← Quay lại trang sách

10- Văn hóa phản chính thống trong y học: Y học không chính thống và Y học thay thế-

Thế kỷ 19 là một thời kỳ quá độ trong y học Mỹ, một thời kỳ đặc biệt được đánh dấu bằng sự tăng nhanh các trường y, các hội đoàn y học, báo chí ngành y, các cố gắng đầy tranh cãi để bảo đảm các luật hành nghề y, và sự xuất hiện các ngành khoa học y học mới, chẳng hạn như vi trùng học, miễn dịch học và sinh lý học. Những phát triển này đã giúp tạo nên một môi trường đồng thuận giữa các thầy thuốc là ngành y nên được hành nghề như thế nào, và do ai làm, nhưng nhiều bệnh nhân lại chống đối cách trị liệu chính quy và tiếp tục đòi có quyền được tự do lựa chọn trong thị trường y tế.

THỊ TRƯỜNG Y TẾ

Các bác sĩ chính thống là thành phần chiếm đa số trong tập thể những người hành nghề chữa bệnh vào thế kỷ 19, nhưng những người cải cách y tế đại chúng và các thành viên của các nhóm cạnh tranh, thường được gọi là những người hành nghề không chính quy, đã tìm cách đưa ra một số thách thức ấn tượng đối với thẩm quyền của các bác sĩ. Đối với các thầy thuốc chính thống thì những người hành nghề y học thay thế chỉ là bọn lang băm, lừa bịp và đi chệch hướng, ngay cả với những thầy thuốc khi khởi đầu sự nghiệp là bác sĩ. Các lang băm (quack) là những người thực sự tin tưởng vào các phương pháp không quy ước có thể bị coi là ngu xuẩn, lạc lối, hoặc loạn trí, còn những kẻ cố tình lừa bịp thì được gọi là thầy bịp (charlatan). Các bác sĩ chính thống nhấn mạnh rằng tất cả bọn lang băm đều gây nguy hại và cần phải áp dụng các luật hành nghề y chặt chẽ để đuổi bọn này ra khỏi thị trường y tế.

Mặc dù bị phân chia ra thành nhiều nhóm có ý kiến khác nhau xét về bản chất bệnh tật và cách điều trị, nhưng những người hành nghề chữa bệnh không chính quy đều nhất trí là y học chính quy vừa không có tác dụng và lại gây nguy hiểm. Dĩ nhiên không phải tất cả những người chống đối y học chính thống đều là các thầy thuốc được trang bị lý thuyết y học mang tính cạnh tranh. Lấy ví dụ, Thomas Jefferson (1743-1826) mến mộ bạn thân của mình là Benjamin Rush (1745-1813), nhưng cũng biết rõ tính hăng hái quá mức của ông này về sự trích huyết và xổ ruột đều rất có hại. Những người nhiệt tình theo phương pháp của Rush muốn điều trị cho các bệnh nhân mắc tả dạng bệnh dịch (có thể gây tử vong do kiệt nước) bằng ipecac, gây ói bằng muối và nước, cho uống nhiều liều calomel, dầu xổ thầu dầu, và thụt tháo bằng cồn pha dầu thông. Mặc dù Rush chưa bao giờ mất niềm tin vào hệ thống trị liệu của mình nhưng nhiều người Mỹ bị thu hút bởi những thầy lang cung cấp các thứ thuốc và chế độ điều trị được coi là an toàn, hiệu quả và hợp tự nhiên.

Một số thầy thuốc không chính quy là người chữa bệnh theo kinh nghiệm hoặc là các chuyên gia - chẳng hạn như thầy thuốc chữa bằng thảo dược, hộ sinh, nha sĩ và thầy chữa bệnh mắt - tức là người chỉ chuyên về một số bệnh và cũng chẳng cần đến các học thuyết y học cao xa. Những thầy chữa bệnh khác là thành viên của một phái y học hoặc tôn giáo, như Phục lâm An thất nhật (Seven Day Adventist) và các Nhà khoa học Cơ Đốc. Một số nhà lãnh đạo các chiến dịch y tế quần chúng đưa ra các hướng dẫn về chế độ ăn, nếu áp dụng sẽ có khả năng khỏi phải nhờ đến tất cả các loại thuốc men và bác sĩ. Là những người có khiếu thu phục quần chúng, những thầy không chính thống này dù có chuyên môn y học hoặc không, nhưng họ đều cho là mình đã tìm ra được các thứ thuốc hoặc thiết bị kỳ diệu nhưng bị ngành y cầm quyền cấm đoán. Dù theo bất cứ học thuyết nào về sức khỏe, bệnh tật và trị liệu, nhưng các thầy thuốc không chính thống này đều nhấn mạnh đến những mối nguy hiểm và sự tốn kém của y học chính thống. Trong thế kỷ 19 đã nổi lên nhiều chi phái y học mới, trong số đó được biết nhiều nhất và kiên định nhất là phái Thomson (một hệ thống y học thường nghiệm cho rằng cơ thể con người cấu thành từ 4 yếu tố đất, không khí, lửa và nước và chỉ nên sử dụng cây cỏ làm thuốc mà thôi, do Samuel Thomson sáng lập tại Massachusetts), phái chiết trung (eclecticism), y học tự nhiên (natu ropathy), thủy liệu pháp (hydropathy) và đồng căn liệu pháp (homeopathy). Đến cuối thế kỷ 19, nhiều chi phái y học trong nhóm đầu tiên này không còn nữa, nhưng các thầy thuốc đồng căn liệu pháp và chiết trung phải đối phó với sự cạnh tranh ngày càng lớn mạnh từ phía các thầy nắn xương (osteopath) và chỉnh nắn cột sống (chiropractor), cũng như các thầy thuốc chính quy ngày càng đoàn kết và càng quyền thế hơn nữa.

Trong các thập niên 1830 và 1840, thời kỳ của của chính sách dân chủ của Andrew Jackson (1767-1845) tổng thống thứ 7 của Mỹ, người dân ưa chuộng chủ nghĩa bình quân, các lý tưởng dân chủ và nền kinh tế tự do kinh doanh. Những người ủng hộ Jackson lên án sự độc quyền, những hạn chế trong thương mại và mọi luận điệu về tinh thông chuyên môn, đặc quyền và thẩm quyền nghề nghiệp. Trong bầu không khí này, người Mỹ đòi hỏi nên xem xét lại vấn đề thẩm quyền nghề nghiệp và sự độc quyền về mặt pháp lý mà các bác sĩ chính quy đòi hỏi. Như Mark Twain (1835-1910) giải thích, người Mỹ tin rằng mỗi người có quyền “chọn tên đồ tể cho riêng mình”.

CÁC PHONG TRÀO CẢI CÁCH Y TẾ

Các thầy thuốc thế kỷ 19 ít chú ý đến việc phòng bệnh. Thật vậy, ngoại trừ việc chủng ngừa đậu mùa, vốn đòi hỏi cách triển khai đặc thù và có phần nguy hiểm, thì hầu như họ chẳng cống hiến gì nhiều. Nhưng tránh được bệnh là một mối quan tâm lớn của công chúng và sự hứa hẹn có được sự khỏe mạnh (wellness) thông qua các chế độ sinh hoạt hợp vệ sinh luôn là sự thu hút không thể cưỡng lại được. Các nhà cải cách y tế và những người đề cao sức khỏe thuộc về một nhóm rất năng nỗ và linh hoạt - họ vận dụng nhiều lý do tốt đẹp và tuôn ra hàng núi các lời khuyên về sức khỏe, vận động, ăn uống, không khí, nước, ánh sáng, cải tiến y phục, vệ sinh tình dục, gia đình, cộng đồng, sự điều độ, thuốc lá và thuốc men theo kiểu độc diễn không hồi kết các chủ đề và biến tấu. Lo lắng vì gặp phải những bằng chứng về tình hình y tế và vệ sinh kém, và cũng phấn khích vì được trang bị các kiến thức mới về sinh lý học, các nhà cải cách xã hội tung ra một cuộc vận động đạo đức để rao giảng những đức tính của một cuộc sống đầy đủ sức khỏe.

Những người tham gia vào phong trào cải cách y tế đi nghe các bài giảng, đặt mua báo chí về y tế, thực hành các chế độ ăn đặc biệt, thực hiện các bài tập thể dục mới, say mê các kiểu tắm trị liệu hoặc tìm kiếm các chỗ nghỉ dưỡng và suối nước khoáng. Danh tiếng và ảnh hưởng của các nhà cải cách y tế và của những phái y học mới ra đời đã tạo điều kiện cho những người tìm kiếm sức khỏe tự giải phóng khỏi những kỹ thuật chữa bệnh được thừa nhận như xổ ruột, gây ói, trích huyết. Các nhà cải cách y tế chia sẻ niềm tin rằng phòng bệnh tốt hơn là chữa bệnh và họ khuyến khích các môn đồ đi theo con đường tìm kiếm sự an lạc tối ưu. Nhưng có rất nhiều con đường khác nhau, và thậm chí còn kỳ dị nữa, hướng tới sự an lạc mặc dù phần lớn đều nhấn mạnh đến việc kiểm soát những yếu tố hầu như thông thường- chế độ ăn, thể dục, sinh hoạt tình dục, vệ sinh cá nhân và nhiều thứ khác. Nhiều người trong đám các nhà cải cách y tế đầy màu sắc và năng động viện đến những phát hiện mới nhất trong nghiên cứu khoa học để hỗ trợ cho viễn cảnh về một lối sống phù hợp thực sự với sinh lý học, nhưng họ cũng cam đoan chắc với môn đồ rằng cái hệ thống về cuộc sống đúng đắn của họ là đúng với luật về cuộc sống hợp vệ sinh của Chúa. Những người ưa châm biếm như L. Mencken (1880-1956), nhà phê bình và bỉnh bút người Mỹ, cảm thấy bực mình vì sự nhiệt tình quá đáng kiểu truyền đạo của các nhà cải cách y tế. Mencken gọi vệ sinh kiểu này là “lấy đạo đức để làm suy đồi y học” bởi vì “không thể tìm được một nhà vệ sinh học nào không làm giảm giá trị học thuyết của mình về con người khỏe mạnh bằng một học thuyết về con người đoan chính”.

Các nhà lãnh đạo phong trào y tế nói chung đều phớt lờ lời kêu gọi của y học Hippocrates cũ là “điều độ với mọi thứ” và thay vào đó là quan niệm về cấm cản tuyệt đối, mặc dù mỗi nhà cải cách lại có mỗi kiểu cấm đoán khác nhau. Người ta chia thực phẩm và các hành vi thành các thứ hạng đạo đức như những thứ được cho phép dùng, như tốt, vừa phải và xấu - như thịt, rượu, những chất kích thích khác - phải tránh tất tần tật. Mặc dù ăn chay là một quan niệm cũ xưa, những hình thức ăn chay và lý do vì sao chấp nhận ăn chay đã thay đổi khá nhiều. Tín đồ đạo Phật, đạo Hindu và môn đồ phái Pythagoras đều phản đối giết thịt động vật vì lý do tôn giáo và đạo đức, nhưng các nhà cải cách tôn giáo lại hô hào việc ăn chay như là điều kiện tiên quyết tuyệt đối để có một cuộc sống khỏe mạnh, hài hòa. Những nhà lãnh đạo nhiều ảnh hưởng nhất trong phong trào cải cách y tế của Mỹ vào đầu thế kỷ 19 như William Andrus Alcott (1798-1859) và Sylvester Graham (1794-1851), đều cho rằng lời khuyên về sức khỏe của họ, một mặt phù hợp với thần học Cơ Đốc, một mặt đặt nền móng trên kiến thức khoa học về sinh lý học và bản chất của con người. Ngoài việc cấm đoán thịt và các thức ăn có thịt, Alcott và Graham kết tội rượu, cà phê, trà, thuốc lá và gia vị bởi vì những thứ này có khả năng kích thích nhiều các dục vọng và sự khao khát mang tính động vật của cơ thể con người.

Có lẽ từ tên gọi bánh quy graham (graham cracker), cho nên Sylvester Graham nổi tiếng hơn William Alcott, một người cùng thời lắm tài của mình. Graham là một mục sư phái Trưởng lão, một người chủ trương điều độ, và là một nhà thuyết giảng mà lĩnh vực tinh thông không có gì khác hơn là “Khoa học về Cuộc sống con người”. Graham cảnh báo các tín đồ về những hậu quả tiêu cực của sự vô độ, tính tham ăn, say đắm tình dục, các thực phẩm từ thịt động vật, mù tạt, tiêu và bánh mì trắng làm từ “bột mì đã xử lý không còn tự nhiên”. Trong tập Các bài giảng về Khoa học của Sự sống và Tạp chí Sức khỏe và Trường thọ mang tên Graham, Graham đưa ra lời khuyên về mọi khía cạnh của một cuộc sống hợp vệ sinh, từ nhu cầu khí trời trong sạch, ánh nắng, mặc quần áo thoáng, năng tắm gội, cho đến việc chuẩn bị và ăn bánh mì sao cho đúng cách. Bánh mì của Graham phải làm từ bột mì xay thô nguyên hạt và để hơi cũ một chút mới ăn. Có lẽ để bù trừ phần nào thứ bánh mì hơi cứng, lổn nhổn như thế, Graham đã cẩn thận giải thích cách nên nhai bánh mì chậm rãi và trọn vẹn như thế nào.

Nhiều nhà cải cách y tế cảnh báo chống lại sự vô độ tình dục, nhất là “nết xấu bí mật”, nhưng Graham tin tưởng rằng, ngoại trừ sự sinh đẻ tối cần thiết trong khuôn khổ hôn nhân, tất cả các hoạt động tình dục đều không hợp sinh lý và không có lợi cho sức khỏe. Những hệ thống cửa hàng thực phẩm, tiệm ăn, nhà nghỉ dưỡng và nhà trọ kiểu Graham ra đời dưới ảnh hưởng của thông điệp từ Graham. Tuy nhiên, hàng loạt các nhà phê bình đã chỉ ra rằng người sáng lập ra trường phái Graham là một kiểu người tàn phế bệnh hoạn, đa phần là do cuộc đời của ông ta khá ngắn ngủi. Những người ăn thịt giễu cợt những bữa tiệc ăn chay của đám Graham có những món ngon khó nuốt như “bánh mì Graham, bí đỏ hầm, bột mì thô, và nước lạnh tinh khiết”.

William Alcott lấy bằng bác sĩ tại đại học Yale danh giá, nhưng do vỡ mộng với ngành y nên quyết định chỉ dựa vào khả năng chữa bệnh của tự nhiên thay vì các phương thức trị liệu quy ước. Sau khi phát hiện rằng thuốc men không thể chữa khỏi bệnh lao của mình, Alcot thay đổi chế độ ăn, kiêng rượu, và thừa nhận thiên nhiên là thầy thuốc thực sự duy nhất. Alcott dành phần còn lại của đời mình để xây dựng và thuyết giảng sách phúc âm của mình về Thể dục và Sinh lý học Cơ Đốc. Là một tác giả sung sức, Alcott truyền bá thông điệp của mình qua sách, bài báo, và những sách hướng dẫn tự học, chẳng hạn như Các bài giảng về Sự sống và Sức khỏe, Các Quy luật của Sức khỏe, Sinh lý học hôn nhân, và Biên niên về Giáo dục, nhưng chính tài liệu Chế độ ăn chay được khuyến cáo bởi Thầy chữa bệnh và Kinh nghiệm qua mọi thời đại mới làm cho ông nổi tiếng nhất. Alcott cảnh báo rằng thịt và những thực phẩm có thịt khác làm kích thích thần kinh, dẫn tới sự tự hành hạ, và lúc nào trong lòng cũng cứ muốn được kích thích nhiều hơn nữa. Theo Alcott, chế độ ăn kiêng là nền tảng cho mọi thứ cải cách khác, “Dân sự, Xã hội, Đạo đức, hoặc Tôn giáo.”

Năm 1850, William Alcott được bầu làm Chủ tịch tại một hội nghị thành lập Hội Ăn kiêng Mỹ. Khi William Alcott mất, William Metcalfe thay thế. Ông này là người thành lập Nhà Thờ Kinh thánh Cơ Đốc. Metcalfe lý luận rằng Kinh thánh, nếu được giải thích đúng đắn, đòi hỏi con người phải kiêng các thực phẩm có chứa thịt. Ngược lại, Graham và Alcott đặt nền móng chế độ tiết thực của họ trên nền tảng khoa học đương thời, chủ yếu là những nghiên cứu sinh lý học của François J. V. Broussais (1772-1832) và những nghiên cứu về giải phẫu học của Xavier Bichat (1771-1802). Theo cách hiểu có phần giản lược của Alcott và Graham, lý thuyết về bệnh lý của Broussais nói chung gán mọi hình thức bệnh tật là do đường tiêu hóa bị kích thích quá độ, từ đó sinh ra chứng khó tiêu và viêm tấy toàn bộ cơ thể.

Trường phái ăn kiêng được hô hào như là một lối sống mang lại sức khỏe, hợp vệ sinh, và hợp tự nhiên, nhưng các nhà tìm kiếm sức khỏe cũng cần tìm một phương cách hợp vệ sinh, hợp tự nhiên để làm nhẹ đi những chứng bệnh cấp tính và mạn tính. Một hệ thống trị liệu được gọi là thủy liệu pháp, là phần dường như không thể tách rời những học thuyết về cải cách y tế do Alcott và Graham truyền bá. Khi thủy liệu pháp trở nên phổ biến tại Mỹ trong thập niên 1840, môn này sáp nhập nhiều yếu tố của môn sinh lý học kiểu Graham, trong đó nhấn mạnh đến không khí trong lành, ánh nắng, vận động, chế độ ăn và cải cách y phục. Các thầy thuốc thủy liệu pháp xây dựng các trung tâm điều trị chính thức và các cơ sở giáo dục để đào tạo những người chuyên môn, những người này hợp thành một nhóm mới gồm các thầy thuốc cạnh tranh với các thầy thuốc chính thống và những thầy thuốc không chính quy khác.

Thủy liệu pháp cũng bài bác một tín niệm lâu đời là nếu tắm quá mức hoặc ngâm mình trong nước lạnh cũng nguy hiểm như không khí ban đêm. Lấy ví dụ, Benjamin Franklin (1706-1790) kể cho bạn bè Mỹ của mình là ở London người ta rất chuộng cách tắm lạnh, coi đó như là thuốc bổ, nhưng ông nghĩ rằng phản ứng của cơ thể đối với tắm lạnh là quá mãnh liệt. Để chứng minh cho những nguy hiểm của tắm lạnh, Franklin tả cảnh 4 thanh niên muốn giải nhiệt cho cơ thể sau một ngày làm việc đầy oi bức bằng cách nhào xuống suối nước lạnh. Hai người chết tức khắc, người thứ ba chết ngày hôm sau và người thứ tư khó khăn lắm mới hồi phục. Để tránh những nguy hiểm khi ngâm trong nước lạnh, Franklin thích tắm không khí, tức là cởi hết quần áo, ngồi trong phòng chừng 30 phút mỗi buổi sáng. Mặt khác, Franklin cũng tin rằng bơi lội là “một trong những hình thức thể dục dễ chịu và mang lại sức khỏe nhất” trên đời. Vào cuối đời, do mắc nhiều bệnh, Franklin tìm cách chữa bệnh bằng cách tắm ấm trong một cái chậu tắm đặc biệt bằng đồng có hình chiếc dép đi trong nhà.

Vincent Priessnitz (1799-1851), một nông dân gốc Silesia (thuộc vùng Trung Âu), thường được coi là người có công phát hiện ra các phương pháp thủy liệu pháp cơ bản. Sau một tai nạn làm gãy sườn cùng với một số thương tổn khác, Priessnitz cho rằng mình đã phục hồi kỳ diệu là nhờ uống một lượng lớn nước lạnh, tiếp đến đem khăn ướt quấn chung quanh người. Người nông dân mưu trí này chứng minh rằng các phương pháp tương tự cũng chữa được bệnh cho gia súc (cách điều trị nằm trong lĩnh vực “gợi ý”). BS Joel Shew (1816-1855), một trong những người cổ súy đầu tiên của phong trào thủy trị liệu của Mỹ, nhấn mạnh rằng vận động và chế độ ăn chay nghiêm ngặt là những thành phần bổ sung cơ bản cho việc chữa bệnh bằng thủy liệu pháp. Chẳng bao lâu sau, Shew được Russell Trall (1812-1877), thay thế. Ông này là người tích cực trong phong trào sống điều độ trước khi khám phá những lợi ích đáng chú ý cho sức khỏe của Thủy Liệu pháp Vệ sinh. Vào năm 1849, Shew, Trall cùng với một số người khác thành lập Hội Thủy liệu pháp Mỹ, một năm sau đó hội này đổi tên thành Hội Thủy liệu pháp và Vệ sinh Mỹ. Trall cũng là một thành viên tích cực trong Hội Chống hút thuốc lá Mỹ và Hội Ăn chay Mỹ. Năng động và có tài hùng biện, Trall dốc sức vào việc thuyết trình, tranh luận và thách thức các thầy thuốc chính thống. Vào năm 1853, Trall thành lập Trường Vệ sinh liệu pháp New York để đào tạo người sử dụng cách điều trị bằng nước, chế độ ăn và các liệu pháp thể dục. Các thầy thủy liệu pháp không dùng thuốc và cho rằng thủy liệu pháp là một hệ thống điều trị tự nhiên, hiệu quả trong việc điều trị những bệnh cấp và mạn tính. Bộ Bách khoa Thủy liệu pháp của Trall có đưa ra lời khuyên cách chữa bệnh bằng nước, vận động, chế độ ăn và vệ sinh tình dục. Ông ta cũng xuất bản một quyển sách dạy nấu ăn theo thủy liệu pháp. Khi tạp chí Y học và Ăn chay Mỹ đình bản năm 1854, Trall đồng ý dành chỗ trong tạp chí Thủy liệu pháp (Water-Cure Journal) để đăng những bài do các hội viên của Hội Ăn chay viết. Người ăn chay không cần phải lo việc đi tìm các thực phẩm phù hợp khi điều trị tại spa thủy liệu pháp, bởi vì tại những nơi này đều có bán đầy đủ các thực phẩm có lợi cho sức khỏe “tinh khiết và phù hợp” như bột mì thô, cháo ngô, bột mì, bột yến mạch, bột mì kiểu Graham, và bánh xốp kiểu Graham. Các bệnh nhân khỏi bệnh đã đưa ra lời chứng nhận rằng thủy liệu pháp chữa cho họ khỏi những bệnh phức tạp như “nỗi kinh sợ chứng ăn không tiêu, những trầm uất vì thần kinh yếu đuối, những nỗi kinh hoàng vì não bị sung huyết”. Một số thầy thuốc chính thống, như Simon Baruch Ward (1840-1921) chẳng hạn, tin rằng thủy liệu pháp tạo ra những tác dụng sinh lý có lợi và phương pháp này có ích trong điều trị bệnh thương hàn và các bệnh sốt khác. Ward dạy môn thủy liệu pháp tại trường Cao đẳng Y tế Columbia từ năm 1907 đến 1913. Các spa thủy liệu pháp thường là nơi dưỡng bệnh cho những kẻ lắm tiền và rảnh rỗi, nhưng Ward cũng rất chú ý đến sự sạch sẽ và nhu cầu các nhà tắm công cộng cho người nghèo thành thị.

Nhiều thầy thuốc thủy liệu pháp và bệnh nhân là phụ nữ, những người tham gia tích cực trong các phong trào cải cách, họ chấp nhận ý tưởng cổ vũ của lối sống theo tinh thần thủy liệu pháp. Lấy ví dụ, Mary Gove Nichols (1810-1884), nổi danh là một nhà cải cách xã hội, người theo phái nữ quyền tiên phong, nhà tư tưởng không tưởng và cũng là một thầy thuốc y học thay thế. Bà đi thuyết trình và viết về đề tài sức khỏe phụ nữ, giải phẫu học, sinh lý học cũng như vấn đề bình đẳng trong hôn nhân, tình yêu không ràng buộc, sự quan trọng của hạnh phúc và những lợi ích của thủy liệu pháp. Người chồng thứ hai của bà, Thomas Low Nichols (1815-1901) là một bác sĩ, nhà báo và nhà cải cách xã hội. Mary và Thomas Nichols xuất bản nhiều sách, trong đó có Những bài giảng dành cho quý bà về Giải phẫu học và Sinh lý học; Những bài giảng về y học của vợ chồng Nichols kèm theo phụ lục về thủy liệu pháp: Cẩm nang Gia đình về Giữ gìn sức khỏe, và Điều trị Thủy liệu pháp tại nhà cho những bệnh đáng sợ nhất, và Hôn nhân: Lịch sử, Tính chất, và Kết quả.

Nhiều năm sau khi các cơ sở thủy liệu pháp không còn hoạt động với tư cách là các cơ sở điều trị đúng nghĩa tại Mỹ và Anh, thì các spa thủy liệu pháp vẫn tiếp tục phát triển tại các nơi khác trên thế giới. Các bệnh nhân người Đức và Ý có thể tận hưởng các spa trị liệu, khi họ biết rằng ít nhất một nửa chi phí sẽ do hệ thống bảo hiểm y tế quốc gia chi trả. Tại Pháp, các spa thủy liệu pháp giành được vị trí nổi bật trong cơ sở y tế và cách điều trị bằng nước suối nóng (thermalism) được đưa vào hệ thống bảo hiểm y tế quốc gia. Tại Pháp thế kỷ 19, Hàn lâm viện Y học có trách nhiệm giám sát về mặt quản trị và các nghiên cứu khoa học tại các spa suối khoáng. Các thầy thuốc danh tiếng và có nhiều ảnh hưởng đã ủng hộ việc đưa ngành thủy liệu pháp và ngành thủy học (hydrology) vào giáo trình các trường y của Pháp. Các bệnh nhân được gởi tới các spa ở Pháp sẽ được theo dõi về mặt y học khoảng 20 ngày. Tuy nhiên đến thập niên 1950, chính phủ Pháp cố cắt giảm chi phí hỗ trợ cho các spa suối khoáng và các bài giảng về môn thủy học trong trường y. Đa số khách của các spa hi vọng rằng cách chữa bệnh bằng nước suối nóng sẽ chữa hết những chứng bệnh đường tiêu hóa, hô hấp, ngoài da, tuần hoàn và thần kinh. Còn những người chỉ trích thì cho rằng đây chẳng qua là một dạng đi nghỉ mát được thanh toán, nếu không nói trắng ra là trò lang băm.

Một trong những dưỡng đường thủy trị liệu lớn nhất và nổi tiếng nhất tại Mỹ là cơ sở “Ngôi nhà của chúng ta trên lưng đồi” do BS Harriet Austin và James Caleb Jackson (1814-1895) lập ra tại Dansville, New York. Jackson xuất bản nhiều sách và tài liệu tuyên truyền có kèm lời khuyên thông thường về chế độ ăn, rượu, thuốc lá, vệ sinh, thủy liệu pháp, vận động, giải trí, giáo dục, và tình dục trong đó có quyển Cơ quan sinh dục và cách chăm sóc lành mạnh. Ngoài việc bán các thực phẩm sức khỏe kiểu Graham, Jackson còn thử chế ra một dạng bánh mì kiểu Graham để được lâu. Nhưng loại ngũ cốc dùng ngay để ăn sáng mà ông ta gọi là Granula, lại không được chú ý mấy cho đến khi được Ellen G. White (1827-1915) phát hiện và chấp nhận. Bà này là nhà lãnh đạo tinh thần và tiên tri của nhà thờ Phục lâm an thất nhật (Seventh Day Adventist Church), đã đến thăm “Nhà chúng ta” khi chồng bị liệt. Mặc dù White tin tưởng nhiều vào thủy trị liệu, nhưng Jame không hồi phục được. Ellen White cho đó là vì tại spa của Jackson thiếu một môi trường tôn giáo thích hợp. Vào ngày Giáng sinh năm 1865, qua một ảo cảnh thần linh, White thấy rằng nhà thờ Cơ Đốc Phục lâm của mình cần phải xây một chỗ nghỉ dưỡng và bệnh viện tại Battle Creek, Michigan.

Ảnh hưởng nặng nề của Cuộc Nội chiến đã che mờ đi nhiều khía cạnh của phong trào cải cách y tế, giảm bớt sự quan tâm và cắt giảm nguồn lực, góp phần làm biến mất nhiều cơ sở vệ sinh, spa, trường học và dưỡng đường. Nhưng qua câu chuyện của Ellen White và BS John Harvey Kellogg (1852-1943) cho thấy, các nhà lãnh đạo và các tổ chức mới vẫn duy trì và giải thích theo một cách khác các lý tưởng nền tảng của các phong trào sức khỏe buổi ban đầu, đó là sự khỏe mạnh, ngăn ngừa bệnh tật và lối sống đúng đắn.

Trong lúc Graham và Alcott nhấn mạnh đến khoa học về mặt sinh lý để củng cố các lý thuyết của họ về lối sống khỏe mạnh, thì Ellen White, một nhà tiên tri về y tế của nhà thờ Cơ Đốc Phục lâm, đã báo cho các tín đồ là bà đã nhận được các thông điệp từ Đấng Sáng Thế các quy luật về vệ sinh. Lúc đầu, các ảo cảnh mà White nhận được đề cập đến các chủ đề thần học, nhưng sau năm 1848, là các vấn đề liên quan đến thực phẩm, đồ uống, quần áo và các khía cạnh thực tiễn liên quan nhiều đến lối sống khỏe mạnh. Năm 1863, White nhận được một ảo cảnh về sự liên quan giữa sức khỏe của cơ thể và tâm linh, tầm quan trọng của chế độ ăn ăn chay, và những lợi ích của các món thuốc tự nhiên- không khí trong lành, ánh nắng, vận động và nước tinh khiết. Để phù hợp với ảo cảnh của White, nhà thờ Phục lâm tung ra một chương trình giáo dục sức khỏe khi xuất bản 6 tài liệu nhan đề Sức khỏe hoặc Sống như thế nào. Nguyên tắc cơ bản cho rằng cuộc sống hợp vệ sinh là một nhiệm vụ tôn giáo được đưa vào học thuyết của Nhà Thờ Phục lâm. Tuy nhiên những người chống Ellen White lại cho rằng những mặc khải của bà không có chút gì độc đáo và còn bóng gió cho rằng chính chấn thương ở đầu xảy ra khi bà này còn trẻ mới là nguyên nhân gây nên các ảo giác chứ chẳng phải các ảo cảnh thần thánh gì cả.

Để đáp lại cái ảo cảnh đã thấy được sau khi thăm nơi nghỉ dưỡng thủy liệu pháp của Jackson, White lập nên một spa sức khỏe và bệnh viện để cho các tín đồ phái Phục lâm có thể hưởng được những phương pháp điều trị tự nhiên trong một môi trường tôn giáo thích hợp. Viện Cải cách sức khỏe của nhà thờ Phục lâm tại Battle Creek, Michigan mở cửa vào năm 1866, và cung cấp các phương pháp tự nhiên dành cho sức khỏe và chữa bệnh thông qua một chế độ ăn chay, thủy liệu pháp, vận động, ánh sáng, khí trời trong lành và kiến thức về “cách sống đúng đắn”. Nhận thấy rằng Viện cần có sự lãnh đạo nghiêm túc về mặt y học, năm 1876, White bổ nhiệm người mình đỡ đầu là John Harvey Kellogg vào vị trí Bác sĩ trưởng. Chính Kellogg là người làm thay đổi cái Viện đang chật vật trở thành Dưỡng đường Battle Creek khá thành công.

Năm 1905, White xuất bản cuốn Công cụ Chữa bệnh, quyển sách này tóm tắt và làm rõ những điều mà bà giảng về việc chữa trị cho thân xác, tinh thần và linh hồn. Theo White, con người sở dĩ bị bệnh vì đã vi phạm các quy luật do Chúa đặt ra nhằm chi phối sức khỏe và cuộc sống; con người quên rằng ăn uống không đúng cách và sự phóng túng mới là các tội lỗi gây nên bệnh tật. Mặc dù White viện dẫn đến các chỉ thị liên quan đến sức khỏe và chữa bệnh trong Kinh Thánh, nhưng bà ta cũng đưa ra các chỉ dẫn khá chi tiết liên quan đến những lời khuyên của Alcott, Graham, và những nhà cải cách y tế khác. “Nền văn minh giả tạo” hiện đại bị coi là nguồn gốc của các tục lệ, mốt thời thượng, sự vô độ, tội ác, và các lạc thú đã góp phần làm tụt dốc sự cường tráng và dẻo dai thể chất đến mức báo động và tràn lan. Nền văn minh giả tạo, hình thành từ công cuộc công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng, bị lên án là nguồn gốc gây ô nhiễm, bẩn thỉu, đông đúc, thối nát, sự đồi bại, sự suy nhược và bệnh tật.

Tuy nhiên, sức khỏe có thể phục hồi bằng các phương thuốc tự nhiên, chẳng hạn như không khí trong lành, ánh nắng, sự nghỉ ngơi, vận động, chế độ ăn đúng đắn, nước tinh khiết và sự tin cậy vào quyền lực thần thánh. Do việc phục hồi sức khỏe bằng các phương pháp tự nhiên đòi hỏi phải có thời gian và kiên nhẫn, cho nên nhiều người quay sang sử dụng các thứ thuốc có tác dụng mạnh và các biệt dược, mà không hề biết rằng những chế phẩm như thế có chứa chất độc và các thứ thuốc kích thích gây nghiện. Hơn thế nữa, mặc dù những thứ thuốc này dường như có làm giảm bệnh tạm thời, nhưng lại không hề chữa lành bệnh. Các thứ biệt dược (patent medicines), những thứ thuốc được phép bán không cần toa, vốn rất phổ biến và được sử dụng rộng rãi trong thế kỷ 19. Các nhà sản xuất và người bán lẻ quảng cáo rầm rộ, cho rằng các sản phẩm của họ có thể chữa hầu hết các thứ rối loạn của đàn ông và đàn bà, từ chứng bất lực, hói đầu và những bệnh phụ nữ cho đến ung thư, chảy mũi nước, bệnh lao và viêm khớp. Những thứ biệt dược khá rẻ tiền so với thuốc bán theo đơn, nhưng lại không nhất thiết là vô hại. Phần lớn đều giữ kín công thức bào chế và nhà nước hầu như không hề kiểm soát gì cả, nhưng các thứ thuốc viên thuốc nước thông dụng có thể chứa cocaine, morphine, cồn, hoặc những thứ gây nghiện khác. Theo đạo luật Thuốc và thực phẩm tinh khiết năm 1906, khó có thể làm gì nhiều để chỉnh đốn việc đưa ra thị trường các loại biệt dược. Thực vậy, phần lớn các tạp chí y học, trong đó có tờ JAMA, đều sống nhờ quảng cáo của những thứ thuốc trị bá bệnh như thế và nhiều bác sĩ cũng kê đơn những thuốc đó.

Giống như các nhà cải cách y tế trước đó, White nhấn mạnh rằng ngừa bệnh tốt hơn chữa bệnh. Vì vậy, mọi người nên biết và tuân theo các quy luật của sự sống, nghiên cứu giải phẫu học và sinh lý học con người, và hiểu rõ “ảnh hưởng của tinh thần trên thể xác, và của thể xác đối với tinh thần, và quy luật chi phối những thứ này”. Lấy ví dụ, làm việc trí óc nhiều quá sẽ làm cho cơ thể suy yếu và cần phải nghỉ ngơi bù đắp và vận động để giúp cho thân thể và tinh thần thêm dẻo dai. Bà White cho rằng, những thứ bệnh tật do sự suy sụp tinh thần, lo lắng, cảm giác phạm tội và những xúc cảm khác “làm tan vỡ các lực sống”, có thể chữa lành khi tiếp xúc với tự nhiên bởi vì Tạo hóa đã cho Adam và Eva sống trong một khu vườn, là một chỗ thích hợp nhất cho sức khỏe và hạnh phúc con người.

Những chiến dịch về cải cách y phục, giáo dục thể chất cho phụ nữ, tắm rửa thường xuyên, thường bị chế giễu và thông tục hóa, nhưng White gắn kết tất cả các nguyên nhân đó thành một thông điệp y tế. Vận động làm tăng sức khỏe và mau lành bệnh bởi vì nó giúp cho máu lưu thông tốt hơn và đưa khí trời trong sạch vào phổi. Cải cách y phục cần thiết cho sức khỏe bởi vì những thứ quần áo lắm dây cột buộc sẽ làm cản trở máu lưu thông và hoạt động của hai lá phổi, còn sức nặng của những thứ váy dài sẽ ép các cơ quan trong bụng và hai lá phổi. Giữ gìn sạch sẽ nhà ở, cơ thể, quần áo, và năng tắm gội đều cần thiết cho sức khỏe thể chất và tinh thần. Ở bẩn sẽ tạo điều kiện cho vi trùng sinh sôi, làm nhiễm độc không khí và dẫn tới bệnh tật cũng như tử vong. Vì thế, những thứ váy thời thượng dài quét đất đều không sạch sẽ, không thoái mái, không tiện lợi, và không tốt cho sức khỏe, và đồng thời cũng hoang phí nữa.

Nếu White nhất trí rằng đồ ăn và thức uống là nguyên nhân gây ra bệnh tật và khổ ải, thì những lời khuyên về chế độ ăn uống của bà ta là dựa trên Kinh Thánh chứ không phải trên cơ sở khoa học về sinh lý học. Do Chúa lúc đầu bảo Adam được phép lấy rau quả trong Vườn Địa đàng để làm thức ăn, thành ra con người nên chọn một chế độ ăn bao gồm hạt cốc, trái cây, quả hạch và rau cải. Sau Đại hồng thủy, khi mọi thứ màu xanh trên mặt đất bị hủy diệt, con người mới được phép ăn thịt tươi, nhưng điều này cũng chỉ là biện pháp ngắn hạn, giải quyết khẩn cấp.

Thay thế cho thịt là quả hạch và những thực phẩm từ quả hạch.

White ghi nhận, sự khôn ngoan trong Kinh Thánh là phù hợp với nghiên cứu khoa học chứng minh rằng trong mô của các động vật thuần hóa lúc nhúc những thứ ký sinh trùng, trong đó có vi trùng gây bệnh lao, ung thư và những thứ bệnh gây chết người khác. Giống như Graham, White không dùng bột mì trắng xay kỹ, nhưng bà ta cũng khuyên nên nướng bánh bột mì kỹ lưỡng để giết các mầm nấm mốc. Bà ta nhấn mạnh rằng nên tiệt trùng sữa hoàn toàn để tránh mắc phải bệnh, nhưng lại cho rằng phó-mát “hoàn toàn không phù hợp để làm thực phẩm”. Các tín đồ của Nhà Thờ Chúa Cứu thế các vị thánh ngày sau (Church of Jesus Christ of Latter-day Saints) cũng theo sát các lời dạy về cách giữ gìn sức khỏe vì những lời dạy này là được hứng truyền từ đấng thánh linh. Nhiều thứ tương tự trong những điều cấm về chế độ ăn được đưa vào truyền thống đạo Mormon. Sự tuân thủ vào “những lời dạy khôn ngoan” ghi rõ trong bộ quy tắc về sức khỏe của đạo Mormon được coi như là có tác dụng làm giảm tỷ lệ tử vong ung thư và bệnh tim mạch trong tín đồ Mormon.

Giống như Ellen White, Mary Baker Eddy (1821-1910) trở thành người mưu cầu sức khỏe sau những vật lộn với đau đớn và bệnh tật khi còn trẻ. Nhưng thông điệp sức khỏe mà Eddy đưa ra với tư cách là nhà sáng lập, và lãnh đạo của Khoa học, Nhà Thờ của Chúa, thường được gọi là Khoa học Cơ Đốc (Christian Science), lại rất khác với lời khuyên rất mực thực tiễn của White. Eddy đã trải qua nhiều loại điều trị, từ kiểu Graham đến đồng căn liệu pháp, nhưng không có thứ nào hiệu quả lâu dài và đáng kể cho tới năm 1866 khi bà này tìm ta một học thuyết tôn giáo mà bà tin rằng sẽ cải cách toàn bộ và làm một cuộc cách mạng trong ngành y. Lúc đầu, bà công bố một báo cáo về “Chân lý chữa bệnh” trong tờ Khoa học Siêu hình dưới dạng một tài liệu nhỏ nhan đề Khoa học của Con người, nhờ đó mà Người Bệnh được chữa khỏi (1890). Năm năm sau bà ta cho xuất bản ấn bản đầu tiên của bộ Khoa học và Sức khỏe kèm theo hướng dẫn đọc Thánh kinh. Đến năm 1900, phong trào Khoa học Cơ Đốc đã lan rộng khắp nước Mỹ với khoảng 500 giáo đoàn được thành lập.

Chìa khóa để mở Khoa học Siêu hình hoặc Đạo đức của Eddy là quan niệm nền tảng cho rằng “mọi thứ đều là tinh thần và không có thứ gì là vật chất cả”. Theo những lời dạy của Eddy, phương thuốc chữa bệnh là chấp nhận “cái Chân lý vĩ đại là... bệnh tật không hề có thật.” Do vật chất là “một phương thức giả tạo của sự nhận biết,” cho nên bệnh, cái xấu, và cái chết đều là những sự giải thích sai lệch của cái thực tại được tạo ra từ những đầu óc nhân sinh dễ lầm lạc của chúng ta mà thôi. Khi con người không vượt qua được cái khuynh hướng tin vào vật chất, họ nhầm tưởng rằng họ sẽ dễ mắc phải bệnh tật, cái xấu và cái chết. Khi mỗi ngày đều đem hòa trộn tư tưởng của mình với những nguyên tắc Khoa học Cơ Đốc, thì tín đồ sẽ đưa tâm hồn của mình ra khỏi những sai lầm đó.

Những người mưu cầu sức khỏe có thể không toàn tâm toàn ý tán thành môn siêu hình học của Eddy, nhưng nhiều người lại trở thành các tín đồ nhiệt thành sau khi tìm được sự cứu rỗi tinh tâm linh và thể chất qua cách chữa trị Khoa học Cơ Đốc. Eddy thành lập trường Siêu hình Massachusetts tại Boston năm 1881, và nhiều học viên tốt nghiệp tìm được một nghề hái ra tiền khi làm thầy thuốc Khoa học Cơ Đốc toàn thời gian. Mặc dù các nhà Khoa học Cơ Đốc đòi cơ quan bảo hiểm thanh toán cho các thầy thuốc của mình, họ vận động tích cực để cho các thành viên của nhà thờ không phải theo các quy định về y tế chẳng hạn như tiêm chủng đậu mùa bắt buộc dành cho học sinh. Một số thành viên của nhà thờ bị kết án là ngộ sát hoặc gây nguy hại cho trẻ em vì không chịu đưa trẻ bị ốm đi điều trị theo quy cách thông thường.

Khoa học Cơ Đốc có thể coi như là một ví dụ đặc biệt nổi bật về mối quan hệ giả định giữa các học thuyết tôn giáo và sức khỏe con người. Tuy nhiên các tín đồ của Khoa học Cơ Đốc cho rằng việc hành nghề của họ hoàn toàn khác với cách “chữa bệnh bằng đức tin” trong truyền thống Tin lành và Thiên Chúa giáo. Quy trình chữa bệnh của Khoa học Cơ Đốc hoàn toàn loại bỏ các khoản cầu khẩn thánh thần và các hành động mang tính biểu tượng cũng triệt để như việc cấm không được sử dụng thuốc men và phẫu thuật. Tuy thế, thành công của Khoa học Cơ Đốc đã kích thích các nhà thờ khác thành lập các giáo đoàn đề cao cách trị liệu tôn giáo. Sự thành công của các thông điệp sức khỏe do Ellen White và Mary Baker Eddy truyền đạt có thể coi như là một sự phục sinh vai trò chữa bệnh do các tu sĩ thời thuộc địa tại Mỹ đảm đương. Khoa học Cơ Đốc và phong trào Phục lâm an thất nhật đưa ra những quan điểm về sức khỏe và cách chữa bệnh phù hợp với nội dung tìm kiếm sức khỏe tâm linh và thể chất.

John Harvey Kellogg lớn lên trong một gia đình mộ đạo của nhà thờ Phục lâm, nhìn nhận những điều khoản về “lối sống mạnh khỏe” do nhà thờ cổ súy. Là một đứa trẻ vốn ốm yếu, nhưng đến 14 tuổi, nhờ đọc được quyển sách của Graham và ông ta trở thành một người ăn chay nhiệt thành. Dưới sự dìu dắt của Ellen White, Kellogg học tại trường Trị liệu Vệ sinh của Russell Trall trước khi lấy được bằng y khoa tại trường y Bellevue, New York. Không giống như nhiều nhà cải cách y tế ăn chay khác, Kellogg có nhiều bằng cấp về nội khoa và ngoại khoa chính quy. Mặc dù rất nhiệt tình với cách chữa trị tự nhiên và lên án các thứ thuốc quy ước, nhưng Kellogg đồng thời là một bác sĩ phẫu thuật khéo léo và có nhiều sáng tạo, đặc biệt là phẫu thuật bụng, là một thành viên của Hội Phẫu thuật viên Mỹ và Hiệp hội Y khoa Mỹ. Trong suốt thời gian hành nghề, ông ta đã mổ hơn 20.000 ca phẫu thuật và xuất bản gần 50 quyển sách, bao gồm Con người là tuyệt phẩm, Cẩm nang dành cho Vệ sinh và Y học hợp lý của gia đình, trong đó chủ yếu đề cập đến lý thuyết của ông ta về “sinh vật sống” và “Tư tưởng tại Battle Creek” - tức là sức khỏe và sung mãn là kết quả của chế độ ăn tốt, vận động, giữ đúng cách tư thế, không khí trong lành và nghỉ ngơi đúng cách. Mặc dù chết vì viêm phổi khi suýt soát 100 tuổi, người cùng thời cho rằng ở tuổi 91 ông vẫn còn là biểu tượng tuyệt vời của việc ăn uống đơn giản và lối sống lành mạnh.

Kellogg xem Dưỡng đường Battle Creek, gọi thân mật là San, là một “trường Đại học Sức khỏe” của như là một bệnh viện và chỗ nghỉ dưỡng dành cho người danh tiếng và giàu có. John D. Rockefeller, Jr., Henry Ford, J. C. Penny, Montgomery Ward, S. S. Kresge, Richard Byrd, Thomas Edison, Harvey Firestone, Sarah Bernhardt, Amelia Earhart, và Tổng thống William Howard Taft nằm trong số ba trăm ngàn bệnh nhân đến San để tìm kiếm sự sung mãn. Kellogg sử dụng San để đào tạo bác sĩ, điều dưỡng, chuyên viên vật lý trị liệu, dinh dưỡng và các nhà thuyết giảng y học. Sau một trận cháy tiêu hủy tòa nhà cũ năm 1902, một cơ sở mới được xây dựng có sức chứa 7.000 khách một năm. Khủng hoảng tài chính năm 1929 đã ảnh hưởng nặng nề đến San và sau đó Kellogg bán đi tòa nhà chính. Trong thập niên 1940, tòa nhà Dưỡng đường cũ được chuyển đổi thành Bệnh viện Đa khoa và An dưỡng Percy Jones, là một bệnh viện chỉnh hình trong đệ nhị thế chiến và chiến tranh Triều Tiên.

Mặc dù nổi danh là người cải cách y tế và ủng hộ việc ăn chay, cả đời Kellogg tham gia phong trào chủ trương điều độ trong tình dục. Thật vậy, một số người chống đối Kellogg cho rằng ông này phản đối mọi hình thức tình dục; một số người khác thậm chí còn cho biết Kellogg cảm thấy thỏa mãn với việc thụt rửa ruột hàng ngày nhiều hơn là các hoạt động tình dục thông thường. Trong các bài viết về cách điều trị “tự hành hạ lấy mình”, Kellogg đưa ra các phương pháp trừng phạt quá đáng, chẳng hạn như cắt bao quy đầu cho trẻ nam (mà không có thuốc tê). Kellogg giải thích cái đau khi mổ sẽ “tạo ra một tác dụng có lợi cho trí óc”. Đối với phái nữ, những người có thể trải qua “sự phấn kích bất thường”, Kellogg khuyến cáo nên bôi acid carbolic (phenol) lên âm vật. (Acid carbolic được sử dụng làm chất khử trùng và sát trùng khi được pha loãng. Phenol nguyên chất có tính ăn da rất mạnh).

Là người cổ vũ ăn chay, Kellogg thách thức cử tọa: “Làm sao mà bạn có thể ăn được những thứ gì có mắt nhìn?”. Ngoài những lập luận cũ được đưa ra để biện hộ cho việc ăn chay, Kellogg làm cho các khách đến thăm San sững sờ ghê sợ khi thấy những con vi trùng và sự bẩn thỉu khi nhìn dưới kính hiển vi những mẫu thịt do lò mổ cung cấp và Kellogg cũng cảnh báo về các hậu quả đáng sợ của việc con người tự gây độc khi hấp thu những thứ trên qua đường ruột. Lý thuyết này khá giống với quan niệm về sự sinh dưỡng chính thống (orthobiosis) của Elie Metchnikoff (1845-1916), trong đó cho rằng sức khỏe và sự sống lâu của con người có liên quan với các cơ quan tiêu hóa. Theo Metchnikoff, lũ vi sinh vật trong ruột già gây ra sự lên men và thối rữa có hại. Thích thú trước khả năng có thể đảo ngược tiến trình lão hóa, Metchnikoff cho rằng nên làm sạch ruột già với một chế độ ăn hợp vệ sinh để trung hòa các tác dụng có hại của vi khuẩn nằm trong cơ quan vô dụng và bội bạc này. Thất vọng với bằng chứng việc xổ ruột và thụt tháo sẽ gây hại cho ruột nhiều hơn là cho hệ vi sinh vật có hại trong ruột, Metchnikoff khuyên nên ăn nhiều sữa chua (yogurt) mới làm để đưa vào hệ thống tiêu hóa những thứ men có lợi.

Cả Kellogg lẫn Metchnikoff đều bị ám ảnh bởi mối đe dọa tự hấp thu độc tố (auto-intoxication), nhưng Kellogg tin rằng ruột già giữ vai trò chính để có sức khỏe tốt. Để không bị nguy cơ chậm tiêu, ký sinh trùng đường ruột, chế độ ăn ít khối lượng, ruột bị gấp khúc, táo bón và tự hấp thu độc tố, Kellogg khuyên nên theo một chế độ ăn giàu chất xơ, mỗi bữa ăn đều có chất cám, dùng dầu paraffin để làm trơn ruột và thụt tháo hàng ngày. Để giữ được vệ sinh bên trong ruột, người bệnh phải ngốn bột cám ngũ cốc và trộn với thuốc xổ, các thứ thảo dược làm sạch ruột, thụt tháo và bơm nước vào ruột già để rửa ruột. Mối sợ hãi về sự bẩn thỉu và thối rữa bên trong ruột, theo cả hai nghĩa thực tế và tượng trưng, có thể truy nguyên đến thời các pharaoh Ai Cập, nhưng Kellogg và những nhà cải cách y tế khác đã thực hiện cái lý thuyết xa xưa với một sự nhiệt thành không có tiền lệ. Mối quan tâm đến vệ sinh bên trong trùng hợp với những mối quan tâm ngày càng lớn về sự bẩn thỉu, ô nhiễm đô thị và bụi bặm là nguyên nhân gây ra bệnh dịch nhiều người mắc. Nhiều nhà cải cách y tế và phê bình xã hội đều nhất trí táo bón là do những áp lực không tự nhiên kết hợp với lối sống hiện đại tại các thành phố đông đúc, công nghiệp hóa. Để giải quyết các vấn đề ở ruột, nhiều người nhờ đến các thứ biệt dược, thuốc xổ, nước khoáng, cám ngũ cốc, sữa chua, điện liệu pháp (electrotherapy), thể dục mềm dẻo (calisthenics), tập thể dục bụng, thụt tháo, bơm rửa ruột, các dụng cụ nong trực tràng, hoặc thậm chí làm phẫu thuật để cắt đi những đoạn ruột gấp khúc.

Để giúp cho các môn đệ từ bỏ ăn thịt, Kellogg đưa ra các loại thực phẩm mới làm từ hạt cốc và quả hạch. Kellogg có hơn 30 bằng sáng chế các sản phẩm và quy trình thực phẩm, chủ yếu là các thực phẩm có lợi cho sức khỏe và những thứ thay thế cho trà và cà-phê, cũng như thể dục, và các thứ máy móc chẩn đoán và điều trị. Ông cũng được coi là người có công đưa ra nhiều loại sản phẩm như bơ đậu phộng, ống hít mũi chứa bạc hà, con ngựa cơ học và mền điện. Các ý tưởng của ông về thực phẩm có lợi cho sức khỏe đã đưa tới sự thành hình trên 40 công ty ngũ cốc cạnh tranh với công ty do chính Kellogg và người em, William Keith Kellogg (18601951) lập ra. Khác với người anh, W. K. Kellogg không được học hành chu đáo, chỉ học tới lớp 6 rồi đến làm việc tại San với vai trò thư ký, nhân viên kế toán, quản lý và phụ tá trong việc tìm kiếm các thực phẩm dành cho sức khỏe. Một trong những phát kiến đem lại lợi nhuận của ông là cách làm ngũ cốc dưới dạng bông (flakes) khác với dạng hạt nhỏ thông thường. Các nhà kinh doanh nhanh chóng bắt chước quy trình Kellogg và chẳng bao lâu trên 40 công ty thực phẩm bắt đầu bán các loại ngũ cốc ăn liền. Một trong những người thành công nhất trong lĩnh vực này là Charles William Post (1855-1914) năm 1895. Bị bệnh loét dạ dày và một số bệnh khác dày vò, Post tìm đến San vì bị lôi cuốn bởi thuyết ăn chay và cũng vì nhà thờ Phục lâm cấm những chất kích thích như cà-phê. Hy vọng tìm ra một con đường mới dẫn đến sức khỏe sau khi các phương pháp của Kellogg không chữa được bệnh của mình, Post gia nhập vào phái Khoa học Cơ Đốc. Tin rằng cà-phê là một chất kích thích nguy hiểm, Post đưa ra một thứ thay thế mới làm bằng bột mì, mật đường và cám mà ông ta gọi là Postum. Post đã tiếp thị thành công sản phẩm này. Ông cũng đưa ra những thứ như Grape Nuts và Post Toasties. Rủi thay, mặc dù Post tạo được một tài sản lớn từ các thực phẩm có lợi cho sức khỏe, nhưng thuyết ăn chay cũng như Khoa học Cơ Đốc đều không chữa được những chứng bệnh của ông về thể xác cũng như tinh thần; Post trở nên trầm uất vì bệnh tật và tự tử ở tuổi 59.

Các nhà cải cách chế độ ăn đưa ra nhiều chế độ ăn kỳ quái đủ các kiểu, nhưng Horace Fletcher (1849-1919), mới là người dạy họ cách ăn thực sự như thế nào. Fletcher còn được gọi là “Người Nhai vĩ đại”, là tác giả những quyển Menticulture (Giáo dục trí tuệ), hoặc ABC của cuộc sống thực sự, Người tham ăn mới hoặc Epicure, quyển ABZ về Sự Dinh dưỡng của chính chúng ta, và Lạc quan. Vào tuổi 40, chàng Fletcher, trước đây là một lực sĩ lực lưỡng, bổng thấy mình bị hành hạ vì chứng khó tiêu, mệt mỏi, béo phì và thường xuyên mắc bệnh cúm. Với quyết tâm lấy lại sức khỏe, Fletcher quay sang nghiên cứu về vệ sinh và chuyển sang một sự nghiệp mới là cải cách y tế. Từ những thí nghiệm trên chính bản thân mình, Fletcher phát hiện việc nhai kỹ mỗi miếng thức ăn sẽ giúp cho cơ thể tiêu hóa toàn vẹn, giảm cân, thêm khỏe, dẻo dai và sức khỏe tốt. Dĩ nhiên, Fletcher không phải là người đầu tiên chú ý đến thói quen ăn quá nhanh của người Mỹ. Trong quyển Những bài giảng về Sự sống và Sức khỏe, William Alcott đã chế giễu thói quen xấu này và Sylvester Graham, Ellen White, cùng các nhà cải cách y tế khác cũng đã khuyến khích nên ăn chậm. Ngoài việc cổ súy cho phong trào Fletcher, còn gọi là giáo phái “nhai-nhai”, Fletcher còn viết bài và diễn thuyết về tầm quan trọng của Giáo dục trí tuệ, một hệ thống suy nghĩ tích cực để cho ra Sự Lạc quan

Sinh lý, sung sức và không bị cạn kiệt thần kinh và suy nhược thần kinh.

Vào cuối thế kỷ 19, chủ nghĩa duy tâm của phong trào cải cách y tế càng ngày càng phụ thuộc vào đầu óc kinh doanh của những con người như Bernarr Macfadden (1868-1955), người tự xưng là Giáo sư môn Liệu pháp vận động (Kinesitherapy) và Cha đẻ của môn Giáo dục thể chất (Physical Culture). Theo Macfadden, giáo dục thể chất sẽ làm cho con người khỏe hơn, tốt hơn. Thật vậy, trong tạp chí Giáo dục thể chất của mình có câu châm ngôn “Yếu đuối là một tội ác”. Ngược với những gì mà Alcott, Graham, và Kellogg nói về việc kiềm chế tình dục, những bài viết của Macfadden, kể cả bộ Bách khoa thư về Giáo dục thể chất, 5 quyển, đều nêu cao nam tính và tình dục lành mạnh. Lời khuyên về sức khỏe của ông xuất hiện trong những quyển sách như Xây dựng Sức sống, Thở sâu và Toàn bộ hệ thống tăng cường sức khỏe cho tim, phổi, dạ dày và tất cả các cơ quan sống quan trọng, Táo bón, nguyên nhân, Hệ quả và Điều trị, Nhịn ăn để có Sức khỏe, Cẩm nang Sức khỏe dành cho gia đình, và Những sức mạnh cường tráng của Giới đàn ông tuyệt vời (The Virile Powers of Superb Manhood).

Làm việc không biết mệt, MacFadden cũng xuất bản phim, tiểu thuyết tình cảm và các tạp chí trinh thám trong đó có Truyện thật, Những lời thú tội thật, truyện trinh thám thật và báo chí, và bảo trợ cho các cuộc tranh tài tuyển chọn người đàn ông hoàn hảo quốc tế. Charles Atlas (Angelo Siciliano, 1892-1972), trước đó là một anh chàng ốm yếu, cân nặng 44kg, nói rằng anh đã tự làm biến đổi mình bằng những bài tập “kéo căng động lực” (dynamic tension) tự sáng chế sau khi nhìn một con sư tử trong chuồng. Năm 1927, công ty Charles Atlas, Ltd. là một doanh nghiệp kiếm được rất nhiều tiền nhờ bán những bài giảng giáo dục thể chất qua đường bưu điện.