← Quay lại trang sách

Y HỌC GIA ĐÌNH (DOMESTIC MEDICINE)

Phần lớn các gia đình thời Mỹ thuộc địa dựa vào nguồn lực tự túc hoặc các thầy chữa bệnh tại chỗ và thầy thuốc thảo dược hơn là các bác sĩ chuyên nghiệp. Thuốc men kiểu gia đình được ưa chuộng hơn là thuốc nhập từ nơi khác, hoặc do không có sẵn hoặc đắt tiền. Những người không muốn gặp bác sĩ, hoặc không có điều kiện gặp thầy thuốc, thì trông cậy vào các thứ thuốc truyền thống, các thứ thảo dược phổ biến, và những quyển sách tự xoay sở để tìm các thông tin làm cách nào duy trì sức khỏe và xử trí bệnh tật và các thương tổn. Lấy ví dụ, quyển Mỗi người là bác sĩ cho mình: hoặc Thầy thuốc cho nhà nông nghèo (1734) do John Tennent (ca. 17001760) viết nhưng dấu tên. Tennent vốn là một bác sĩ tại Virginia từng tố cáo các bác sĩ khác lấy tiền công quá cao và kê đơn những thứ thuốc cũng tệ hại như bệnh tật. Mặc dù bị các đồng nghiệp công kích, ông ta tư vấn, không phải cho những người có đủ tiền để mua “lời khuyên nhủ cao xa” mà cho người nghèo, những người cần tìm “cách dễ dàng nhất và rẻ nhất” để được khỏe mạnh trở lại. Ông ta cảnh báo rằng, đầm lầy vùng Virginia là nơi sản sinh ra nhiều thứ sốt, ho, viêm họng, tràn dịch màng phổi, lao và các bệnh dịch khác. Ngoài việc mô tả các triệu chứng của từng bệnh, Tennent cho lời khuyên về chế độ ăn, cách dự phòng, và thuốc điều trị. Một số đề xuất ngăn ngừa viêm họng và những thứ bệnh tương tự cũng khá đơn giản như rửa gáy và vùng sau tai bằng nước lạnh mỗi buổi sáng, nhưng một số bệnh khác lại cần trích máu, gây rộp, bôi thuốc cao, uống si-rô hoa đào, hoặc cả các thứ thuốc viên làm từ nhựa thông và “phân con nai”. Do quyển sách được viết dành cho những người không đủ tiền “để chết dưới bàn tay của một bác sĩ”, cho nên Tennent cố ý tránh không đề cập đến thủy ngân, nha phiến và vỏ cây xứ Peru.

Nhiều quyển sách dành lời khuyên cho các bà mẹ về sức khỏe của gia đình và sự phát triển thể chất và tinh thần của con cái. Catharine Beecher (1800-1878), người sáng lập trường tư thục Hartford Female Seminary, cổ súy thể dục và cải cách y phục dựa trên khoa học về sinh lý học. Giáo trình tại trường này có môn thể dục mềm dẻo và giáo dục thể chất. Trong quyển Những đề xuất liên quan đến các tiến bộ trong Giáo dục (1829), Beecher nhấn mạnh rằng sức khỏe và sự an lạc của trẻ em phụ thuộc vào việc dạy cho phụ nữ biết về giải phẫu học và sinh lý học để họ hiểu được cách mà chế độ ăn, không khí, vận động và các kiểu ăn mặc sẽ ảnh hưởng như thế nào đến cơ thể và tạo nên sức khỏe tốt. Beecher giải thích “phục hồi sức khỏe là nghề chuyên môn của thầy thuốc”, nhưng gìn giữ sức khỏe cho trẻ em là trách nhiệm chính của phụ nữ.

Đến cuối thế kỷ 20, các cơ sở dịch vụ y tế và các tổ chức nghề nghiệp uy tín đã đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên về sách chỉ dẫn y học gia đình. Những tài liệu kiểu này gồm có Sách hướng dẫn y học gia đình của Hiệp Hội Y khoa Mỹ, Sách Y tế Gia đình của Mayo Clinic, sách Y tế Gia đình của trường John Hopkins, sách Hướng dẫn Y tế Gia đình của trường Y khoa Harvard, Trọn bộ sách hướng dẫn y học gia đình của Hội Thầy thuốc Mỹ, và Cẩm nang Thông tin Y tế Merk: bản dành cho gia đình. Khác với tài liệu tuyên truyền chỉ vỏn vẹn 70 trang của Tennent, những quyển sách hướng dẫn hiện nay về y học gia đình có thể dày đến 2.000 trang tư vấn về các thứ bệnh cấp và mạn tính, các thứ thuốc, y học thay thế, thảo dược, các thuốc thực dưỡng, những bệnh chưa rõ nguồn gốc, cái chết và hấp hối, dinh dưỡng và nhiều chế độ làm giảm cân được nhiều người áp dụng.

Người Mỹ thuộc thế kỷ 18 tích cực tham gia vào mọi khía cạnh của việc thực hành y học, dự phòng, chẩn đoán và điều trị. Khi Cuộc nội chiến mở màn, ảnh hưởng của các chuyên gia y tế, dù là chính thống hay không chính quy, đối với việc xử lý bệnh tật lại tăng lên. Tức là, các thầy thuốc cho rằng mình có đặc quyền và sự thành thạo chuyên môn trong việc chữa trị bệnh tật và cảnh báo các bệnh nhân và người chăm sóc phải lắng nghe ý kiến của các nhà chuyên môn. Nhiều bác sĩ chính thống tin rằng khi phổ biến rộng rãi các thông tin về chẩn đoán và điều trị bệnh sẽ làm tăng số lượng và ảnh hưởng của các đối thủ cạnh tranh, như những người theo phái Thomson, cải cách y tế, đồng căn liệu pháp và thủy liệu pháp. Khi viết các tài liệu y tế cho người thường, các bác sĩ chính quy đưa ra lời hướng dẫn chung chung, nhưng nhấn mạnh rằng việc xử trí bệnh tật cần phải do một bác sĩ có năng lực thực hiện. Vai trò của người bệnh rút lại chỉ còn việc đi mời bác sĩ và sau đó chăm chú tuân theo lời khuyên của bác sĩ. Khi y học không chính quy được tổ chức tốt hơn và chuyên nghiệp hơn, họ cũng khuyên bệnh nhân nên đi mời chuyên gia.

CÁC CHI PHÁI Y HỌC (MEDICAL SECTS)

Đợt đầu của sự phân nhánh các phái y học đầu tiên tại Mỹ vào thế kỷ 19 bao gồm Thủy liệu pháp, phái Thomson, Phái trung dung, phái Y họcsinh lý (Physio-Medicalists) và Đồng căn liệu pháp. Mặc dù có những khác biệt trong các lý thuyết y học và hệ thống trị liệu, nhưng thành viên của các chi phái trên đều nhất trí rằng, dị căn liệu pháp (allopaths), tức là các bác sĩ gọi là chính quy, là bọn lang băm nguy hiểm trên tất cả mọi thứ. Các thầy thuốc không chính thống cho rằng họ là những người cải cách, người chữa bệnh, người cách mạng, người chuyên nghiệp và là thành viên của các trường phái triết học mới, chứ không phải là thành viên của một giáo phái hoặc chi phái nào cả. Họ lập luận rằng nghiệm pháp thật sự của bất cứ hệ thống y tế nào cũng phải là sự hài lòng của bệnh nhân, nhất là trong trường hợp những bệnh mạn tính mà thầy thuốc dị căn liệu pháp đã thất bại. Những người phê phán nền y học chính thống lập luận rằng luật cấp phép hành nghề đã xâm phạm quyền của người Mỹ khi họ đưa ra quyết định về việc chữa bệnh và sức khỏe cho chính mình.

Samuel Thomson (1769-1843), một nông dân vùng New Hampshire, đã lập ra một hệ thống y học dựa trên các bài thuốc thảo dược để thay thế cho những thứ thuốc có tác dụng mạnh do các bác sĩ chính thống kê đơn, nhất là những thứ có chứa thủy ngân, thạch tin, antimony, và những hóa chất độc hại khác. Gạt bỏ cách điều trị và thẩm quyền của các bác sĩ chính quy, Thomson trở thành một trong những thầy chữa bệnh nhiều ảnh hưởng nhất tại Mỹ trong các thập niên 1820, 1830. Làm theo cách mà ông ta gọi là cách tiếp cận hoàn toàn mang tính thực nghiệm, Thomson quảng cáo hệ thống của mình là sản phẩm của việc “nghiên cứu người bệnh thay vì sách - kinh nghiệm chứ không phải là đọc”.

Theo Thomson, ông ta nắm được bí quyết của các phương thuốc thảo dược khi nghiên cứu các phương pháp của một bà già hành nghề chữa bệnh bằng thảo dược tại vùng thôn quê New Hampshire, mà không hề gặp sự cạnh tranh của bất cứ bác sĩ nào gọi là thứ thiệt. Sau khi mất những người thân do một thứ bệnh gì đó và những thiệt hại do các bác sĩ chính thống gây ra, Thomson quyết định không làm ruộng nữa và trở thành một bác sĩ lang thang chữa bệnh bằng thực vật. Trong tự sử, Thomson ghi nhận rằng các bác sĩ chính thống cho ông là lang băm, nhưng ông ta hỏi lại: “vậy ai là lang băm vĩ đại nhất, người mà làm cho bệnh nhân hết bệnh bằng các phương tiện an toàn và đơn giản nhất... hay người mà thay vì chữa hết bệnh, lại làm cho bệnh nặng thêm bằng những thứ thuốc độc chỉ kéo dài thêm cái thống khổ của bệnh nhân cho đến khi... chỉ có chết mới hết bệnh?”. Khác với các bác sĩ chính quy cứ khăng khăng trích huyết và xổ ruột bằng calomel và những thứ thuốc nguy hiểm khác, Thomson đưa ra một hệ thống an toàn, rẻ tiền và dễ sử dụng. Hệ thống của ông đã giúp cho người bệnh khỏi mất tiền trả công cho bác sĩ và sự ngượng ngùng của bệnh nhân nữ khi được thầy thuốc nam giới khám. Nếu các bài thuốc của Thomson không có gì là cách mạng, thì chiến lược tiếp thị của ông quả là cải tiến và mang lại nhiều lợi nhuận. Đến đầu thập niên 1830, hàng triệu người Mỹ ở nông thôn đã sử dụng hệ thống và đọc sách của ông ta.

Về cơ bản, Thomson chỉ kê đơn những chất có nguồn gốc thảo mộc và tắm hơi, trong đó nói đến cách làm tăng thân nhiệt bên trong và bên ngoài để đánh đuổi bệnh đi. Thuốc thảo dược của ông gồm có lá hồng ba tiêu (lobelia), một thứ thuốc xổ thực vật để làm sạch dạ dày và gây phát hãn; ớt hiểm cayenne và tắm hơi, để lấy lại thân nhiệt; trà làm bằng nhiều loại rễ cây, vỏ cây và trái dâu để làm tăng sự tiêu hóa; các loại thuốc bổ thực vật làm bằng rượu nho hoặc rượu brandy để tăng cường sức khỏe cho bệnh nhân. Các môn đồ của Thomson được dạy sử dụng một hộp đựng thuốc có chứa đến 6 thứ thuốc được đánh số để khi sử dụng theo một trình tự xếp đặt trước. Thomson cũng đưa ra lời khuyên thực tiễn về lối sống lành mạnh, và nguy hại khi dùng những thứ thịt bị vấy bẩn và khi uống nhiều rượu quá mức.

Ấn bản đầu tiên trong nhiều ấn bản của bộ Hướng dẫn mới dành cho sức khỏe của Thomson; hoặc, Người thầy thuốc cây cỏ của gia đình, có chứa toàn bộ hệ thống thực hành, bao gồm Chuyện kể về cuộc đời và các phát hiện y học của Samuel Thomson được xuất bản năm 1822. Một số ấn bản có thêm câu Vạch trần mánh khóe lang băm có học vấn cũng được ghi trong tên sách. Trước khi mua sách, người đăng ký phải mua “quyền” của một quyển sách và trở thành thành viên của một Hội Thân thiện Thực vật tại địa phương. Các thành viên của các Hội Thân thiện Thực vật cam kết sử dụng hệ thống Thomson và giúp các thành viên khác “khi gặp lúc khó khăn”. Khi kêu gọi mọi người chú ý đến thứ ngôn ngữ rõ ràng, đơn giản sử dụng trong sách của mình, Thomson cảnh báo người đọc nên tránh những thứ độc chất chết người được kê đơn bằng thứ ngôn ngữ chết của các bác sĩ chính quy là những người cố ý sử dụng các thuật ngữ Latin bí hiểm để làm cho người khác bối rối và để dọa người ít học.

Tại nhiều tiểu bang, y học Thomson cạnh tranh rất thành công với nền y học chính quy, nhưng sự thành công lại sản sinh ra nhiều nhân viên quảng bá cái hệ thống thứ thiệt (authentic system) cũng như sự xuất hiện bọn giả danh và những kẻ cạnh tranh. Một số bác sĩ chính quy kín đáo chấp nhận hệ thống Thomson và các loại thuốc tiếp thị bởi công ty không có thẩm quyền không được Thomson chấp thuận. Thomson tranh đấu để duy trì những chủ trương của mình về nghề y không chính quy của mình như là một phong trào tự túc, nhưng cái hệ thống nguyên bản này chẳng bao lâu sau đó lại bị phá vỡ bởi các thầy thuốc “chuyên gia”, là những người đưa ra các chế độ dùng thuốc của riêng họ, xây dựng các phòng khám tư, đào tạo học viên và người học việc, và cảnh cáo không để cho bệnh nhân tự trị bệnh cho mình. Phái Thomson tách ra thành nhiều phe phái hục hặc nhau và sau năm 1838 không còn tổ chức những hội nghị cấp quốc gia nữa. Đến thập niên 1840, phái Thomson bị phân mảnh và bị các đối thủ mới đưa vào bóng tối.

Những chi phái mới được biết dưới dạng những nhà lý y học (physio-medicalists) và chiết trung chấp nhận các thứ thuốc thực vật của Thomson và lời tố cáo của ông này về các thứ thuốc chính thống, nhưng trái ngược với Samuel Thomson, các thành viên của những chi phái này tự cho mình là các thầy thuốc chuyên nghiệp vì học thuyết, sự huấn luyện, trường đào tạo và các tờ báo chuyên môn của họ. Alva Curtis (1797-1881), người sáng lập ra ngành lý y học (physio-medicalism), vốn là một thầy thuốc thuốc thực vật có ý định cạnh tranh với những người theo phái Thomson lẫn các bác sĩ chính quy khi xây dựng một bản sắc chuyên nghiệp mới. Trường dạy lý y học (physio-medical) đầu tiên được mở tại Columbus, Ohio năm 1836. Những trường dạng này sau đó được thành lập tại Alabama, Georgia, Massachusetts, New York, Tennessee, và Virginia, nhưng tất cả đều biến mất vào năm 1911.

Triết lý nền tảng liên kết cái chi phái lắm tranh chấp này là tín niệm cổ xưa cho rằng trong cơ thể có sẵn một thứ “sinh lực” (vital force) hoặc “bác sĩ nội tại”. Các thầy thuốc phái lý y cho rằng các thứ thuốc thảo mộc của họ làm tăng cái khả năng tự chữa lành của cơ thể. Họ tố cáo những thứ thuốc khoáng chất của dị căn liệu pháp, tức là những thứ do các bác sĩ chính quy sử dụng, là các thứ thuốc độc nguy hiểm và không tự nhiên.

Những nguyên tắc cơ bản này được Hiệp hội Y học Cải cách của Mỹ và Hội các bác sĩ và phẫu thuật viên lý y của Mỹ chấp nhận. Ngoài những bài thuyết trình về khoa học y học và các thuốc thực vật, Curtis giải thích các ưu điểm của học thuyết lý y so với những hệ thống khác trong quyển sách do ông viết Một sự rà soát và phê phán tất cả các hệ thống y học đang thịnh hành. Ông ta cũng công bố những phản hồi đối với “sự khiêu khích” của các thầy thuốc chính quy. Mặc dù các thầy thuốc phái y lý chỉ chiếm một phần nhỏ trong số những người hành nghề y ở Mỹ, và các trường y của họ đều xoàng về mặt học thuật, nhưng họ cũng đòi quyền được cạnh tranh với các vị trí trong lục quân và hải quân cũng như có đại diện trong các hội đồng cấp phép và quản lý hành nghề.

Wooster Beach (1794-1868), người sáng lập ra y học chiết trung, không có liên hệ trực tiếp gì với phái Thomson, nhưng ông ta từng theo học một người chữa bệnh bằng cây cỏ và đã xuất bản một quyển sách về y học nội trợ. Beach cho rằng mình là một thầy thuốc cây cỏ chuyên nghiệp, bởi vì ông ta đã theo học một trường y tại New York và có chứng chỉ hành nghề do y tế phân khu cấp. Trong quyển Hành nghề y khoa tại Mỹ (1833), Beach lập luận rằng việc hành nghề y chính thống “là độc hại và nguy hiểm đến mức cực đoan”. Trong toàn bộ Dược liệu (materia medica) của y học chính thống chỉ có mấy thứ khoáng chất đầy chất độc gây hại cho cơ thể con người nhiều hơn là chính căn bệnh mà thầy thuốc kê đơn để chữa. Ngược lại, học thuyết chiết trung là một trường phái tư tưởng triết học kêu gọi phải cải cách nền y học. Theo Beach, thì nền y học thực vật mới đặt cơ sở trên “những nguyên tắc chân lý bất di bất dịch và vĩnh cửu”. Các nguyên tắc của y học chiết trung đã được chứng minh qua thực nghiệm, quan sát và thực tế rút ra từ thực hành lâm sàng. Các tài liệu do phái chiết trung xuất bản bao gồm các mặt bệnh học, triệu chứng học, chẩn đoán, tiên lượng và so sánh giữa các phương thuốc được sử dụng bởi các thầy thuốc dị căn liệu pháp, đồng căn liệu pháp, thủy liệu pháp và chiết trung.

Năm 1830, Beach cùng với đồng nghiệp tổ chức một trường y tại Worthington, Ohio, và cho rằng đây là trường y thảo dược được đặc cách (nhận ngân sách chính phủ nhưng hoạt động độc lập), có cấp bằng đầu tiên tại Mỹ. Mặc dù Beach tin rằng trường mới này sẽ đưa ra nền tảng khoa học cho ngành y học cây cỏ, nhưng ông ta gọi hệ thống điều trị này là “chiết trung” vì lẽ nó thiếu một triết lý y học độc đáo. Vào thời điểm trường đóng cửa năm 1839 do một vụ náo loạn khi mổ xác, có đến 100 thầy thuốc chiết trung đã tốt nghiệp. Viện Y học chiết trung tại Cincinnati, Ohio, được đặc cách thành lập năm 1845, là trường y khoa chiết trung quan trọng nhất và thành công nhất. Đến năm 1892 có đến 10 trường y khoa chiết trung. Chương trình các môn học của các trường y khoa chiết trung về cơ bản tương tự như các trường y chính thống. Giáo trình gồm có giải phẫu học, bệnh lý học, dược liệu, phẫu thuật và sản khoa. Mặc dù có một vài chống đối, nhưng các trường y khoa chiết trung sẵn sàng nhận các sinh viên nữ hơn là các trường y khoa chính quy. Như tên gọi, các thầy thuốc chiết trung chấp nhận một cách tiếp cận mềm dẻo đối với điều trị học mặc dù họ nhấn mạnh nhiều hơn đến các phương thuốc lấy từ cây cỏ tự nhiên và những dạng mới các thứ thuốc tạm gọi là làm cô đặc, và nhất quyết không chấp nhận việc trích huyết. Các thầy thuốc chiết trung khá thành công khi cạnh tranh với thầy thuốc phái y lý và phái Thomson, nhưng vẫn chỉ là một phái nhỏ so với y học chính quy và đồng căn liệu pháp. Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ 20, Hiệp hội Y học chiết trung Quốc gia của Mỹ có chi nhánh tại 32 tiểu bang. John M. Scudder (1829-1894), giáo sư tại Viện Y học Chiết trung, John Uri Lloyd (1849-1936), và nhiều người khác có ý đồ nâng cao vị thế của Y học chiết trung qua việc xuất bản các sách giáo khoa và các tạp chí chuyên nghiệp, phát triển nhiều phương thuốc mới, và nâng cao việc chuẩn hóa các thứ thuốc chiết trung. Các nỗ lực của họ đều thất bại và Viện Y học chiết trung, là trường y chiết trung cuối cùng bị đóng cửa vào năm 1939. Tuy nhiên, thư viện Lloyd do John Uri Lloyd và anh em thành lập, vẫn giữ được những bộ sách có giá trị về dược học thực vật (phytopharmacy) cùng với lịch sử của môn này. Tuy phái y học chiết trung không còn, nhưng Lloyd vẫn là một dược sĩ và là một nhà sản xuất dược phẩm rất thành công. Lloyd giữ chức Chủ tịch Hiệp hội Dược khoa Mỹ và được coi là người có công vận động thông qua Đạo luật quốc gia về thuốc và thực phẩm tinh khiết năm 1906. Là một tác giả sung sức viết nhiều tác phẩm tiểu thuyết và không phải tiểu thuyết, những sách Lloyd viết gồm có Chuyên luận mang tính hệ thống về Dược liệu và Điều trị, Điều trị năng động, và một nghiên cứ về cây cúc dại Echi nacea angustifolia (hiện nay vẫn còn sử dụng rộng rãi để trị cảm cúm).

Đồng căn liệu pháp (homeopathy), một trong những chi phái y học thành công nhất trong thế kỷ 19, do một bác sĩ người Đức tên Christian Frie drich Samuel Hahnemann (1755-1843) sáng lập. Mặc dù Hahnemann là một bác sĩ và nhà hóa học được trọng vọng, nhưng ông không hành nghề y vì lý do ông tin rằng các cách điều trị quy ước đều không đem lại kết quả và gây nguy hiểm. Chỉ đến năm 1796 khi ông ta tìm ra một hệ thống chữa bệnh mới dựa trên nguyên tắc similia similibus curantur - dĩ độc trị độc - ông ta mới lấy lại can đảm hành nghề trở lại. Vào năm 1810, Hahnemann công bố ấn bản đầu tiên của mình, bộ Hệ thống các nguyên tắc Y học (Organon of Medicine), trong đó mô tả những nguyên tắc nền tảng của môn đồng căn liệu pháp. Để đáp trả những chỉ trích nhằm vào hệ thống của mình, Hahnemann xuất bản quyển Bào chữa cho Hệ thống các nguyên tắc Y học thuần lý (Defense of the Organon of Rational Medicine).

Hahnemann nói “sứ mạng cao cả và duy nhất của người thầy thuốc là đem lại sức khỏe cho người ốm”. Một nền khoa học y học chân chính phải được xây dựng từ kinh nghiệm và được thúc đẩy “bởi sự chú ý đúng mực đến thiên nhiên qua các cảm quan của con người, bởi những quan sát chân thực thận trọng và bởi các kinh nghiệm.” Chính từ kinh nghiệm của bản thân, khi sử dụng thuốc ở mức tinh khiết có thể có được, mà ông ta phát hiện ra những nguyên tắc của đồng căn liệu pháp. Theo Hahnemann, khi dùng thuốc với liều lớn cho người lành, những thứ thuốc này sẽ tạo ra các tác dụng giống như triệu chứng của bệnh trên người ốm. Hahnemann làm lại chương trình thử nghiệm các thứ thuốc và định rõ những triệu chứng hoặc tác dụng mà thuốc gây nên trên người khỏe mạnh “đã thử qua” thuốc đó. Các triệu chứng biểu lộ trên bệnh nhân được ghi nhận cẩn thận, để từ đó thầy thuốc có thể cho bệnh nhân với liều lượng nhỏ những thứ thuốc được biết là sẽ gây ra các triệu chứng tương tự.

Về cơ bản, hệ thống điều trị bằng thuốc của Hahnemann đặt nền móng trên sự giả định rằng bệnh không phải là một hành động sai mà là hành động đúng, rằng tự nhiên đã làm những gì được coi là tốt nhất, và rằng chỉ nên sử dụng y học để giúp cho cơ thể làm rõ thêm các triệu chứng xảy ra thay vì làm thay đổi chúng. Hahnemann cũng tin rằng càng ít can thiệp vào tự nhiên càng tốt. Vì thế, ngay khi thuốc làm tăng thêm các triệu chứng đang có thì ông ta ngừng không cho thuốc nữa. Hahnemann lý luận rằng các thành viên của trường phái y học cũ chỉ là những người thuộc chi phái y học gây nguy hiểm bởi vì họ thực hành nền y học dị căn, tức là điều trị bằng sự đối nghịch. Nói cách khác, thầy thuốc dị căn liệu pháp là những người tin vào việc điều trị bệnh bằng các thứ thuốc tạo ra các hiệu quả khác với những hiệu quả do chính bệnh gây ra. Hahnemann cho rằng, nếu quả có lang băm thực sự, thì đó là những thầy thuốc cổ súy cho các học thuyết và phương pháp y học dị căn.

Trong một lần tấn công cay độc vào “trường phái cũ” Hahnemann tố cáo y học dị căn là “một sự tự lừa dối đáng thương, một sự vô ích tận cùng, điểm nổi bật của phương pháp chữa trị này là gây nguy hiểm cho mạng sống con người”. Các bác sĩ dị căn liệu pháp tấn công cơ thể người bệnh bằng những thứ thuốc với liều lượng lớn và thường xuyên dưới hình thức các hỗn dược, trong đó có những thứ gây ói, gây xổ, gây chảy nước bọt, lợi tiểu, ăn da và sau đó lại bổ sung cho những hủy hoại đó bằng cách trích huyết ồ ạt mà hậu quả cuối cùng là chỉ làm yếu thêm người bệnh kém may mắn. Kết cuộc, ngoài chứng bệnh lúc đầu, cơ thể lại mắc thêm “những bệnh mới và thường là không chữa hết được do thuốc mà ra”.

Các thầy thuốc dị căn liệu pháp đã xây dựng “những thứ gọi là hệ thống” đi từ những suy đoán rỗng tuếch về bản chất chưa biết được của các quy trình sống và nguyên nhân của bệnh nằm trong cơ thể đang sống. Nhưng, Hahnemann nhấn mạnh rằng các bác sĩ cũng đừng mong chờ để thấy được cái lực sống hoặc cái thực thể tâm linh (spiritual being) là cái gây ra bệnh. Đối với người thầy thuốc đồng căn liệu pháp, các dấu hiệu và triệu chứng mà giác quan nhận biết được, tạo thành “hình ảnh thực sự và duy nhất có thể nghĩ ra được của bệnh”. Khi loại bỏ đi tất cả các triệu chứng, người thầy thuốc đồng căn liệu pháp phá đi cái nguyên nhân ẩn, nội tại của bệnh. Phớt lờ các triệu chứng, thầy thuốc dị căn liệu pháp dấn thân tìm kiếm vô ích cái nguyên nhân ban đầu chưa rõ của bệnh. Ngược lại, mục đích của đồng căn liệu pháp là sự hủy bỏ toàn bộ chứng bệnh thông qua một cách chữa trị nhanh chóng, nhẹ nhàng, đáng tin cậy và không gây hại. Để định rõ đúng thứ thuốc và liều lượng, thầy thuốc đồng căn liệu pháp phải đánh giá cẩn thận “tình trạng thể chất của bệnh nhân, tính cách đạo đức và tri thức, nghề nghiệp, cách sống và các thói quen, các mối liên hệ xã hội và trong gia đình, tuổi tác, chức năng tình dục” và còn nhiều thứ khác nữa.

Quy luật đầu tiên của đồng căn liệu pháp là quy luật của những thứ tương tự. Nguyên tắc cơ bản thứ hai là quy luật của những thứ vô cùng nhỏ. Do người ốm cực kỳ nhạy cảm với thuốc, cho nên thầy thuốc đồng căn liệu pháp không bao giờ sử dụng thuốc ở dạng thô, chưa pha loãng. Để loại bỏ khả năng là ngay cả với một liều thuốc nhỏ cũng sẽ làm nặng thêm các triệu chứng của người bệnh, Hahnemann tiến hành một loạt pha loãng. Nhằm duy trì tính hiệu nghiệm của thuốc sau khi được pha loãng mà các dược sĩ bình thường nghĩ rằng sẽ loại hết không còn chút vết tích nào của chất nguyên thủy, Hahnemann pha loãng các chế phẩm của mình qua một loạt các bước mà ông cho rằng đã làm giảm độc tính và làm tăng tính chất chữa bệnh của các dung dịch pha loãng “có tính hiệu nghiệm cao” của mình. Mỗi lần pha loãng một chế phẩm, ông ta đều để chế phẩm này trải qua một loạt rung lắc mạnh. Theo Hahnemann, tiến trình này sẽ giải phóng “cái tinh túy” hoặc “cái tư tưởng” của thuốc ra khỏi cái nền vật chất trơ hoặc “cái chất” của nó. Thuốc được pha loãng hoặc làm dịu đi khi pha với nước, rượu mạnh, hoặc đường trong sữa được coi là các chất trung hòa qua nhiều lần thử nghiệm công phu.

Những người ủng hộ phép Vệ sinh Tự nhiên, tự nhiên liệu pháp và các chi phái không sử dụng thuốc khác, đều chuộng đồng căn liệu pháp hơn là dị căn liệu pháp, nhưng lại cho rằng các cơ sở lý thuyết của Hahnemann đều có sai sót bởi vì ông này giả định rằng các dược phẩm có thể hỗ trợ tự nhiên và chữa lành bệnh. Tự nhiên liệu pháp là cách điều trị bệnh bằng “cách sắp xếp hợp lý việc thu nhận thực phẩm” nhằm loại trừ các độc tố của cơ thể và “tạo ra các tế bào, máu, mô và chất tiết bình thường”. Các thầy thuốc tự nhiên liệu pháp không sử dụng thuốc cho cả điều trị lẫn dự phòng bệnh. Họ cố xây dựng ra một “môi trường sức khỏe” thông qua chế độ ăn và thái độ tâm thần đúng mực. Trên thực hành, các thầy thuốc đồng căn liệu pháp cho thuốc với liều lượng vô cùng nhỏ đến mức không thể nào gây ra bất cứ nguy hiểm gì cho bệnh nhân. Các thầy thuốc dị căn liệu pháp và nhà hóa học chế giễu những luận điệu về tính hiệu quả của các dung dịch pha loãng đến mức tối đa. Những người châm biếm đưa ra một công thức xúp gà kiểu đồng căn liệu pháp cho những người bệnh đặc biệt nhạy cảm, đó là để cho bóng của con gà rơi vào nồi nước nấu xúp.

Bằng cách lợi dụng sự bất mãn của công chúng đối với các thứ thuốc quá mạnh của các bác sĩ chính quy, các thầy thuốc đồng căn liệu pháp đã được quần chúng Mỹ cực kỳ ưa thích. Các thứ bệnh dịch đã cung cấp vô số cơ hội cho các thầy thuốc đồng căn liệu pháp nhấn mạnh đến tính an toàn và hiệu quả của hệ thống trị liệu của họ và những mối nguy hiểm của các phương pháp dị căn liệu pháp. Theo các bác sĩ đồng căn liệu pháp William Holcombe và Dr. F. A. W. Davis thì trong vụ dịch sốt vàng năm 1835 tại Natchez, chỉ có 35 bệnh nhân của họ chết, trong khi đó 430 bệnh nhân khác chết khi được các bác sĩ chính thống chăm sóc. Khi các thầy thuốc đồng căn liệu pháp được giao quản lý bệnh viện Mississippi của tiểu bang tại Natchez vào năm 1854, họ đã nâng số bệnh nhân sống sót bằng cách cấm không được làm trích huyết, thụt tháo, calomel, gây rộp da và các phương pháp dị căn liệu pháp khác.

Constantine Hering (1800-1880), một trong những thầy thuốc đồng căn liệu pháp đầu tiên tại Mỹ, đã xây dựng một cơ sở khám bệnh thành công và biến cải một số thầy thuốc dị căn chuyển sang hệ thống trị liệu mới. Hering giới thiệu một ấn bản tại Mỹ của quyển Hệ thống các nguyên tắc Y học đồng căn liệu pháp của Samuel Hahnemann, ấn bản này được phát hành dưới sự bảo trợ của Viện Hàn lâm Nghệ thuật chữa bệnh đồng căn liệu pháp Bắc Mỹ tại Allentown, Pennsylvania. Hering cũng xuất bản quyển Một cái nhìn ngắn gọn về sự hình thành và phát triển của Y học đồng căn liệu pháp, Dược liệu cô đọng, và những công trình khác về dược liệu của y học đồng căn liệu pháp.

Khi trường Y khoa đồng căn liệu pháp Pennsylvania được thành lập vào năm 1848, đa số các thành viên của viện là người tốt nghiệp các trường y chính quy và chấp nhận đồng căn liệu pháp. Những bất đồng trong khoa dẫn tới sự thành lập trường Y khoa Hahnemann cạnh tranh với trường cũ, nhưng hai trường hợp nhất vào năm 1869. Đến đầu thế kỷ 20, có khoảng 20 trường cao đẳng đồng căn liệu pháp tại Mỹ, cũng như các bệnh viện, phòng khám, các hội đoàn y học, tạp chí y học và thầy thuốc đồng căn liệu pháp, kể cả nhiều thầy thuốc nữ. Tuy nhiên, đến thập niên 1920, chỉ còn có hai trường dạng này tồn tại. Sự phát triển thành công của những ngành vi trùng học, bệnh lý học, sinh lý học và dược lý học làm cho những ủng hộ đối với học thuyết đồng căn liệu pháp bị xói mòn. Trường Y khoa Hahnemann cầm cự được là nhờ canh tân giáo trình, bỏ phần dạy về đồng căn liệu pháp và sau đó sáp nhập vào trường y Pennsylvania, thực thể mới được đổi tên thành Đại học các Khoa học Y tế Allegheny.

Phụ nữ - với tư cách là bệnh nhân, người chăm sóc và nâng đỡ cùng với thầy thuốc - đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển và truyền bá y học đồng căn liệu pháp trong các gia đình thuộc tầng lớp giữa và lớp trên. Nhiều tác giả nữ nổi tiếng, như Elizabeth Stuart Phelps (1844-1911), đã đưa đồng căn liệu pháp vào công việc của mình. Phelps, người cho rằng sự nghiệp cá nhân của mình là “Trời, Đồng căn liệu pháp, và nữ quyền,” đã thử thăm dò sự đồng cảm giữa phụ nữ và đồng căn liệu pháp trong tiểu thuyết của mình, BS Zay. Nhân vật chính trong tiểu thuyết là một bác sĩ đồng căn liệu pháp nữ, BS Zaidee Atalanta Lloyd, tốt nghiệp trường Vassar có ba năm trường y và một năm du học nước ngoài. Điều rõ ràng là, BS Lloyd có học vấn cao hơn và nhạy cảm với bệnh nhân của mình hơn là các đối thủ dị căn liệu pháp và những kẻ dèm pha. Tuy nhiên, đồng căn liệu pháp không phải lúc nào cũng tử tế với các thầy thuốc nữ. Vào năm 1867, Học viện Đồng căn liệu pháp của Mỹ bác đơn xin gia nhập của một phụ nữ, nhưng hai năm sau đó, viện này bỏ phiếu chấp thuận mọi ứng viên, nam hay nữ, những ai muốn học và hành nghề đồng căn liệu pháp. Các thành viên của Hiệp hội Y khoa Mỹ (AMA), vốn đến 1915 mới nhận phụ nữ, lập luận rằng những mối liên hệ chặt chẽ giữa phụ nữ và y học không chính thống một lần nữa chứng minh phụ nữ không phù hợp với vai trò bác sĩ.

Một số bác sĩ không biết chắc nơi mà ngón lang băm đơn giản và thứ thiệt chấm dứt và nơi mà sự lập dị và cải tiến bắt đầu, nhưng Oliver Wendell Holmes (1809-1894) thì chắc chắn khi nói rằng ông ta có thể nêu ra sự khác biệt giữa nền y học chân chính và những “lừa bịp” của đồng căn liệu pháp và những sai lầm chết người khác vì sự quá dễ tin của công chúng. Trong lúc vẫn khăng khăng bảo vệ tính vượt trội của y học chính thống, Holmes thừa nhận rằng có đến 90% bệnh nhân mà thầy thuốc có thể khám sẽ khỏi bệnh, sớm hoặc muộn gì đó, nếu tự nhiên không xía vào quá trình lành bệnh. Vì thế, ông ta kết luận, tự nhiên chữa lành bệnh còn bác sĩ cho đó là công của mình và đòi thù lao. Holmes cũng tuyên bố một câu để đời là nếu quăng tất cả các thứ thuốc xuống biển, chỉ trừ vài loại đặc biệt quan trọng, thì có lẽ tốt hơn cho nhân loại và sẽ tệ hơn cho các loài cá. Mặc dù William Alcott, John Harvey Kellogg, Wooster Beach, Andrew Taylor Still, và Samuel Hahnemann đều có những khả năng về y khoa đáng tin cậy, bất chấp “những sự lừa bịp của họ”, Holmes tố cáo các nhà lãnh đạo các chi phái y học cạnh tranh là đã bôi xấu chính hệ thống của họ khi giành giật những phát minh và tư tưởng của người khác, đã gian dối về quá trình học vấn và đào tạo của mình và những tội ác nặng cũng như các hành động phi pháp khác.

Dù các trường y đồng căn liệu pháp biến mất, đồng căn liệu pháp vẫn còn phổ biến trong một số nhóm dân cư và đến cuối thế kỷ 20 lại dấy lên sự quan tâm mới với sự ưa chuộng y học nhất thể (holistic) và y học thay thế. Một số tiểu bang thông qua các đạo luật cho phép một số thầy thuốc y học thay thế - đồng căn liệu pháp, châm cứu, chỉnh nắn cột sống, liệu pháp tự nhiên và nhiều thứ khác - có địa vị ngang hàng với y học truyền thống trong chi trả bảo hiểm y tế. Một ngành y học đồng căn liệu pháp mới xuất hiện trong đó nhấn mạnh đến các học thuyết tâm linh và nhất thể hơn là các nguyên tắc về các chất tương đồng và liều lượng cực kỳ nhỏ của Hahnemann.

Học thuyết của Hahnemann cho rằng không bao giờ ta có thể biết được những hoạt động sâu thẳm nhất của cơ thể và việc ông ta bác bỏ học thuyết gọi là giản lược hóa (reductionist) của một số bệnh chuyên biệt đã phản ánh cái tín niệm cho rằng thầy thuốc đồng căn liệu pháp nhất thể là người chữa cho toàn thân người bệnh, còn người thầy thuốc theo học thuyết giản lược hóa chỉ chữa bệnh mà thôi. Những người chủ trương y học thuần túy phản đối việc sử dụng đồng căn liệu pháp như là một khẩu hiệu áp cho nhiều loại bào chế đang bán tại các hiệu thuốc và cửa hàng thực phẩm bồi bổ sức khỏe. Tuy nhiên, giống như những bậc tiền bối trong thế kỷ 19, những người chủ trương y học nhất thể và đồng căn liệu pháp dường như đang vận động xóa bỏ biên giới giữa y học chính quy, y học truy nguyên và các ngành y học thay thế.