← Quay lại trang sách

Y HỌC THAY THẾ, BỔ SUNG VÀ KẾT HỢP

Những thách thức đặt ra từ các phong trào cải cách y tế đại chúng và các chi phái y học là vài trong số các yếu tố buộc các thầy thuốc chính quy rốt cuộc phải đi tìm hiểu các hệ thống trị liệu của các đối thủ cạnh tranh. Dù rằng khoa học thế kỷ 19 đã đem lại các phương tiện tiến bộ hơn để chẩn đoán và giải thích cơ chế của bệnh thông qua thuyết bệnh là do vi trùng, bệnh lý học tế bào, và sinh lý học, nhưng phạm vi của y học điều trị vẫn còn hạn chế. Các bác sĩ dần dần từ bỏ calomel, trích huyết và thụt tháo, và quay sang nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, các thử nghiệm thử thuốc trên lâm sàng có đối chứng và việc đào tạo y học nghiêm ngặt hơn để chứng minh tính vượt trội của y học chính thống. Khi ngành y cải thiện được hình ảnh và quyền lực của mình, cũng như tính hiệu quả của các chế độ trị liệu và tính an toàn trong các ca mổ, các bác sĩ tin tưởng rằng rồi sau này những thách đố của các thầy thuốc không chính thống và hệ thống của họ sẽ không còn nữa.

Mãi đến tận những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, các sử gia và các nhà khoa học xã hội chuyên về ngành y, cũng như những nhà phân tích chính trị đều cho rằng tình trạng chia thành chi phái trong y học, những thầy chữa bệnh không chính thống, và những cách chữa bệnh truyền thống hoặc dân gian sẽ biến dần đi khi nền y học hiện đại, khoa học càng ngày càng trở nên hiệu quả và thế lực hơn. Những thầy thuốc không chính thống, dù rằng đó là những người cổ súy cho các học thuyết y học cổ lỗ hoặc là các nhà lãnh đạo của các giáo phái tân thời, dường như không liên quan mấy đến thị trường y tế, ngoại trừ đó là những nơi tung ra các giai thoại đầy màu sắc. Nhưng rồi cộng đồng y tế sững sờ khi biết được rằng trong thập niên 1990 có trên 30 phần trăm người Mỹ đã sử dụng một dạng y học thay thế nào đó, tạo nên một thị trường nhiều tỷ đô-la. Những nghiên cứu sâu hơn cho thấy công chúng quan tâm nhiều và sử dụng y học thay thế có chiều hướng ngày càng tăng chứ không phải giảm đi.

Một nghiên cứu lớn thực hiện vào đầu thế kỷ 21 cho thấy trên 40% người Mỹ đã từng hoặc đang sử dụng một hình thức y học thay thế nào đó; khoảng 75% tin vào khả năng chữa bệnh khi cầu nguyện và 85% tin rằng một số thực phẩm có thể chữa được bệnh hoặc làm tăng sức khỏe. Cuộc khảo sát bao gồm những câu hỏi về 27 cách trị liệu thay thế hoặc không quy ước. Những phương thức chữa bệnh không quy ước bao gồm châm cứu, liệu pháp xông hương, y học Ayurvedic, thảo dược, các sản phẩm cây cỏ, enzim, thể dục thở sâu, thiền, chữa bệnh năng lượng, yoga, đồng căn liệu pháp, từ trường, chỉnh nắn cột sống, xoa bóp, phản xạ liệu pháp, liệu pháp tự nhiên, các chế độ ăn đặc biệt, liệu pháp vitamin liều rất cao, cầu nguyện và thậm chí cách điều trị xa xưa như dội nước lên đầu. Ngoài ra, cuộc điều tra còn cho thấy những người có học vấn là những người chọn y học thay thế hay y học nhất thể khi đi tìm sức khỏe tối ưu. Khoảng 70% người Canada sử dụng y học thay thế và một phần ba số người này sử dụng thường xuyên. Tại Pháp, nơi y học đồng căn liệu pháp được ưa chuộng, 75% cho biết họ đã từng thử các ngành y học thay thế. Tại Trung Quốc, 95% bệnh viện đều có các phòng y học dân gian.

Nhu cầu của người dân về các chọn lựa các phương cách để có được sức khỏe, lành bệnh và chăm sóc y tế, đã làm thay đổi mối quan hệ giữa y học chính thống và các dạng chữa bệnh trước khi bị tố cáo là theo chi phái tôn giáo, mê tín và mánh lới lang băm. Khi các bác sĩ tìm cách kết hợp thay vì loại bỏ các phương thức trị bệnh cạnh tranh, thì nền y học không chính thống được xếp gọn lại thành y học bổ sung, thay thế hoặc y học hợp nhất (integrative). Từ quan điểm của nền y học chủ đạo, y học thay thế bao gồm ngành nắn xương và chỉnh nắn cột sống cũng như các thầy thuốc dân gian và tôn giáo, tự nhiên liệu pháp, đồng căn liệu pháp, châm cứu, các chương trình thiết thực và thể hình, phản xạ liệu pháp, xoa bóp trị liệu, các dụng cụ từ tính, các hệ thống tự giúp hứa hẹn sẽ đưa tới sự khỏi bệnh tự nhiên và điều trị bằng thảo dược.

Các thành viên ủng hộ y học bổ sung hoặc hợp nhất thiên về các phương thuốc thảo dược, vitamin, và những thứ khác gọi là bổ sung thành phần dinh dưỡng. Khi thông qua Đạo luật về chất bổ sung chế độ ăn và giáo dục sức khỏe năm 1994, Quốc hội Mỹ đã chấp nhận những sai biệt đáng kể giữa việc đưa ra thị trường các thứ thuốc theo đơn và các thứ bổ sung chế độ ăn. Thuốc được kê đơn phải chứng tỏ tính an toàn và hiệu quả mới được cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm (FDA) chấp thuận, nhưng cơ quan này cũng không thể rút khỏi thị trường những sản phẩm bán dưới dạng bổ sung chế độ ăn trừ trường hợp FDA chứng minh rằng những thứ này có hại. Các nhà sản xuất thuốc bổ sung chế độ ăn được phép sử dụng quảng cáo và lời thừa nhận của người dùng cho rằng những sản phẩm của họ “hoàn toàn đi từ thiên nhiên” và “hoàn toàn an toàn”. Các cửa hiệu chuyên về thuốc bổ sung chế độ ăn, thảo dược và vitamin bày bán các sản phẩm làm tăng sự chuyển hóa, cải thiện sức khỏe tim mạch, ngăn ngừa được các cơn đau tim và nhiều thứ khác. Các công ty sản xuất thực phẩm và đồ uống thử nghiệm với những sản phẩm “chức năng” hoặc “dưỡng dược” (nutraceutical) có chứa các thành phần vốn thường gặp nhiều trong các chất bổ sung chế độ ăn và các thứ thuốc cây cỏ truyền thống. Những người hoài nghi nhận thấy rằng với những thứ bổ sung như thế, khi được đưa vào với liều thấp như thế có lẽ sẽ không gây nguy cơ gì, nhưng đúng ra thì nên gọi là thực phẩm vi lượng đồng căn thay vì thực phẩm chức năng. Một số các thứ thuốc cây cỏ phổ thông như ma hoàng để điều trị tăng lực và làm giảm cân, cúc dại echinacea điều trị cảm lạnh, mao lương đen (cohosh) cho những cơn bốc hỏa, cây tất bạc (kava) cho bệnh thần kinh, cây cọ lùn (saw palmetto) cho phì đại nhẹ tuyến tiền liệt, cây ông lao (St. John’s wort) cho trầm uất, lá bạch quả (ginkgo biloba) cho mất trí nhớ. Tuy nhiên, các nhà dược lý học nhấn mạnh đến tác dụng độc có thể gặp của nhiều thứ thảo dược chẳng hạn như ma hoàng (ephedra), cây hoa chuông (comfrey), tía tô đất (germander), Indian snakeroot, lobe lia, bạc hà hăng (pennyroyal), cây ngải (wormwood), yohimbe, và thậm chí cúc La Mã (chamomile). Dù rằng những thứ cây cỏ này đã được dùng qua nhiều thế kỷ, thì một số trường hợp phản ứng bất lợi, hoặc tác dụng độc trên gan hoặc thai nhi, có thể không được các thầy thuốc cổ truyền chú ý khi số bệnh nhân của họ không nhiều.

Những người chống đối các cố gắng hợp nhất y học thay thế với y học chính thống đã cảnh báo rằng sự trộn lẫn này sẽ làm hỏng những nền tảng của y học hiện đại và ngăn trở sự tiến bộ của ngành y sinh học. Những người bào chữa cho nền y học hợp nhất lý luận rằng trên khắp thế giới bệnh nhân đều tìm đến các thầy thuốc y học thay thế vì họ bất mãn với y học chính thống. Người bệnh đặc biệt chú ý đến những ảnh hưởng của dinh dưỡng lên sức khỏe và nghi ngờ về việc sử dụng quá đà thuốc men và phẫu thuật. Những người phê bình nền y học chính thống ghi nhận rằng các thứ thuốc kê theo đơn và những sai sót y học đã gây nên hàng ngàn cái chết trong các bệnh viện. Ngoài ra, nhiều phương pháp thực hành và tín niệm trong y học quy ước không hẳn đã dựa vào các thử nghiệm thử thuốc lâm sàng được ngẫu nhiên hóa.

Năm 1998, do áp lực của Quốc hội, các Viện quốc gia về Y tế đã nâng cấp Văn phòng Y học thay thế, vốn đã được Quốc hội cấp ngân sách từ năm 1991, và thành lập Trung tâm quốc gia về Y học bổ sung và thay thế (NCCAM). Viện mới này có nhiệm vụ đánh giá y học thay thế, hỗ trợ các thử nghiệm lâm sàng và cung cấp thông tin cũng như tư vấn cho công chúng. Năm 2002, Ủy ban của Nhà Trắng về Chính sách dành cho Y học thay thế đã đưa ra một báo cáo về các trị liệu thay thế cần phải được đầu tư nhiều hơn cho nghiên cứu, được các công ty bảo hiểm chi trả nhiều hơn và được Medicare thanh toán cho những điều trị kiểu này nhiều hơn. Nhằm đáp ứng với sự quan tâm của công chúng và chính phủ đối với các điều trị bằng y học thay thế, các trường y khoa và các bệnh viện đại học uy tín đưa ra các chương trình nghiên cứu về các điều trị thay thế và các chương trình trong y học hợp nhất. Thậm chí Hiệp hội Thú y Mỹ cũng chấp nhận một số hình thức y học thay thế. Các thành viên của Hiệp hội Thú y nhất thể của Mỹ khuyến cáo các phương thuốc thảo dược, châm cứu, liệu pháp ấn huyệt (acutherapy), đồng căn liệu pháp, và liệu pháp chỉnh nắn cột sống dành cho động vật.

Các cố gắng để buộc các lối trị liệu y học thay thế và truyền thống phải chấp nhận sự kiểm định nghiêm ngặt lại thường dẫn đến các kết quả nhập nhằng không đáp ứng được những đòi hỏi của những người phê bình hay người đề xuất. Lấy ví dụ, năm 1996, Emily Rosa thiết kế một test thực nghiệm để kiểm tra một kỹ thuật thay thế được sử dụng rộng rãi tên là “xúc giác trị liệu” (therapeutic touch). Dự án Hội chợ Khoa học dành cho lớp 4 của cô được công bố trên tạp chí JAMA năm 1998. Những người đề xuất xúc giác trị liệu cho rằng khi người chữa bệnh cho bàn tay của họ lướt qua cơ thể bệnh nhân nhưng không thực sự chạm vào, thì họ có thể làm giảm đi các triệu chứng của bệnh bằng cách sắp xếp và tạo sự cân bằng của các trường năng lượng bị khiếm khuyết. Tuy nhiên, khi bị ngăn cách bằng một tấm màn che với người khảo sát, 21 thầy thuốc tham gia vào nghiên cứu của Rosa không thể nào phát hiện được năng lượng của người khảo sát ngoài sự may rủi. Các thầy thuốc phản đối kết luận từ thí nghiệm và cho rằng trong số những tác giả của nghiên cứu có những người hoài nghi thuộc Nhóm nghiên cứu quốc gia về cảm xúc trị liệu và Nhóm theo dõi trò lang băm (Quackwatch).

Các nhà lãnh đạo của Quackwatch cảnh báo rằng tình trạng ngày càng được chấp nhận nhiều hơn của nền y học hợp nhất mà tiêu biểu là sự ra đời của tổ chức NCCAM có thể sẽ không thu nạp được nền y học thay thế như xu hướng mong đợi. Có lẽ, như những người hoài nghi cảnh báo, sự dàn xếp có thể sẽ làm cho ngành y trở nên đa dạng, không được kiểm soát, không chỉnh đốn, và thủ đoạn lang băm. Tuy nhiên, các bệnh viện, các trung tâm y học hàn lâm, và các trường y khoa đang cố gắng thu hút các bệnh nhân mới và người tiêu dùng qua các chương trình làm tăng sự sung mãn, giảm stress, yoga, thiền định, xoa bóp, liệu pháp phản hồi sinh học (biofeedback), Shirodhara (nhỏ lên trán từng giọt dầu mè ấm có pha thảo dược), ấn huyệt, xông hương liệu pháp và nhiều thứ khác. Hiệp hội Bệnh viện Hoa kỳ nhận thấy trên 15% tất cả các bệnh viện đưa ra các liệu pháp thay thế, kể cả các trung tâm điều trị y học bổ sung dành cho khách hàng không hẹn trước (walk-in).

Nhằm ứng phó với xu hướng sử dụng y học thay thế đang tăng nhanh, năm 2002, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lần đầu tiên đưa ra một chiến lược toàn cầu nhằm phân tích các liệu pháp truyền thống và thay thế và để giúp lồng ghép những cách trị liệu này vào các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. WHO cũng ghi nhận là cần thiết phải bảo đảm cho các phương pháp trị liệu truyền thống không bị các công ty dược phẩm chiếm đoạt và đăng ký bản quyền và bảo đảm cho các cây làm thuốc không bị cạn kiệt vì thu hái quá mức. Tại nhiều nơi trên thế giới, đại đa số dân cư dựa vào các liệu pháp truyền thống. Lấy ví dụ, tại Mozambique, chỉ có một bác sĩ cho 50.000 dân, ngược lại cứ 200 người dân có một thầy chữa bệnh cổ truyền. Các quan chức của WHO lên kế hoạch tư vấn cho các quốc gia tìm cách bảo đảm chất lượng các thứ thuốc và phương pháp điều trị y học cổ truyền thông qua việc quản lý thuốc men, đào tạo và cấp phép hành nghề cho thầy thuốc. Nếu các thầy thuốc cổ truyền thực hiện các kỹ thuật sát khuẩn không truyền thống, họ có thể sẽ làm cho bệnh tật lây lan ra khi dùng bơm tiêm, dao, dao mổ, mảnh thủy tinh vỡ hoặc lông con nhím nhiễm bẩn.

Những kẻ hoài nghi cảnh báo rằng mối quan tâm về y học thay thế ngày càng tăng vì được WHO khuyến khích có thể sẽ giúp cho nhiều dạng mánh khóe lang băm nguy hiểm và lặng lẽ xuất hiện rồi sau đó phát triển mạnh trong một môi trường thuận lợi hơn, ít săm soi hơn cho phép mọi ý kiến và ai cũng có quyền bình đẳng. Đối với những bệnh ngặt nghèo, mạn tính và khó chữa, người dân dễ bị lường gạt bởi trò lang băm. Những người từng phát động phong trào chống mánh khóe lang băm trong điều trị ung thư và AIDS cảnh báo rằng những thay đổi về xã hội và luật lệ sẽ tạo điều kiện cho nền y học không quy ước dễ được chấp nhận hơn và tạo điều kiện cho “một đội quân lang băm” cỡ toàn cầu tha hồ sinh sôi và phát đạt.