← Quay lại trang sách

BỆNH ĐẬU MÙA: CẤY ĐẬU, CHỦNG ĐẬU BÒ VÀ THANH TOÁN

Đối với các bệnh thiếu vitamin, các biện pháp dự phòng được áp dụng khá lâu trước khi các phương tiện kiểm soát hữu hiệu được chấp thuận. Một ví dụ tương tự trong công tác dự phòng bệnh đậu mùa, một bệnh có tác nhân là virus. Về mặt lý thuyết, thì ít nhất bệnh đậu mùa cũng đã được thanh toán bằng các phương pháp áp dụng vào đầu thế kỷ 19. Nhưng mãi đến nửa cuối thế kỷ 20, bệnh đậu mùa mới được tấn công trên quy mô toàn cầu khi chi phí bảo vệ các nước giàu có khỏi chứng bệnh này vượt quá chi phí thanh toán bệnh tại các nước nghèo nhất trên hành tinh.

Virus gây bệnh đậu mùa nằm trong họ Orthopoxvirus bao gồm bệnh đậu bò, đậu trâu, đậu lạc đà, đậu lợn, đậu chuột nhảy (gerbil) và đậu khỉ. Chưa rõ nguồn gốc bệnh đậu mùa, nhưng các nhà dịch tễ học cho rằng có thể virus này tiến hóa từ một chủng poxvirus của các động vật hoang dã hoặc đã thuần hóa. Căn cứ trên các đặc trưng của poxvirus và trình tự giải gene, các nhà virus học cho rằng bệnh đậu mùa và các poxvirus khác có lẽ đã tiến hóa từ một virus tổ tiên chung có ký chủ tự nhiên là loài gặm nhấm. Người ta đã ghi nhận nhiều thể virus đậu mùa ở người (variola) khác nhau về độc lực. Toàn bộ bộ gene của virus đậu bò (vaccinia), virus được sử dụng làm vaccine bảo vệ chống lại bệnh đậu mùa, đã được giải mã từ năm 1990. 4 năm sau, các nhà khoa học xác định được toàn bộ bộ mã di truyền của một trong những chủng variola có độc lực cao hơn. Mặc dù có sự khác biệt lớn về độc lực của hai virus, vaccinia và variola khá giống nhau về mặt trình tự DNA.

Khác với phần lớn các virus, virus đậu mùa khá bền khi ở bên ngoài ký chủ và có thể giữ được hoạt tính gây nhiễm trong một thời gian khá dài. Điển hình thì bệnh có thể lây lan từ người này sang người khác, tuy nhiên virus có thể lây truyền qua quần áo, mền và khăn đắp bị vấy nhiễm mủ hoặc vẩy mủ. Khi một người bị phơi nhiễm, virus sẽ tăng sinh rất nhanh và lan ra toàn thân. Sau một thời gian ủ bệnh chừng 14 ngày, bệnh khởi phát đột ngột với các triệu chứng giống như cúm gồm có sốt, đau nhức, ho, hắt hơi, và mệt mỏi. Vào giai đoạn này hầu như không thể đưa ra chẩn đoán bởi vì nhiều bệnh khác cũng bắt đầu bằng sốt, đau nhức, hắt hơi, buồn nôn và mệt mỏi. Một vài ngày sau, các bóng nước phẳng xuất hiện, đầu tiên ở miệng và họng, sau đó ở mắt và cuối cùng ở tay, chân, lòng bàn tay, bàn chân. Các bóng nước sau đó chuyển thành các bọng nước có chứa mủ, dần dần sẽ khô đi thành vảy, nhưng trong một số trường hợp, toàn thân phủ đầy một dạng ban có lẫn máu. Các bệnh nhân khác, theo William Osler, trở thành một khối thịt rỉ mủ không còn hình dạng gì, lên cơn cuồng sản vì sốt cao và toàn thân bốc mùi thối ngạt thở. Tình trạng nhiễm độc, viêm phổi - cuống phổi, suy tim mạch, hóa sẹo, mù mắt, và điếc là các biến chứng không phải hiếm, nhưng dạng nặng nhất là đậu mùa đen hoặc xuất huyết, hầu như luôn gây tử vong.

Có thể đoán rằng, bệnh đầu mùa đã từng hoạt động âm ỉ trong hàng thế kỷ giữa vô số các bệnh gây sốt tại nhiều địa phương ở châu Á hoặc châu Phi cho tới khi bệnh được mang từ Ba Tư vào châu Âu, miền Trung Á và Trung Quốc qua các hình thức di trú của con người, chiến tranh và thương mại thay đổi không ngừng. Những vết sẹo điển hình trên xác ướp của vua Ramses V (chết năm 1157 trước CN) và sự hiện diện của các vị thần Ấn Độ và châu Phi xả thân cho bệnh đậu mùa, chứng tỏ bệnh này đã có từ thời xa xưa. Đến thế kỷ 17, châu Âu rất kinh khiếp đậu mùa, coi đó như là “tên trợ thủ giết người khủng khiếp nhất”. Trong bài Khảo luận về các bệnh sốt (1750), John Huxham (1692-1768) ghi nhận bệnh đậu mùa có hình thái và mức độ trầm trọng cực kỳ biến thiên, ngay cả cùng trong một làng, một gia đình, một hộ. Có khi chỉ là vài nốt đậu nhẹ và thưa thớt, có khi những nốt này khá ác tính và dồn lại thành từng đám. Ngoài ra, Huxham cũng nhận thấy một số người đi thăm người ốm để được lây bệnh vào thời điểm thích hợp, nhưng lại không bị bệnh; rồi sau đó sau khi mừng là mình thoát, họ lại mắc bệnh nhiều tháng hoặc năm sau đó từ một nguồn không xác định. Dù rằng bệnh đậu mùa được coi là lây nhiễm cao, người ta vẫn không thể nào đoán trước được có bao nhiêu người sau khi phơi nhiễm với người bị đậu mùa - trong phòng bệnh hoặc ở cuối hướng gió tại một nhà ga sân bay- lại thực sự bị nhiễm.

Trong khi tỷ lệ tử vong của bệnh đậu mùa thường là 15-25%, trong một số vụ dịch, con số này có thể lên đến 40%. Bệnh đậu mùa, cùng với tiêu chảy, bị giun sán, và sốt mọc răng, là một trong những chứng bệnh không thể nào tránh được của tuổi thiếu nhi; khoảng 30% trong toàn bộ trẻ em ở Anh chết vì bệnh đậu mùa trước khi qua sinh nhật lần thứ 3. Không có thứ thuốc nào chữa được bệnh đậu mùa một khi bệnh đã xảy ra, nhưng kể từ thế kỷ thứ 9, khi Rhazes tách rời bệnh đậu mùa và bệnh sởi ra khỏi những bệnh sốt phát ban khác, thì các thầy thuốc khác đã bổ sung nhiều thứ vào đơn thuốc tài tình của ông này. Một số thầy thuốc khuyên nên dùng kim vàng để mở miệng các bóng nước, người khác thì thì khuyên nên đắp phân bò hoặc phân ngựa cho bệnh đậu mùa và phân dê cho bệnh sởi. Một số người hoài nghi cảnh báo rằng cách xử trí của thầy thuốc còn gây nhiều nguy hiểm hơn là chính căn bệnh.

Không đủ tiền để trả công cho bác sĩ, nông dân tại nhiều vùng ở châu Âu tìm cách bảo vệ con cái của họ bằng cách chủ ý cho chúng tiếp xúc với một người bị bệnh đậu thể nhẹ nhằm “mua lấy bệnh đậu” khi có dịp thuận lợi. (Nhiều người thuộc thế hệ cổ lỗ đã lớn lên trước giai đoạn có tiêm chủng thường xuyên phòng bệnh sởi, quai bị và rubella có thể nhớ lại những phương cách tương tự nhằm giúp cho trẻ em mắc phải những bệnh không thể tránh khỏi của tuổi thiếu niên vào một thời điểm thích hợp). Tuy nhiên, dân gian lại đưa ra một số phương pháp còn mạo hiểm hơn là cách phơi nhiễm thụ động. Lấy ví dụ, người ta lấy một chút mủ tươi từ bọc mủ đậu mùa vào bôi vào một vết cắt hoặc rạch trên da người khỏe. Tại Trung Quốc, trẻ em được cho tiếp xúc với “bệnh rỗ hoa” bằng cách cho chúng hít bột lấy từ vảy của nốt đậu. Kinh nghiệm đã dạy cho các thầy thuốc dân gian tại châu Phi, châu Á, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ là nếu chủ ý cho bệnh nhân phơi nhiễm với người mắc bệnh vào một thời điểm thích hợp sẽ giúp bảo vệ cho họ không mắc bệnh trong một thời gian dài. Các thầy thuốc uyên bác, ngược lại, thường cho rằng những cách hành nghề này là man rợ và mê tín. Trong thế kỷ 18, càng ngày càng có nhiều người tò mò muốn tìm hiểu kỹ hơn về những cách hành nghề dân gian cổ xưa, trong đó có việc cấy đậu (variolation).

Phu nhân Mary Wortley Montagu (1689-1762) được coi là có công đưa phương pháp cấy đậu của người Thổ từ một “phong tục của bọn ngoại đạo” kỳ cục thành một phương pháp thời thượng trong tầng lớp ưu tú người Anh, nhưng một số sử gia cho rằng lòng tôn kính dành cho Phu nhân Mary chỉ có tính lãng mạn hơn là lịch sử. Quả đúng như vậy khi câu chuyện mở đầu bằng việc Mary Pierrepont và Edward Wortley Montagu cùng nhau trốn để đến được với nhau. Năm 1718, Phu nhân Mary theo chồng là Đại sứ đặc mệnh của Anh tại triều đình Thổ tại Constantinople. Trong số các phong tục kỳ cục mà Phu nhân Mary hiếu kỳ đã quan sát tại Thổ Nhĩ Kỳ có cách cấy đậu đặc biệt rất đáng chú ý. Trong các thư gởi về cho bạn bè tại Anh, Phu nhân Mary mô tả cách mà người dân muốn “mắc phải bệnh đậu” thu xếp để cùng ở chung một căn nhà trong những ngày mát mẻ vào mùa thu.

Một người thợ cấy đậu mang một bình nhỏ chứa đầy một chất lấy từ nốt đậu mùa tốt nhất và sau đó nhét vào những vết rạch trên da tại những vùng da thích hợp. Khoảng 8 ngày sau thủ thuật này, người bệnh bị sốt và nằm nghỉ vài ngày. Để chứng tỏ rằng mình tin tưởng thủ thuật này, Phu nhân Mary thu xếp để được thực hiện cho đứa con trai 6 tuổi của mình. Charles Maitland, thầy thuốc của đại sứ, và Emanuel Timoni (chết năm 1718), thầy thuốc của sứ quán có mặt khi cậu bé được một phụ nữ lớn tuổi dùng một mũi kim cùn và rỉ làm thủ thuật cấy đậu. Timoni đã công bố một tài liệu về phương pháp Thổ Nhĩ Kỳ để gây bệnh đậu mùa trong Văn kiện khoa học của Hội Hoàng gia (1714). Một báo cáo tương tự của Giacomo Pylarini (1659-1718) cũng xuất hiện trên cùng một tập của tạp chí này. Những bài viết của các thầy thuốc được công bố bằng tiếng Latin, còn Phu nhân Mary thì viết bằng tiếng Anh dành cho công chúng.

Trong vụ dịch đậu mùa năm 1721, Phu nhân Mary đã quay về London. Khi bà yêu cầu cấy đậu cho đứa con gái 4 tuổi của mình, Maitland đề nghị nhiều thầy thuốc tham gia chứng kiến. Theo Phu nhân Mary, các thầy thuốc quan sát thủ thuật cấy đậu tỏ ra rất chống đối đến nỗi bà ta không dám để đứa bé một mình cho họ. Tuy nhiên, sau khi đậu mọc, một trong những thầy thuốc bị ấn tượng mạnh đến mức nhờ Maitland cấy đậu cho đứa con duy nhất sống sót của mình (mấy đứa khác đều chết vì bệnh đậu mùa). Giới tu sĩ và các thầy thuốc ngay tức thì tung ra một loạt các tờ bướm và bài giảng tố cáo phương pháp Thổ Nhĩ Kỳ. Trong một đợt tấn công đầy ác ý, Đức cha Edmund Massey tố cáo cho rằng cấy đậu là nguy hiểm, vô thần, hiểm độc và đầy tội lỗi do Quỷ dữ phát minh. Theo Giám mục Massey, bệnh tật là một dạng “kiềm chế hạnh phúc” được Thượng đế gởi đến thế gian để thử thách lòng trung thành và trừng phạt các tội lỗi của con người. Có khi Thượng đế cho con người quyền lực chữa bệnh, nhưng quyền gây bệnh cho con người nằm trong tay Người. Đức cha Massey sợ rằng con chiên của mình sẽ trở nên bớt đạo đức hơn khi họ khỏe mạnh nhiều hơn và ít sợ bị bệnh đậu mùa hơn. Đáp trả những lời công kích về chủng đậu, Phu nhân Mary xuất bản tập “Bằng chứng dễ hiểu về việc cấy đậu mùa” để cho những thường dân, những người “bị sự bất lương và dốt nát của các thầy thuốc lạm dụng và lừa bịp” có thể học hỏi được những phương pháp thực hành tại Constantinople. Khi nêu ra việc các bác sĩ sẽ bị thiệt thòi vì mất đi khoản tiền công nếu bệnh đậu mùa bị thanh toán, Phu nhân Mary cho rằng các bác sĩ coi phương pháp Thổ Nhĩ Kỳ là một âm mưu khủng khiếp nhằm cắt giảm thu nhập của họ.

Một đài tưởng niệm Phu nhân Mary tại nhà thờ Lichfield, được dựng lên vào năm 1789 để ca ngợi công lao của bà đã giới thiệu cho nước Anh kỹ thuật cấy đậu.

Một người khác ủng hộ việc cấy đậu, đó là Đức cha Cotton Mather (1663-1728), cha xứ của nhà thờ Second Church tại Boston, cũng là người quan tâm đến cách chủng đậu khi học được kỹ thuật này từ những người “bán khai, ngoại đạo”. Vị tu sĩ không mệt mỏi vùng New England này là tác giả của khoảng 450 bài viết và sách, là hội viên thông tấn của Hội Hoàng gia London, là nạn nhân của một loạt các thảm kịch cá nhân, gồm cái chết của hai bà vợ, bà thứ ba phát điên và mất 13 trong số 15 người con. John Cotton và Richard Mather, ông nội của Cotton Mather và là cha của ông Increase Mather (1639-1723), đều là những nhà lãnh đạo tinh thần tiếng tăm. Increase Mather cũng là chủ tịch của trường Harvard, nơi mà Cotton lấy bằng tú tài khi mới 15 tuổi và bằng thạc sĩ ba năm sau đó. Với óc tò mò không mệt mỏi, cũng như nỗi ám ảnh “làm điều tốt” đã thúc đẩy Mather tìm hiểu về y học cũng như lời giải thích cho “các hoạt động của thế giới vô hình” từ những nguồn không chính thống, kể cả từ người châu Phi, người Thổ, các giấc mơ và ma quỷ. Trong tập Thiên thần tại Bethesda, một chuyên luận y học đến năm 1972 mới được công bố, Mather cho rằng “các hạt nhỏ chuyển động” được phát hiện qua kính hiển vi có thể là nguyên nhân gây đậu mùa. Để nói cho hết ý, ta cũng nên nhớ đến vai trò nhập nhằng của Mathew trong những vụ lùng sục phù thủy tại Salem, và sự quả quyết của ông khi cho rằng phân cừu là thuốc chữa bệnh, phân người là một món thuốc không có gì sánh kịp.

Vào thời điểm hạm đội 17 chiếc tàu của John Winthrop dong buồm đến New England năm 1630, bệnh đậu mùa đã tác động nặng nề đến các nhóm dân của Tân Thế Giới. Đám Tây Ban Nha đi chiếm đất đã phát hiện bệnh đậu mùa là một thứ vũ khí chống con người còn mạnh hơn thuốc súng. Các tay lập nghiệp tại Bắc Mỹ khám phá ra rằng ảnh hưởng của bệnh đậu mùa trên người châu Âu nhẹ hơn rất nhiều so với thổ dân. Dân định cư thế kỷ 17 coi tai họa khủng khiếp mà thổ dân gánh chịu từ bệnh đậu mùa như là một ví dụ khác của “những phù hộ làm nên phép lạ” mà Thượng đế dành chỗ cho con dân của Người tại Tân Thế Giới. Dĩ nhiên ngay cả dòng giống con dân Cựu Thế Giới cũng không tránh khỏi sự đe dọa của bệnh đậu mùa. Khi bệnh này tấn công Boston, vào năm 1721, lúc này thành phố chỉ có 12.000 dân, thì những lời cầu nguyện, ăn chay, kiểm dịch và cấm đi lại cũng không ngăn được trận dịch. Khoảng một nửa số dân Boston mắc bệnh đậu mùa; cứ 7 người mắc thì có 1 người chết. Trong vụ dịch này, Mather đề xuất làm test cấy đậu mà ông ta đã có kế hoạch kể từ khi học được cách thực hành. Đức cha Mather lần đầu tiên nghe đến cấy đậu là từ một người nô lệ da đen được giáo dân tặng cho ông; Mather đặt tên anh này là Onesimus. Khi Mather hỏi Onesimus đã mắc phải đậu mùa hay chưa, người thanh niên trình cho ông xem một vết sẹo trên cánh tay và giải thích rằng người châu Phi đã cố ý phơi nhiễm với một thể đậu mùa nhẹ để tránh không bị thể đậu mùa tự nhiên nguy hiểm hơn nhiều. Vì vậy, khi Mather đọc được báo cáo về việc cấy đậu đăng trên Các văn kiện Khoa học của Hội Hoàng gia (Philosophical Transactions of the Royal Society), ông ta thừa nhận ngay đây là sự khẳng định những gì ông ta đã biết trước đây từ Onesimus. Mather tin tưởng rằng ông có thể cứu được các thuộc địa của Tân Thế Giới khỏi bị đậu mùa nếu được bảo đảm có sự hợp tác của các bác sĩ. Khi bệnh đậu mùa xuất hiện năm 1721, Mather gởi thư cho các bác sĩ tại Boston mời họ tổ chức một buổi tư vấn liên quan vấn đề cấy đậu.

Thấm nhuần một ý thức vững chắc về đặc quyền, nghĩa vụ và thẩm quyền của cha xứ, Mather nhận thấy không có gì không phù hợp khi đưa ra lời khuyên cho thị dân và giới thầy thuốc, nhưng người dân vùng New England phản ứng sự can thiệp này. Bày tỏ sự bất bình ấn tượng nhất là một quả bom cháy được ném vào cửa sổ nhà mục sư. Nhờ ơn Chúa, quả bom bị tịt, cho phép Mather đọc được mấy dòng đính kèm: “COTTON MATHER, mày là con chó, đồ khốn kiếp, tao sẽ cấy thứ đậu đó cho mày”. Nhiều người Boston đứng đắn đồng ý với những ý kiến của tay đánh bom điên khùng và gạt bỏ đi những ý tưởng kỳ dị của Mather về bệnh đậu mùa dù cho những ý tưởng này phát xuất từ tên nô lệ da đen, bọn người Thổ khác đạo hoặc từ Hội Hoàng gia.

Trong số các bác sĩ mà Mather nhờ tới, chỉ có Zabdiel Boylston (16801766), một thầy thuốc chỉ mới qua mức tập sự, muốn thử hiệu quả của cách cấy đậu. Vào ngày 26 tháng 6 năm 1721, Boylston thực hiện thí nghiệm trên đứa con trai 6 tuổi của mình, một bé trai 2 tuổi và một nô lệ 36 tuổi. Thí nghiệm thành công. Sau khi thực hiện trên 200 lượt cấy, Boylston kết luận rằng sự cấy đậu là một cải tiến y học hữu hiệu và mang lại nhiều lợi ích nhất được phát hiện từ trước đến lúc đó. Tuy nhiên, khi tin tức về cuộc thí nghiệm này lan truyền, Boston thực sự trở thành “địa ngục trần thế” đối với Mather và Boylston. Dân Boston bị sốc và hoảng hốt vì những thí nghiệm chưa từng có như trên; các bác sĩ tố cáo Mather và Boylston đã bắt cộng đồng phải gánh chịu một thủ thuật nguy hiểm và chưa được thử trước. Các giới chức Boston cấm không cho cấy đậu.

Một số linh mục tố cáo sự cấy đậu là một thách đố với kế hoạch của Chúa, mời chào cái xấu và vô đạo, và âm mưu đem những sáng chế của con người thay cho sự dẫn dắt của Thần linh. Nhưng các mục sư khác lại đồng ý với Mather và trở thành những người nhiệt thành ủng hộ cách cấy đậu. Đức cha Benjamin Colman gọi cấy đậu là “một ân sủng gây kinh ngạc”. Đáp lại sự công kích của Massey về việc cấy đậu, Đức cha William Cooper cho rằng: “Hãy sử dụng ánh sáng mà Chúa ban cho và cám ơn Người”. Ngược lại, William Douglass (1691-1752), một trong những thầy thuốc xuất sắc và học vấn cao nhất, tố cáo các thợ cấy đậu đã tạo nên “những sự lạm dụng và tai tiếng”. Douglass là bác sĩ duy nhất có bằng đại học tại Boston, đã tốt nghiệp trường y Edinburgh. Có vẻ là một nhà thần học hơn là bác sĩ, Douglass tuyên bố sẽ là một tội lỗi khi cố ý gây nhiễm một người lành mạnh với một thứ bệnh nguy hiểm, mà có thể không bị mắc. Douglass hỏi, làm thế nào mà giới tu sĩ dung hòa được việc cấy đậu với học thuyết vận mệnh được? Tuy thế, vào năm 1730, Douglass xem xét lại “cách trị bệnh lạ lùng và đáng ngờ này” và trở thành một người ủng hộ việc cấy đậu.

Nhìn lại những rối rắm do việc cấy đậu gây ra, Mather yêu cầu người dân vùng New England hãy nghĩ đến bao nhiêu mạng người có thể cứu được nếu các bác sĩ không “đầu độc và làm cho họ mê muội’’ chống lại kỹ thuật này. Mặc dù Mather thừa nhận có vài người chết sau khi cấy, nhưng ông ta nhắc nhở những người chỉ trích rằng người ta có thể chết vì nhổ răng, còn những người khác mất mạng vì tự mình điều trị với thuốc gây ói, thuốc xổ hoặc hút thuốc lá. Khi vụ dịch giảm dần, sự sợ hãi và thù địch đối với các thí nghiệm cấy đậu cũng xẹp đi. Người dân bắt đầu hỏi liệu việc cấy đậu có thực sự hiệu quả và liệu việc này có ít nguy hiểm hơn so với bệnh đậu mùa nếu mắc phải theo cách tự nhiên.

Các ghi chú của Boylston được công bố năm 1726 dưới tiêu đề Một tài liệu lịch sử về bệnh đậu mùa được cấy tại New England, cung cấp bằng chứng thống kê về tính an toàn của việc cấy đậu. Trong vụ dịch đậu mùa năm 1721, có 844 người chết. Tính trên số dân Boston vào thời điểm ấy, tỷ lệ tử vong cho bệnh đậu mùa mắc tự nhiên trong vụ dịch này vào khoảng 14%. Trong số 274 người được cấy đậu, chỉ có 7 người chết. Tỷ suất chết/ca bệnh là 2,2% cho nhóm được cấy tức là thấp hơn nhiều so với tỷ suất chết/ca bệnh của dân số chung Boston. Dĩ nhiên, những con số tính toán thô trên chưa tính đến nhiều biến chứng quan trọng, chẳng hạn như vấn đề đánh giá nguy cơ mắc phải bệnh đậu mùa tự nhiên, hoặc khả năng mắc bệnh của một số người vốn đã được cấy đậu trước đó. Ngày nay, không thể nào chấp nhận một vaccine có tỷ lệ cơ tử vong (fatalíty rate) 2%, nhưng khi so sánh với bệnh đậu mùa mắc phải tự nhiên, những lợi ích của việc cấy đậu rõ ràng là vượt quá nguy cơ.

Việc cấy đậu mang lại nhiều hậu quả quan trọng đối với giới hành nghề y và các viên chức y tế công cộng muốn nhận lấy các trách nhiệm gắn liền với sự hứa hẹn chưa bao giờ có được là khống chế được những bệnh gây dịch. Như Benjamin Franklin đã cay đắng giải thích, việc cân nhắc các nguy cơ và lợi ích của việc cấy đậu đã trở thành một trách nhiệm nặng nề cho các bậc cha mẹ. Năm 1736, Franklin in một thông báo trên tờ Poignant để phủ nhận các tin đồn là đứa con 4 tuổi của ông vừa chết là do cấy ngừa đậu mùa. Franklin sợ rằng các báo cáo không đúng sẽ ngăn cản không để các bậc cha mẹ khác bảo vệ con của họ. Do bị bệnh tiêu chảy cho nên Franklin buộc phải hoãn không con mình đi cấy đậu, cho nên sau đó đứa bé mắc phải bệnh đậu mùa tự nhiên. Trong quyển Tự truyện, Franklin nêu ra những hối tiếc cay đắng còn giữ mãi trong lòng vì đã không bảo vệ được Francis khỏi mắc bệnh đậu mùa. Biết rằng nhiều bậc cha mẹ từ chối không cho con cái đi cấy đậu bởi vì họ sợ rằng họ sẽ không bao giờ tha thứ cho mình được nếu con của họ chết sau khi cấy đậu, Franklin thuyết phục họ nên nghĩ lại là nguy cơ mắc phải bệnh đậu mùa tự nhiên còn cao hơn nếu không cho trẻ cấy đậu.

Do các trận dịch đậu mùa vẫn còn tiếp tục quấy nhiễu các cộng đồng vùng New England, sự cô lập và giai đoạn hồi phục cần có để bảo đảm an toàn cho việc cấy đậu đã làm cho các gia đình giàu có không muốn tham gia. Một người được cấy với chất mủ lấy từ một ca bệnh đậu mùa nhẹ rõ ràng là một mối nguy hiểm cho người khác, bởi vì đậu mùa do cấy là một bệnh lây. Thật vậy, trong chiến tranh giành Độc lập của Mỹ, người Anh bị tố cáo là đã tiến hành “chiến tranh vi trùng” vì đã cấy virus cho các điệp viên rồi cho gởi họ đến nước Mỹ để làm lây lan bệnh. Washington lúc đầu hy vọng rằng sự cô lập và kiểm dịch sẽ ngăn ngừa không cho bệnh đậu mùa lây lan trong quân đội của mình, nhưng ông ta cũng biết rằng các binh sĩ người Anh được bảo vệ thường xuyên để không mắc bệnh là nhờ phương pháp cấy đậu. Do bệnh đậu mùa là mối đe dọa thường xuyên cho quân đội, cho nên tướng George Washington ra lệnh bí mật cấy đậu hàng loạt cho lính Mỹ nhằm duy trì lực lượng quân sự hữu hiệu. Bằng những biện pháp như thế, bệnh đậu mùa dần dần không còn là “nỗi khiếp sợ của nước Mỹ”.

Có lẽ thành quả lớn nhất về y học của Thời đại Khai sáng là việc thừa nhận có khả năng ngăn ngừa được bệnh đậu mùa gây dịch. Tại nước Anh, hội viên của Hội Hoàng gia bắt đầu chú ý đến các tập tục dân gian kỳ lạ trên thế giới và dùng tờ báo của Hội để phổ biến những thông tin khá kỳ lạ đó. Bài báo “Ghi chép, hoặc Lịch sử gây bệnh đậu mùa bằng cách rạch da hoặc chủng đã từng được thực hiện tại Constantinople” của Emanuel Timoni được công bố trong tờ Văn kiện Khoa học của Hội Hoàng gia năm 1714, là một ví dụ hoàn hảo về việc tìm hiểu các phong tục dân gian của các vùng xa lạ. Giacomo Pylarini cũng gởi một bản mô tả khác về việc chủng đậu cho Hội Hoàng gia.

Theo Timoni và Pylarini, thợ cấy đậu lấy mủ bằng cách dùng kim đâm vào bọc mủ của ca bệnh đậu mùa thích hợp. Kim chích được đặt trong một cái lọ thủy tinh sạch, được người thợ cặp trong nách hoặc ngực để giữ ấm. Người ta rạch trên da nhiều vết nhỏ cho đến khi rướm máu, và máu từ đó hòa với chất đậu mùa, rồi sau đó chỗ rạch được phủ lại bằng một nửa miếng vỏ hạt dẻ. Có thể rạch nhiều chỗ tạo thành hình thánh giá để tạo phép mầu hoặc để lấy phước.

7 năm sau khi những bài báo này xuất hiện, một loạt các thử nghiệm được tiến hành dưới sự bảo trợ của Hoàng gia và sự hợp tác của Hội Hoàng gia và Viện Thầy thuốc, để đánh giá sự an toàn chủng đậu. 6 tù phạm tội giết người, tình nguyện tham gia thí nghiệm để đổi lấy sự khoan hồng (nếu họ sống được), được Maitland tiến hành cấy đậu vào ngày 9 tháng 8 năm 1721, trước mặt ít nhất 25 người làm chứng. Vào ngày 6 tháng 9, thí nghiệm được công bố thành công và các tù nhân được thả, vừa mừng vì khỏi bị tù, vừa mừng vì khỏi sợ bị bệnh đậu mùa. Một test khác, đem tiêm cho trẻ mồ côi của giáo khu St. James. Các thí nghiệm này được Hoàng tử và Công nương xứ Wales (sau này là vua George II và Hoàng hậu Caroline) theo dõi sát. Căn cứ trên những báo cáo rất thuận lợi, Công nương quyết định cho hai con gái cấy đậu. Điều không tránh khỏi là, có những thất bại bị thổi phồng quá đáng, được vô số các bài báo và bài giảng lợi dụng để bàn thảo về các ý nghĩa tôn giáo, xã hội và y học của việc cấy đậu.

Những người ủng hộ cấy đậu tin rằng việc bảo vệ người dân khỏi bệnh đậu mùa mới chỉ là bước đầu. Matthieu Maty (1718-1776), người vận động cho việc cấy đậu ở nước Anh, Pháp và Hà Lan, tiên đoán rằng trong vòng 100 năm nữa, người ta sẽ hoàn toàn không còn nhớ gì đến bệnh đậu mùa và các mối nguy hiểm của nó nữa. Vào nửa cuối thế kỷ 18, cấy đậu là một thủ thuật y khoa được chấp nhận rộng rãi. Căn cứ trên các thông tin được các thợ cấy đậu báo cáo từ năm 1723 đến 1727, James Jurin (1684-1750), một thầy thuốc xuất sắc và người ủng hộ việc cấy đậu, đã tính toán tỷ lệ tử vong từ đậu mùa do cấy đậu là 1/48 đến 1/60, còn với đậu mùa tự nhiên là 1/6. Theo những người cấy đậu thì tỷ lệ tử vong xê dịch từ 1/30 đến 1/8000. Nhìn chung, tỷ lệ tử vong trung bình của đậu mùa do cấy đậu là 1/200. Do cấy đậu chủ yếu chỉ được yêu cầu trong những năm xảy ra dịch, một số ca tử vong gán cho cấy đậu có thể là do đậu mùa mắc phải tự nhiên. Mặc dù việc cấy đậu mới chỉ tác động phần nào lên số mắc chứng bệnh đậu mùa, nhưng nó đã dọn đường cho xã hội chấp nhận nhanh chóng vaccine đậu bò của Edward Jenner và mối hy vọng rằng những bệnh gây dịch khác rồi cũng sẽ được khống chế.

EDWARD JENNER, BỆNH ĐẬU BÒ VÀ TIÊM CHỦNG NGỪA ĐẬU MÙA

Edward Jenner (1749-1823) đi tập sự nghề y khi được 13 tuổi. Mặc dù nhận được bằng cấp danh giá của Bệnh viện St. Andrews, nhưng ông lại thích làm thầy thuốc ở làng hơn là tại một phòng mạch thời thượng tại London. Mặc dù thường được mô tả là trí thông minh và tham vọng nghề nghiệp ở mức làng nhàng, nhưng đầu óc ông khá nhạy bén để duy trì một tình bạn bền chặt cả đời với nhà giải phẫu học nổi tiếng John Hunter (1728-1793). Nhờ việc nghiên cứu về chiến lược sinh sản khá kỳ cục của con chim cu cu và nhờ sự bảo trợ của Hunter, Jenner trở thành hội viên Hội Hoàng gia. Trong các thư từ của họ, Hunter và Jenner trao đổi các ý kiến về lịch sử tự nhiên và y học. Vì thế, khi Jenner để ý đến các tín niệm của người dân địa phương về bệnh đậu mùa và đậu bò, ông ta xin ý kiến của Hunter về giả thuyết cho rằng tiêm chủng đậu bò có thể loại trừ được mối nguy hiểm mắc đậu mùa. Lời khuyên của Hunter đã chỉ đường cho Jenner: đừng có suy đoán, mà hãy làm thí nghiệm.

Năm 1793, Hội Hoàng gia gạt bỏ báo cáo của Jenner “Tìm hiểu Lịch sử tự nhiên của một chứng bệnh được gọi là Đậu bò tại vùng Gloucestershire”. 5 năm sau, Jenner công bố Một nghiên cứu về Nguyên nhân và Tác dụng của Variolae Vaccinae, một chứng bệnh phát hiện tại các quận miền tây nước Anh, nhất là tại Gloucestershire, gọi là bệnh Đậu bò. Jenner đặt tên cho tác nhân gây bệnh đậu bò truyền nhiễm là Variola vaccinae (tiếng Latin, vacca, nghĩa là con bò cái, và variola, bệnh đậu mùa). Do ngành y có xu hướng khó chấp nhận những tư tưởng và phương pháp mới, sự kiện phương pháp tiêm chủng của Jenner phổ biến khắp châu Âu và châu Mỹ vào năm 1800 là một phần thưởng và vinh dự đáng kể dành cho một người thầy thuốc nhà quê có công cổ vũ kỹ thuật mới. Hội Hoàng gia Jenner được thành lập năm 1803 nhằm thực hiện tiêm chủng cho các trẻ em nghèo tại London.

Trong bài báo Nghiên cứu, Jenner cho rằng một chứng bệnh trên móng ngựa đã bị biến thể khi chuyển sang bò và từ đó gây ra một chứng bệnh ở người rất giống với bệnh đậu mùa nên có thể đây là nguồn gốc đầu tiên của bệnh. Do cả đàn ông lẫn đàn bà tại Gloucestershire đều vắt sữa bò, khi một người đàn ông xức thuốc vào móng cho ngựa, anh ta có thể mắc bệnh của móng, và sau đó lây bệnh cho vú bò, từ vú bò bệnh xuất hiện dưới hình thức ban gọi là bệnh đậu bò. Những phụ nữ vắt sữa mắc bệnh nhận thấy rằng khi trên tay của họ có những thương tổn, thì toàn thân cũng có các triệu chứng mắc bệnh nhẹ. Tuy bệnh đậu bò gây khó chịu chút ít, nhưng ai đã mắc bệnh này thì dường như sẽ không mắc bệnh đậu mùa tự nhiên cũng như bệnh đậu mùa do cấy đậu.

Các chuẩn mực của thế kỷ 18 về bằng chứng, đạo đức y học, sự đồng ý được thông báo, và các thí nghiệm thử thuốc trên lâm sàng đều rất khác xa với những gì thuộc y học hiện đại. Bằng chứng của Jenner có thể sẽ gây tò mò, nhưng chắc chắn là không thể thuyết phục một hội đồng thẩm tra nghiên cứu hiện đại. Ngoài việc thu thập các ca bệnh, Jenner còn thực hiện các thí nghiệm về sự lây truyền và tác dụng của bệnh đậu bò. Lấy ví dụ, vào tháng 5 năm 1796, Jenner lấy chất dịch từ một vết loét đậu bò từ tay một người vắt sữa tên là Sara Nelmes rồi đem chủng cho cậu bé James Phipps 8 tuổi. Khoảng một tuần sau, cậu bé than khó chịu toàn thân, nhưng chỉ sau vài ngày thì bình phục hoàn toàn. Khi Jenner làm một test cấy đậu, lấy mủ từ một bệnh nhân mắc đậu mùa, Phipps dường như miễn dịch với bệnh đậu mùa do chủng đậu. Sau khi thử thành công nhiều lần, Jenner kết luận là người nào trước đã nhiễm virus đậu bò “thì cả đời sẽ không bao giờ mắc bệnh đậu mùa nữa”. Jenner thậm chí đem chất dịch đậu bò cấy cho con trai của mình và sau đó kiểm chứng tính miễn dịch chống bệnh đậu mùa của cậu ta.

Để tách biệt giữa kỹ thuật cấy đậu cũ với chất dịch lấy từ đậu mùa với phương pháp mới của mình, Jenner đưa ra một từ mới: chủng ngừa (vaccination) (vaccination đi từ tiếng Latin vaccinus, liên quan đến bò cái). Để cho tiện, và để tách rời quy trình của mình không dính dáng gì đến “các động vật cục súc”, Jenner chứng minh rằng tính miễn dịch có thể được chuyển trực tiếp từ người sang người. Tuy nhiên, một số người cùng thời với Jenner tố cáo ông ta là lừa đảo và lang băm và chống đối việc sử dụng các chất dịch ghê tởm lấy từ súc vật để tiêm cho người, trong khi những người khác thì cho rằng việc chủng đậu bò là một phát hiện vĩ đại nhất trong lịch sử y học. Bác sĩ, phẫu thuật viên, người bán thuốc, tu sĩ và một đám những kẻ cơ hội đều cố tìm cách kiểm soát việc chủng đậu bò. Nhưng không thể nào kiểm soát mãi được vì lẽ người được tiêm đậu bò sau đó sẽ lấy các bóng nước trên da của mình để chủng cho cả gia đình và bạn bè.

Những người phê bình phương pháp tiêm chủng đậu bò của Jenner cảnh báo rằng việc cố ý chuyển bệnh từ súc vật sang người là một hành vi ghê tởm, vô đạo đức và nguy hiểm. Tuy nhiên, kinh nghiệm đã ủng hộ luận điểm chính của Jenner: việc chủng đậu bò là đơn giản, an toàn, rẻ tiền và mang lại hiệu quả. Vì thế, việc chủng đậu bò đã nhanh chóng thay thế cho cấy đậu mặc dù có những lời phản đối không thể tránh khỏi về mặt tôn giáo, xã hội, khoa học và giả khoa học. Chỉ trong vòng một thập niên ngắn ngủi, các thầy thuốc xông xáo đã mang kỹ thuật chủng đậu ra khắp thế giới. Lúc đầu người ta dùng những cuộn chỉ cho ngấm chất dịch đậu bò để làm môi trường vận chuyển đến nhiều nơi trên thế giới, nhưng trên các hành trình dài, thì người ta sử dụng vaccine được vận chuyển sống bằng cách truyền từ người sang người. Một khó khăn chính để bảo đảm dây chuyền mắc đậu bò là tìm ra những người nào trước đây không mắc đậu mùa hoặc đậu bò.

Năm 1802, vua Charles IV ra lệnh cho Hội đồng vùng Indies nghiên cứu cách nào để mang cách chủng đậu bò sang vùng châu Mỹ thuộc Tây Ban Nha. Một đội viễn chinh được thành lập và Francisco Xavier de Balmis (1753-1819) được chỉ định làm trưởng đoàn. Khi đoàn tàu của Tây Ban Nha đi vòng quanh thế giới, de Balmis thành lập ra các nhóm tiêm chủng đậu bò tại Nam Mỹ, Philippines và Trung Quốc. Để cho vaccine luôn còn tác dụng trên những chuyến hải hành dài như thế, de Balmis chọn khoảng hai chục trẻ mồ côi và thực hiện cách chuyển tiếp virus bằng cách cứ 9 hoặc 10 ngày thì lấy dịch mủ bệnh đậu từ vết loét của cánh tay người này đem chủng lên cánh tay của người khác. Khi cần, ông ta bổ sung vào nhóm chuyển tiếp này bằng những bé trai chưa được chủng và như thế ông ta tiếp tục sứ mạng của mình. Do vaccine theo phương pháp của Jenner bị phát tán khá nhiều, cho nên de Balmis đôi khi nhận thấy rằng vaccine đã có mặt tại một số nơi trước khi ông tới.

Có lẽ John Clinch, thầy thuốc đồng thời là tu sĩ định cư tại vùng Newfoundland thực hiện chủng đậu đầu tiên tại Bắc Mỹ. Clinch và Jenner kết bạn khi cùng học tại nước Anh. Năm 1800, một người cháu của Jenner, Bác sĩ - cha cố George Jenner, đã gởi những “sợi chỉ có tẩm chất dịch đậu mùa” cho Clinch. Các thầy thuốc tại Cincinnati, Lexington, St. Louis, và các cộng đồng khác chắc hẳn đã nhận các mẫu vaccine đậu bò trong những thập niên đầu của thế kỷ 19. Lấy ví dụ, BS Antoine François Saugrain de Vigny (1763-1820), đã đưa vaccine đến St. Louis năm 1809, chỉ 8 năm sau một vụ dịch đậu mùa bùng nổ tại thành phố này. Ngay từ năm 1800, bà con của Saugrain tại Pháp đã chuyển cho ông ta các báo cáo về vaccine và thúc dục ông chủng cho mấy đứa con của mình. Đến tháng 6 năm 1809, Saugrain đưa một thông báo trên tờ Missouri Gazette để thông báo cho độc giả biết là mình đã được “nhiễm vaccine thứ thiệt”. Sau khi tiêm chủng thành công cho gia đình mình và những người khác, ông ta cảm thấy cần phải “chia sẻ rộng rãi ân sủng này” và thông báo cho các thầy thuốc và những người khác là vaccine có sẵn. Ông cũng sẵn sàng tiêm miễn phí cho người nghèo và người da đỏ.

Người ủng hộ việc chủng đậu bò nhiệt thành nhất tại Mỹ trong nửa đầu thế kỷ 19 là Benjamin Waterhouse (1754-1846). Sinh ra tại Newport, Rhode Island, Waterhouse học nghề y với một thầy thuốc nổi danh vùng Newport là John Halliburton. Giống như nhiều bác sĩ Mỹ có tham vọng khác, Waterhouse tiếp tục theo học y khoa tại London, Edinburgh, và Leiden. Sau khi có bằng bác sĩ, Waterhouse quay về Newport và mở một phòng mạch tư. Ông ta cũng dạy lịch sử tự nhiên và thực vật học ứng dụng tại Trường Rhode Island (sau này là đại học Brown). Về sau, Waterhouse trở thành giáo sư đầu tiên của bộ môn Lý thuyết và thực hành y học tại trường Y khoa Harvard mới được thành lập. Ngoài các công trình về bệnh đậu bò, Waterhouse còn giảng dạy về lịch sử tự nhiên, giúp thành lập Vườn Bách thảo tại Cambridge, và xuất bản rất nhiều sách và tiểu luận, trong đó có ‘Sự hình thành, phát triển và hiện trạng của Y học (1792), Một viễn cảnh thanh toán bệnh đậu mùa (phần 1, 1800; phần 2, 1802) và Nhà thực vật học (1811)’.

Mặc dù Waterhouse không phải là người đầu tiên thực hiện việc chủng đậu bò tại Bắc Mỹ, nhưng ông ta là người đầu tiên làm cho công chúng và cộng đồng y khoa chú ý. Thật vậy, William H. Welch (1850-1934), một nhà bệnh lý học xuất sắc và một trong những người sáng lập trường Y khoa John Hopkins, đã gọi Waterhouse là “Jenner của nước Mỹ”. Ngay từ năm 1799, Waterhouse đã nhận được từ một người bạn một bản Nghiên cứu của Jenner. Dưới tiêu đề “Một sự việc kỳ lạ trong ngành Y”, Waterhouse đã công bố một ghi chú ngắn về việc chủng đậu bò trên tờ Columbian Centinel tại Boston và kêu gọi các trại chủ nuôi bò sữa cung cấp thông tin về sự hiện diện của bệnh ‘‘đậu bò’’ trên đàn gia súc của họ. Sau nhiều cố gắng tốn công sức để lấy được vaccine hoạt tính, Waterhouse lấy được một mẫu vào tháng 7 năm 1800 và bắt đầu thử trên chính con cái và đầy tớ của mình. Mặc dù sau này bị công kích là đã tìm cách chiếm độc quyền việc chủng đậu tại Mỹ, nhưng Waterhouse đã gởi một số vaccine của ông cho Thomas Jefferson, để ông này tiêm chủng cho toàn bộ gia đình của mình. Trong một bức thư gởi cho Jenner năm 1806, Jefferson tiên đoán: “Các thế hệ tương lai khi đọc lịch sử sẽ biết rằng bệnh đậu mùa ghê tởm đã tồn tại và chính nhờ ngài mà nó bị tiêu diệt”. Mặc dù tiên đoán này chỉ trở thành hiện thực vào thập niên 1970, nhưng Jefferson đã khởi động một quá trình thông qua sự làm gương và ủng hộ của mình.

Những tranh luận về tính an toàn và hiệu quả của các loại vaccine dự phòng đã diễn ra sôi nổi kể từ khi có các thí nghiệm đầu tiên về cấy ngừa đậu mùa và chủng đậu bò, xảy ra nhiều năm trước khi môn vi trùng học và miễn dịch học ra đời. Nhiều luận cứ về tiêm chủng đậu bò thiên về cảm tính hơn là lý luận khoa học: những thứ gì can thiệp vào tự nhiên hoặc ý của Chúa đều là vô đạo đức; là điều ghê tởm khi cố ý đưa các chất bệnh vào cơ thể người khỏe mạnh; cấy đậu có thể đem lại lợi ích nhưng cuối cùng nguy cơ nhiều hơn là lợi ích. Những người chỉ trích khác phản đối việc bắt buộc chủng đậu bò với lý do là xâm phạm vào quyền tự do cá nhân. Lấy ví dụ, triết gia người Anh, Herbert Spencer (1820-1903) đã viết: “Tôi ghê tởm việc chủng đậu cưỡng bách, tôi phản đối việc chủng đậu tự nguyện”. Ngoài ra, Johann Peter Frank không chút nghi ngờ gì khi cho rằng việc chủng đậu bò là “Một trong những phát hiện quan trọng và vĩ đại nhất chưa từng có dành cho Cảnh sát y tế”. Frank tiên đoán rằng nếu tất cả các tiểu bang đều chuẩn y việc chủng đậu bò cưỡng bách, thì bệnh đậu mùa chẳng bao lâu sẽ biến mất.

Các cố gắng lúc đầu nhằm đo lường tác động của việc chủng ngừa dự phòng đều thiếu các biện pháp kiểm soát nghiêm nhặt như các nhà khoa học hiện đại đòi hỏi. Thật vậy, các kết quả thu thập từ các thí nghiệm thử thuốc lâm sàng thời đó được tiến hành tại các bệnh viện, nhà nuôi trẻ mồ côi và nhà tế bần thường cũng chẳng hơn gì các bằng chứng kinh nghiệm. Khi một chứng bệnh lan tràn, khó mà so sánh nhóm chứng với nhóm thí nghiệm bởi vì trong cả hai nhóm đều có một số người đã mắc bệnh hoặc, trong trường hợp bệnh đậu mùa, họ đã mắc bệnh ngay trước khi bắt đầu cuộc thí nghiệm. Mặc dù không chắc chắn và bị phản đối, trong thập niên 1850, việc cấy đậu bị coi là bất hợp pháp và chủng đậu bò trở thành bắt buộc tại vương quốc Anh. Tỷ lệ tử vong do đậu mùa tụt từ 2-4 phần ngàn của thế kỷ 18 xuống còn 0,09 phần ngàn sau năm 1872 khi việc thực thi luật chủng đậu bò trở thành phổ biến. Tuy nhiên, Alfred Russel Wallace (1823-1913), nhà tự nhiên học người Anh, đồng thời cũng là người phát hiện ra sự tiến hóa chọn lọc tự nhiên, đã tố cáo việc chủng đậu bò là một trong những thất bại lớn của thế kỷ 19. Theo Wallace, thì các giới chức y tế công cộng không những chỉ có tội là bất lực và không trung thực khi đưa ra con số thống kê mà còn âm mưu toa rập với các cơ sở y tế để giấu giếm nhiều trường hợp tử vong do chủng đậu bò. Phản ánh quan điểm của nhiều người Anh, Wallace khẳng định rằng những ai truyền bá và thực thi luật chủng đậu bò là những người phạm tội chống lại tự do, sức khỏe và nhân loại.

Nhiều người Mỹ phải tán đồng ý kiến của Wallace, bởi vì trong thập niên 1910, các nhà dịch tễ học vẫn còn phàn nàn rằng nước Mỹ là quốc gia công nghiệp hóa ít được chủng đậu bò nhất trên thế giới. Các tiểu bang hầu như đã thông qua các đạo luật cấm không xem xét việc chuyển chủng đậu bò bắt buộc trở thành luật phải thực thi. Các khảo sát tiến hành giữa những năm 1928-1931 phát hiện trên 40% cư dân Mỹ chưa bao giờ được tiêm chủng. Việc thực thi các luật buộc tiêm chủng đậu bò đã được cải thiện rất nhiều sau đệ nhị thế chiến, và nguy cơ mắc bệnh đậu mùa ở Mỹ dần dà trở nên rất nhỏ đến mức năm 1971, Cơ quan Y tế Công cộng đã ra khuyến cáo chấm dứt việc chủng ngừa đậu bò thường xuyên. Về điểm này, mặc dù nước Mỹ đã không còn ca bệnh đậu mùa trên 20 năm qua, nhưng hàng năm có từ 6-8 trẻ chết vì các biến chứng liên quan đến tiêm chủng đậu bò. Sự thù nghịch đối với việc tiêm chủng đậu bò bắt buộc chưa hề biến mất hoàn toàn. Thật vậy, trong thập niên 1980, những người chống đối việc tiêm chủng vẫn còn cho rằng chiến dịch toàn cầu thanh toán bệnh đậu mùa là nguyên nhân gây ra dịch AIDS.

Virus vaccinia đã giúp thanh toán bệnh đậu mùa, nhưng nguồn gốc của virus này vẫn là một câu đố nan giải bởi vì bản chất những mối quan hệ giữa các virus đậu mùa, đậu bò và vaccinia. Ngay từ thập niên 1930, người ta đã chứng minh là virus vaccinia khác với virus đậu bò. Một số nhà virus học đã xác định vaccinia là một loài virus trong phòng thí nghiệm không có ổ chứa tự nhiên. Virus đậu mùa, đậu bò và vaccinia thuộc chi Orthopoxvirus, nhưng cả ba là những loài khác nhau và không thể chuyển đổi qua lại được. Virus bệnh đậu ngựa đã tuyệt tích vào thời điểm người ta sử dụng các phương pháp miễn dịch để xác định chủng. Do bệnh đậu bò và đậu ngựa đều hiếm và rải rác cho nên các nhà virus học cho rằng các loài gặm nhấm hoang dại là ổ chứa tự nhiên của các poxvirus tổ tiên.

Từ thập niên 1960, người ta đã bào chế ra vaccine từ ba chủng virus vaccinia được lưu giữ tại Anh, Mỹ và Nga. Nhưng các công trình thử nghiệm chủng đậu bò đầu tiên rõ ràng là đã sử dụng một mớ hỗ lốn các virus không thể nào kiểm soát được, trong đó lúc nào cũng có virus gây bệnh đậu mùa tự nhiên. Thợ cấy đậu tùy tiện lấy chất dịch chứa virus từ bò và người, từ những mụn mủ sơ phát và thứ phát không rõ nguồn gốc. Không biết được chắc chắn mức độ và thời gian bảo vệ từ việc chủng đậu bò và cấy đậu. Mặc dù Jenner lạc quan tuyên bố rằng, nếu làm đúng thì việc chủng đậu bò sẽ tạo ra miễn dịch cả đời, nhưng các nghiên cứu sau này chứng minh rằng miễn dịch do chủng đậu bò, cấy đậu và bệnh đậu mùa tự nhiên tạo ra sẽ giảm dần theo thời gian và thay đổi tùy theo nhóm dân cư. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi phát hiện rằng mỗi nhóm dân cư có các kiểu thức mắc bệnh và tử vong khác nhau.

Sau đệ nhị thế chiến, bệnh đậu mùa không còn được xem là bệnh lưu hành tại Anh và Mỹ nữa. Tuy nhiên, những ca ngoại nhập vẫn còn dấy lên các vụ dịch nhỏ và làm cho nhiều người lo sợ. Vì lẽ bệnh này hiện nay rất hiếm tại nước Anh, châu Âu và nước Mỹ cho nên các bệnh nhân đậu mùa thường lây nhiễm cho bà con, nhân viên bệnh viện và khác, trước khi tìm ra được chẩn đoán ở cơ sở y tế. Một khi một vụ dịch đậu mùa được phát hiện, một số thành phố đã phát động các chiến dịch chủng đậu bò rộng rãi. Trong các đợt hoảng loạn do dịch đậu mùa bùng ra tại New York những năm 1940, báo chí và radio cứ cổ võ người già và thanh niên: ‘‘Để được chắc chắn, để được an toàn, hãy đi tiêm chủng!’’ Tại New York City, William D. O’Dwyer (1890-1964), là thị trưởng từ năm 1945 đến 1950, đứng ra cho nhân viên y tế chủng đậu 5 lần trước mặt các phóng viên và nhà báo để làm gương. Mặc dù để được nhận vào hệ thống trường học của thành phố, học sinh được yêu cầu phải chủng đậu bò, nhưng các giới chức y tế công cộng ước tính vào thời điểm xảy ra vụ dịch, chỉ có 2 triệu dân trong số xấp xỉ 8 triệu cư dân New York đã có chút ít miễn dịch. Sợ vụ dịch xảy ra, 5 triệu người New York được chủng đậu bò trong vòng hai tuần lễ. Kỷ lục thế giới này đạt được là nhờ có sự giúp sức của 400 người tình nguyện trong số 13.000 bác sĩ tư nhân của thành phố.