mò (chigger), bọ cạp, và rắn độc đều là những thứ bản địa của châu Mỹ, nhưng chắc chắn rằng người Âu đã mang đến những loài mới thuộc bọ chét, gián, chấy, rệp và chuột.
Bệnh sốt rét đã từng đóng một vai trò quyết định trong lịch sử thế giới, nhưng ta còn chưa rõ sự phân bố của bệnh này trên quy mô toàn cầu thời tiền Columbus. Thậm chí nếu sốt rét nguyên thủy đã có tại châu Mỹ, thì những chủng châu Phi có độc lực mạnh hơn cũng có thể đã du nhập vào châu Mỹ cùng lúc với việc buôn bán nô lệ. Dù bệnh sốt rét ở người có phải là một vấn đề quan trọng tại châu Mỹ thời tiền Columbus hay không, thì Tân Thế Giới cũng là nơi tìm thấy thuốc Quinine chữa bệnh sốt rét. Quinine, trích từ vỏ một thứ cây mọc tại Nam Mỹ, lúc đầu có tên là cinchona hoặc vỏ cây xứ Peru. Người ta nói rằng thổ dân châu Mỹ bị sốt vì một bệnh dịch đã phát hiện ra tác dụng điều trị của cinchona khi họ uống nước trong một cái ao chung quanh có cây cinchona mọc. Dần dà câu chuyện cinchona lại được gắn vào câu chuyện Nữ Bá tước Cinchón, phu nhân của Phó vương Peru. Đáng buồn là câu chuyện của bà bá tước bị ấm mình và món thuốc của thổ dân châu Mỹ dường như chỉ là một huyền thoại để giải thích cho việc mang vỏ cây xứ Peru về châu Âu trong những năm 1630. Quyển sách Điều trị đặc biệt (1712) của Francesco Torti (1658-1741) đóng vai trò quan trọng xác định giá trị trị liệu của vỏ cây cinchona.
Mặc dù nhiều thầy thuốc thế kỷ 16 cho rằng giang mai là một bệnh mới được mang về từ Tân Thế Giới, nhưng người ta vẫn còn tranh luận về sự phân bố của bệnh này trước thời Columbus. Tuy nhiên, có cơ sở cho thấy những bệnh khác có nguyên nhân do treponema được phân bố rộng rãi khắp thế giới; trong đó có thể pinta tại châu Mỹ. Những trận dịch quy mô toàn cầu bệnh giang mai xảy ra sau năm 1492 có thể là do sự trao đổi của những chủng treponema trước đây vốn chỉ khu trú. Những bệnh lây truyền qua đường tình dục khác có lẽ đã hiện diện tại châu Mỹ, nhưng có lẽ không có bệnh lậu.
Nguồn gốc bệnh sốt vàng hầu như cũng bí ẩn và gây nhiều tranh luận như nguồn gốc bệnh giang mai và cũng đặt ra vấn đề tương tự về sự phân bố của bệnh này tại Cựu Thế Giới hay Tân Thế Giới trong những giai đoạn trước thời Columbus. Vẫn còn nghi ngờ ý kiến cho rằng nền văn minh của người Maya đã bị bệnh sốt vàng phá hủy hoặc những trận dịch của bệnh này xảy ra tại Vera Cruz và San Domingo giữa 1493 và 1496. Một số nhà dịch tễ học lập luận rằng sốt vàng, một bệnh do virus ở người qua trung gian truyền bệnh là muỗi, đã từng gây ra các trận dịch tại châu Mỹ trước khi có người châu Âu tới đây, nhưng những người khác tin rằng bệnh này được đem qua từ châu Phi.
Khác với tranh luận xoay quanh giang mai và sốt vàng, dường như ý kiến chung là bệnh lao đã có tại châu Mỹ trước khi tiếp xúc với người châu Âu. Bệnh lao các dạng trong những cộng đồng có bệnh này lưu hành, thường là do trẻ con mắc phải theo đường hô hấp. Các thương tổn ban đầu thường nằm ở phổi và trong đó những con vi khuẩn vẫn còn sống bị bọc trong kén kín, khi gặp những điều kiện như stress hoặc bị kích thích thì chúng tái hoạt trở lại.
Vì vậy, những thương tổn ở xương đặc trưng cho bệnh lao chỉ xảy ra trên một số ít người bị lao. Các hài cốt và xác ướp của người cho ta bằng chứng về sự hiện diện một số bệnh tại châu Mỹ trước khi tiếp xúc với người châu Âu, nhưng còn có quá nhiều điều không rõ ràng và khó khăn khi giải thích những nguồn cứ liệu này. Nhờ những tiến bộ trong các kỷ thuật sinh học phân tử, các nhà nghiên cứu có thể thu được nhiều thông tin quan trọng qua nghiên cứu những mẫu DNA thu được trên những hài cốt con người. Một số học giả cho rằng chỉ là vô ích khi đem gắn các chẩn đoán hiện đại lên trên những hài cốt cổ xưa, mặc dù khó mà ngăn cản ý muốn này. Những người khác lại lập luận rằng, bất kể cấu trúc xã hội có thay đổi như thế nào đi nữa, thì bệnh tật vẫn được coi như là các thực thể sinh học thực sự cứ tồn tại qua thời gian.
Nói chung, có khoảng 15% các bộ xương tìm thấy trên các mẫu vật khảo cổ điển hình của Bắc Mỹ đều cho thấy bằng chứng nhận dạng được của các thương tổn như chấn thương, nhiễm trùng và viêm khớp. Dĩ nhiên, những vết tích nhận biết được trên bộ xương không nhất thiết phải là nguyên nhân tử vong tức thì, bởi vì ít có bệnh cấp tính nào để lại các dấu tích đặc thù trên xương. Ngoài ra, nhiều tình trạng khác nhau có thể cho các tổn thương tương tự. Những thương tổn của các bệnh cấp tính, do virus chắc hẳn đã gây tác động lớn nhất đến thổ dân châu Mỹ sau khi tiếp xúc với người châu Âu đều khó để lại dấu ấn trên bộ xương, nhưng bằng chứng thương tích và tử vong từ vũ khí châu Âu có thể tìm thấy tại các nghĩa trang của người da đỏ.
Những nơi nào có điều kiện thuận lợi, các nhà nhân chủng học sinh học lại phân tích hài cốt của dân chúng nơi đó vào các giai đoạn trước và sau khi bị châu Âu chinh phục và so sánh cứ liệu này với những quan sát của người châu Âu về những đợt gặp gỡ đầu tiên với thổ dân châu Mỹ. Cụ thể, các nghiên cứu trên hài cốt những người thổ dân sống tại vùng duyên hải bang Georgia cho thấy ngay cả trước khi tiếp xúc, chất lượng sống ở đây cũng đã tồi tệ rồi. Vào thế kỷ thứ 12, các cư dân duyên hải bắt đầu trồng bắp, cho nên chế độ ăn của họ nghèo dinh dưỡng và tần suất các viêm nhiễm không đặc hiệu ở xương và bệnh sâu răng tăng lên. Số lượng dân số tăng lên sinh sống bằng một nền kinh tế tự cung tự cấp chủ yếu là định cư thông qua việc canh tác, săn bắt, hái lượm và đánh cá.
Các nhà nghiên cứu sử dụng các phương pháp sinh học phân tử để nghiên cứu DNA lấy được trên hài cốt của người cổ đại. Lấy ví dụ, trên một số bộ xương tìm được một bãi than bùn tại Florida có những chiếc sọ còn nguyên vẹn bên trong còn giữ được mô não rất mỏng manh. Mặc dù đã nằm trong hố than bùn tại địa điểm Wind-over khoảng 7.000 năm, nhưng các nhà khoa học cũng có thể thực hiện một số nghiên cứu về DNA ti-lạp thể lấy từ các bộ xương này.
Vẫn còn nhiều tranh luận và còn lâu mới đạt được sự chính xác những con số ước tính về dân số của châu Mỹ cho năm 1492, cũng như mức độ và các nguyên nhân chuyên biệt về sự sụt giảm nhân khẩu sau khi xuất hiện người châu Âu. Các nhà dân số học đã thử so sánh các cứ liệu khảo cổ liên quan đến cách thức định cư, mai táng và tích lũy chất thải với những ước tính dân số do các nhà thám hiểm châu Âu đầu tiên ghi nhận. Mặc dù có các kỹ thuật phân tích càng ngày càng hiện đại, nhưng các ước tính dân số cho thời kỳ gặp gỡ đầu tiên được mô tả là dưới mức, quá mức hoặc thậm chí bị chế giễu là “con số không có cơ sở”.
Dù rằng có sự nhất trí chung là các bệnh của Cựu Thế Giới đã gây nên tai họa cho thổ dân châu Mỹ, nhưng việc đánh giá tác động của sự tiếp xúc người châu Âu không đơn giản chút nào. Sự thay đổi về dân số là kết quả của nhiều ảnh hưởng phức tạp và những ước tính về dân số trong quá khứ thiếu tính chính xác. Các nhà dân số học thường được xếp theo hai nhóm ý kiến. “Những người cho số đếm cao” lập luận rằng trước khi gặp người châu Âu, dân số thổ dân châu Mỹ vốn rất lớn và sau đó bị giảm mạnh vì các bệnh dịch, sự hỗn độn, và bị bóc lột sau khi bị người châu Âu chinh phục.
“Những người cho số đếm thấp” cho rằng người châu Âu đã thổi phồng con số người mà họ gặp để phóng đại chiến thắng của họ.
Một số học giả cho rằng dân số cho toàn bộ Tân Thế Giới trước khi gặp gỡ châu Âu có lẽ từ 8 đến 13 triệu người, nhưng các ước tính dân số Mexico năm 1492 lại xê dịch từ một triệu đến 30 triệu. Dù con số tuyệt đối như thế nào, nhưng sự tiếp xúc giữa Cựu Thế Giới và Tân Thế Giới rõ ràng đã dẫn đến một tai họa dân số học tồi tệ nhất trong lịch sử nhân loại. Khi các quan lại Tây Ban Nha thử tiến hành một điều tra dân số vào cuối thập niên 1540, các nhà quan sát đoán rằng số dân còn lại chỉ bằng một phần ba mức thời tiền-Columbus. Một cuộc điều tra thực hiện trong thập niên 1570 cho thấy số dân bản địa còn gỉảm nhiều hơn nữa do chiến tranh, bệnh tật và những nỗi nhọc nhằn khác.
Sau khi chiến thắng những kẻ sống sót mất hết tinh thần, những tay chinh phục và các tu sĩ đã đẩy bật các thầy shaman, tu sĩ và thủ lãnh bản địa và thay thế các hệ thống sản xuất địa phương bằng nền nông nghiệp và chăn nuôi châu Âu. Sự hủy hoại môi trường và tan rã xã hội lại càng trầm trọng thêm với sự du nhập các gia súc châu Âu.
Rủi thay, không còn mấy bằng chứng trực tiếp liên quan đến các tín niệm và thực hành y học thời tiền Columbus của các nhóm dân khác nhau tại châu Mỹ. Những thứ biết được thì thường bị che mờ bởi các khó khăn trong việc giải mã ý nghĩa của các ký hiệu cổ xưa, đồ tạo tác và đồ nghệ thuật. Các nhận xét của người Âu làm rối rắm thêm vấn đề bởi vì những sự hiểu lầm không thể tránh khỏi và những sự xuyên tạc cố ý. Khi thổ dân châu Mỹ bắt đầu sử dụng mẫu tự châu Âu để ghi lại lịch sử và các quan niệm của chính họ, thì con người, cây cỏ, động vật của Tân Thế Giới đã bị chuyển dịch quá nhiều.
Người Âu đã gặp tại châu Mỹ nhiều thứ cây con và con người mới. Đúng ra, thì những phát hiện như thế này phải làm cho họ choáng ngợp, nhưng đa phần các thông tin mới đều được gán ghép vào các hệ thống tư tưởng truyền thống cũng như hoang đường. Sách vở về thảo dược châu Âu chẳng bao lâu đầy ắp hình ảnh các thứ cây cỏ xa lạ của Tân Thế Giới, kèm theo là những câu chuyện khó tin về các đặc tính y học của chúng. Thật vậy, một số thầy thuốc tiên đoán rằng sự phong phú về y học của Tân Thế Giới còn có giá trị hơn là vàng bạc. Châu Mỹ đã đem lại những thực phẩm và các chất làm thuốc mới lạ, chẳng hạn như cocaine, curare, guaiac, thuốc xổ giun jalap, cây lobelia (có tác dụng kiêng thuốc lá), dầu xoa Peru, cây xá-xị hay thổ phục linh (sarsaparilla), thuốc lá và quinine. Ngày nay, có thể truy tìm nguồn gốc ở Tân Thế Giới cho khoảng một phần ba các thảo dược quan trọng nhất trên thế giới. Tuy nhiên, người Âu cũng mang theo nhiều thứ cây cỏ và động vật vào châu Mỹ như lúa mì, lúa mạch, gạo, rau cải, nhiều thứ quả, mía, lợn, ngựa, cừu, bò, lừa, la, gà và dê. Như thế, cuộc tiếp xúc giữa châu Âu và châu Mỹ đã đem lại nhiều thay đổi, vô tình hay cố ý, trong việc phân bố cây cỏ và động vật trên toàn thế giới.