← Quay lại trang sách

LOUIS PASTEUR

Săn vi trùng không phải là việc ít gặp trong nửa đầu thế kỷ 19, và Louis Pasteur (1822-1895) không phải là người đầu tiên lập luận rằng các bệnh truyền nhiễm là do vi trùng gây ra, nhưng công trình của ông cực kỳ quan trọng ở chỗ đã chứng minh sự liên quan giữa lý thuyết vi trùng đối với bệnh truyền nhiễm, phẫu thuật, quản lý bệnh viện, nông nghiệp và công nghiệp. Công trình của Pasteur đã soi sáng nhiều lĩnh vực trong nền khoa học thế kỷ 19, trong đó có hóa học lập thể, sự lên men, thuyết phát sinh sinh vật, thuyết bệnh là do vi trùng, miễn dịch học, virus học, sự khử trùng, tiệt trùng và việc bào chế các vaccine bảo vệ. Nhìn chung, Pasteur và các cộng sự của ông đã cùng lúc tham gia vào nhiều vấn đề nghiên cứu. Do Pasteur cùng một lúc quan tâm đến quá nhiều chuyện cho nên không thể trình bày sự nghiệp của ông theo thứ tự thời gian được, nhưng sự phức tạp này cũng phản ánh suy nghĩ của ông khi cho rằng “các khoa học phát triển là nhờ hỗ trợ lẫn nhau”. Sự nghiệp của ông cũng là một trường hợp tiêu biểu cho mối liên quan giữa nghiên cứu chỉ giải quyết các vấn đề thực tiễn và nghiên cứu chỉ nhắm đến kiến thức khoa học cơ bản.

Khi còn trẻ, Pasteur là một học sinh chuyên cần, có tài hội họa, nhưng hồi ở trung học, sức học về hóa học của ông khá xoàng. (Những câu chuyện kiểu này về các nhận xét sai lầm buồn cười do thầy giáo của những học trò tài năng dường như là phần phải có trong tiểu sử các nhà khoa học lớn, có lẽ để giúp cho các học sinh học kém có thêm hi vọng và cũng để cho các thầy giáo thận trọng hơn). Năm 1838, Pasteur đi Paris để học, nhưng do quá nhớ nhà ông đành phải về quê. Thời kỳ này ông chuyển sang vẽ chân dung để bớt buồn chán và cũng để lấy lại nghị lực quay lại học tiếp. Dần dà, Pasteur quyết định không theo nghệ thuật nữa mà dành mọi sức lực cho khoa học. Ông miệt mài rèn luyện hóa học và vật lý, nhưng bài học quan trọng nhất khi học tại Trường Cao đẳng Sư phạm Paris danh tiếng là quyết tâm áp dụng các phương thức thực nghiệm mà ông đã học được trong hóa học cho một loạt các vấn đề trong sinh học và y học, những lĩnh vực mà ông không được đào tạo chuyên sâu.

Những vấn đề và phương pháp nghiên cứu mà Pasteur tiếp thu được khi làm nghiên cứu sinh tiến sĩ đã giúp ông nghiên cứu nhiều vấn đề khác nhau. Sự nghiệp của ông bao gồm 9 lĩnh vực được khắc trên các bức tường cẩm thạch trong một nhà nguyện tại Viện Pasteur Paris nơi ông an nghỉ. Đó là: phi đối xứng phân tử, sự lên men, những nghiên cứu về cái gọi là sự tự sinh (spontaneous generation), các nghiên cứu về rượu vang, bệnh của tằm, nghiên cứu về bia, các vaccine bảo vệ và dự phòng bệnh dại. Mặc dù Pasteur thực ra chú ý nhiều đến các vấn đề triết học rộng lớn và các chủ đề khoa học cơ bản hơn là các vấn đề y học hẹp, xét về mặt lịch sử y học, ông được hậu thế nhớ tới chủ yếu ở những khía cạnh thực tiễn của những công trình có liên quan trực tiếp đến nội dung giúp hiểu rõ và ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm.

Louis Pasteur đang nghiên cứu bệnh dại.

Những nghiên cứu về cấu trúc tinh thể, tính đồng phân lập thể (stereoisomerism), và tính bất xứng phân tử dường như xa lạ với ngành vi sinh học y học, nhưng công trình này chính là sợi chỉ nối kết đã dẫn dắt Pasteur qua mê cung nghiên cứu. Pasteur phát hiện ra một số phân tử hữu cơ có dạng đối xứng, tức là, có dạng tả triền và hữu triền, hơi giống như hai chiếc găng của đôi găng. Khi Pasteur tiếp tục lần theo đặc trưng nổi bật này từ các tinh thể sang các vi sinh vật, ông ta nhận thấy rằng tính bất đối xứng phân tử là một tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt những tiến trình hóa học của các hiện tượng sống khác với những tiến trình của thế giới bất động (inanimate world).

Trong những phát biểu của Louis Pasteur được trích dẫn nhiều nhất có liên quan đến tầm quan trọng của lý thuyết và vai trò của may rủi trong sự khám phá. Pasteur nhấn mạnh rằng lý thuyết cũng quan trọng như thực hành, mặc dù ông chấp nhận ý kiến cho rằng, vì lợi ích của quốc gia, giáo dục khoa học nên phù hợp với các yêu cầu kỹ nghệ và thương mại. Pasteur lập luận “không có lý thuyết, thì thực hành chỉ là công việc do thói quen”. Khi được hỏi về ứng dụng của một khám phá khoa học thuần túy, Pasteur thích đặt câu hỏi này ở dạng: “Thế thì công dụng của một đứa bé mới sinh là gì?”. Do tình cờ, Pasteur phát hiện nấm mốc mọc trên những dung dịch của một số chất hóa học hữu cơ được cho lên men ở dạng hữu triền nhưng không mọc ở dạng đối xứng. Luôn tin rằng “trong lĩnh vực quan sát, cơ hội chỉ xảy ra khi đầu óc có chuẩn bị”. Pasteur luôn áp dụng những gì rút ra từ quan sát này cho các nghiên cứu cơ bản về vai trò của các vi sinh vật trong sự lên men.

Khi được bổ nhiệm là Giáo sư môn Hóa học và Trưởng khoa Các Khoa học tại Đại học Lille, ông được các nhà kỹ nghệ địa phương đề nghị giúp đỡ. Áp dụng phương pháp học đã được dùng khi nghiên cứu các tinh thể vào những thùng chứa nước củ cải đường lên men, Pasteur quan sát các vi sinh vật và các hoạt chất của quá trình lên men về mặt quang học. Các nghiên cứu về hóa học lập thể giúp cho ông đưa ra một giả thuyết là tiến trình lên men phụ thuộc vào các vi sinh vật sống hoặc con men. Những suy đoán trước đây về vai trò của men trong sự lên men từng bị các nhà hóa học hữu cơ nổi tiếng nhất của thời này như Justus von Liebig (1803-1873), Jöns Jacob Berzelius (1779-1848), và Friedrich Wöhler (1800-1882), chế giễu. Những người này cho rằng sự lên men chỉ đơn thuần là một tiến trình hóa học, các vi sinh vật là sản phẩm chứ không phải là nguyên nhân gây lên men. Mặc dù ngày nay Pasteur nổi danh, nhưng Leibig đã từng được coi là nhà hóa học hữu cơ vĩ đại nhất của thế kỷ 19. Giống như Pasteur, Liebig nổi tiếng vì tính tình hiếu thắng, ưa gây gổ, nhưng làm được việc, và có khả năng triển khai nhiều dự án trong cùng một lúc.

Khi làm thêm nhiều thí nghiệm trên nhiều cách lên men, Pasteur đi đến kết luận là tất cả các hiện tượng lên men đều do các con men gây ra. Những thay đổi về môi trường, nhiệt độ, tính acid, thành phần của môi trường nuôi và các loại chất độc sẽ tác động đến từng loại con men khác nhau. Ngoài ra, Pasteur cho rằng các con men sống có thể là nguyên nhân gây ra các bệnh truyền nhiễm cũng giống như sự lên men. Mặc dù công trình của Joseph Lister trên hệ thống sát trùng trong phẫu thuật đã dựa rất nhiều trên các nghiên cứu về lên men của Pasteur, nhưng đa số các bác sĩ đều gạt bỏ ý kiến cho rằng những bệnh của rượu nho và bia có liên quan đến những bệnh của người. Tuy thế, những nghiên cứu về sự lên men của Pasteur đã giúp cải thiện việc sản xuất rượu nho, bia, dấm và nhiều thứ khác. Xây dựng các điều kiện kiểm soát sự lên men, sự tiệt trùng một phần (phương pháp tiệt trùng Pasteur) và việc bào chế những chất cấy (inocula) tinh khiết, tất cả công trình này đều được áp dụng ngay vào các vấn đề kỹ nghệ quan trọng về mặt kinh tế.

Từ những nghiên cứu về sự lên men, Pasteur tuyên chiến với học thuyết cũ kỹ về sự tự sinh (spontaneous generation). Bạn bè báo cho ông biết là đừng nên dính vào một cuộc tranh cãi không có phần thắng, bởi vì không thể chứng minh một chuyện không hề xảy ra. Tức là, người ta không thể chứng minh rằng sự tự sinh chưa từng xảy ra, đang xảy ra, hoặc sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Điều chắc chắn là Pasteur không hề tham gia cuộc tranh luận mà không chuẩn bị. Mặc dù trong các sổ ghi chép của mình, Pasteur chú ý nhiều đến học thuyết này, nhưng ngoài mặt, ông ta ra sức triệt bỏ những người ủng hộ thuyết tự sinh và các đồng minh của họ trong ngành y. Sau khi xây dựng mô hình thực nghiệm lấy cơ sở từ những nghiên cứu của Francesco Redi (1626-1698) cho rằng ruồi sinh ra từ thịt để thối, Pasteur bắt đầu chứng minh rằng các vi sinh vật không tự phát sinh ra từ các môi trường được tiệt trùng đúng cách và tất cả những cái gọi là bằng chứng ủng hộ lập luận trái ngược chỉ là do kỹ thuật cẩu thả và tác nhân con người (artefacts) trong thực nghiệm.

Những luận điểm triết học về nguồn gốc sự sống, dù theo chủ nghĩa duy vật hay vô thần, hoặc tôn giáo và chủ nghĩa duy linh tất cả đều không liên quan gì đến những mối âu lo hàng ngày của những nhà làm rượu vang và các phẫu thuật viên. Luận điểm thực tế đưa ra trong khuôn khổ cuộc tranh luận về thuyết tự sinh là, theo các điều kiện hiện thời, sự lên men, sự thối rữa, nhiễm trùng và các bệnh dịch tất cả đều do các vi sinh vật nhất định có mặt trong không khí và trên các bề mặt, bao gồm các dụng cụ, băng gạc, gạc thấm, và bàn tay của các phẫu thuật viên. Khả năng mang trùng của không khí có thể đo được bằng cách hút không khí qua những cái lọc bằng bông vải để lấy các hạt bụi nhỏ có chứa đầy vi trùng. Số lượng và chủng loại các vi trùng trong không khí còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố môi trường; chẳng hạn, thành phần vi trùng trong không khí bệnh viện rất cao khi so sánh với không khí trên núi.

Một trong những thí nghiệm đơn giản và đầy thuyết phục nhất của Pasteur là cách sử dụng những chiếc bình cổ cong. Khi dùng lửa tiệt trùng đúng mức các chất dịch đựng trong các chiếc bình có dạng hình chữ S, thì môi trường bên trong bình sẽ vô trùng dù rằng không khí vẫn có thể chui vào bình. Những người chống đối không thể cho rằng một lực sống bí mật nào đó đã bị tống ra khỏi môi trường, bởi vì nếu đặt nghiêng chiếc bình sao cho môi trường vô trùng được chạm với các hạt bụi nhỏ chứa vi trùng bị bẫy dính nằm phần cong của cổ bình, thì chẳng bao lâu sau đó môi trường sẽ đầy rẫy các vi sinh vật. Mặc dù hầu như tất cả các loại môi trường đều có thể được tiệt trùng bằng các phương tiện tương đối đơn giản, một số trường hợp ngoại lệ sau này được phát hiện là do sự hiện diện của những bào tử chịu được nhiệt, những bào tử này sẽ sinh ra các vi sinh vật khi gặp điều kiện thích hợp. Tin tưởng rằng một cuộc cách mạng trong y học chỉ có thể thực hiện được khi nào những người bảo vệ thuyết tự sinh bị đánh bại hoàn toàn, cho nên Pasteur và các học trò đã đưa ra những kỹ thuật vô trùng giúp cho ngành vi sinh và phẫu thuật hiện đại ra đời. Mặc dù rõ ràng đã phí công vô ích chiến đấu chống lại những người ủng hộ thuyết tự sinh, Pasteur cảnh báo rằng sự phát triển những phương pháp duy lý nhằm mục đích ngăn ngừa vào điều trị bệnh tật còn tùy thuộc vào việc có loại trừ được học thuyết sai lầm về sự tự sinh hay không.

Quá biết rằng trong y giới còn có nhiều người vẫn hoài nghi về các học thuyết của mình, cho nên Pasteur chưa muốn tấn công thẳng vào những bệnh tật ở động vật bậc cao. Tuy nhiên, năm 1865, thể theo lời yêu cầu của bạn mình là Jean Baptiste Dumas (1800-1884) và ông Bộ trưởng Canh nông, Pasteur bắt đầu tham gia nghiên cứu những bệnh trên tằm. Đến năm 1870, Pasteur chứng minh có hai thứ bệnh do vi sinh vật gây cho tằm. Tuy nhiên, tình trạng đe dọa cho kỹ nghệ tằm tơ của Pháp lại là kết quả của nhiều mối tương tác phức tạp giữa các yếu tố môi trường, thiếu dinh dưỡng và vi sinh vật. Nghiên cứu về bệnh của tằm là sự quá độ giữa các nghiên cứu về sự lên men và những nghiên cứu về các tác nhân vi sinh gây bệnh than, bệnh tụ huyết trùng ở gà (còn gọi là bệnh tả gà, tác nhân gây bệnh là Pasteurella multocida), bệnh đóng dấu lợn (swine erysipela do Erysipelothrix rhusiopathiae), sốt hậu sản, bệnh tả và bệnh dại. Khi Pasteur tin tưởng nhiều hơn về khả năng ứng dụng của học thuyết bệnh là do vi trùng, ông tìm được nhiều cộng tác viên có tài để triển khai các thí nghiệm trên động vật bậc cao và thậm chí trên bệnh nhân nữa. Trái với những điều thần thánh hóa về Pasteur, không phải tất cả các nghiên cứu của ông đều thành công. Lấy ví dụ, những nghiên cứu về một vi sinh vật tìm thấy trên các nạn nhân bị bệnh hậu sản khiến ông phải cảnh báo nhân viên bệnh viện là họ đã mang vi khuẩn từ phụ nữ nhiễm bệnh sang phụ nữ khỏe mạnh, nhưng cũng giống như Oliver Wendell Holmes và Ignaz Philipp Semmelweis, ông không thuyết phục được các thầy thuốc là cần phải thay đổi cách tiếp cận của họ đối với sản khoa và phụ khoa. Thật vậy, một đối thủ bị xúc phạm đã thách đấu Pasteur vì ông này dám công kích danh dự ngành y. Tình trạng thù địch mang tính cá nhân và dữ dội như thế ít khi gặp trong cộng đồng y khoa và y tế công cộng. Lấy ví dụ, nhiều nhà vệ sinh học của một xứ sở ưa dựa vào thống kê như nước Pháp đã hồ hởi đưa công trình của Pasteur vào các chiến dịch cải cách y tế công cộng của họ. Mặc dù một số thầy thuốc người Pháp chống lại ý kiến của Pasteur bởi vì họ sợ rằng một hình thức y học dự phòng mới sẽ trở thành mối đe dọa cho ngành y, nhưng đến năm 1895 thì sự chống đối này hầu như không còn nữa bởi vì người ta thấy được các công cụ điều trị mới đầy uy lực này sẽ làm cho ngành y phát triển mạnh hơn. Dĩ nhiên cuối cùng Pasteur và viện nghiên cứu mang tên ông trở thành biểu tượng của nền khoa học nước Pháp. Theo nhà khoa học Françoise Jacob (1920-), người được giải Nobel, khi một bộ trưởng đề nghị một số thay đổi tại Collège de France, tướng de Gaulle (1890-1970) đáp ngay: “Có ba thứ không được động đến tại nước Pháp: Collège de France, viện Pasteur, và tháp Eiffel”.

Chính bệnh dại, một bệnh tuy hiếm nhưng gây chết người, và vi sinh vật không thấy được của nó mới là thắng lợi nổi tiếng nhất của Pasteur. Trong quá trình tìm ra một thứ vaccine bảo vệ chống lại bệnh dại, Pasteur đã đưa ra nhiều chứng cứ bảo vệ cho luận điểm là chỉ có ngành vi sinh mới chứng minh được vai trò “vô cùng lớn của những vật thể vô cùng nhỏ trong tự nhiên”. Bước đầu tiên trong tất cả các nghiên cứu trước đây của ông về từng chứng bệnh là phải tìm cho ra vi sinh vật gây bệnh, nhưng mọi cố gắng để phát hiện tác nhân gây bệnh dại đều công cốc. Vào một thời điểm khi mà các nhà khoa học mới bắt đầu đề ra các vấn đề về gây miễn dịch, Pasteur đã tạo ra một cú đột phá trí tuệ khi phát triển một loại vaccine chống lại virus không thấy được. Vào thời kỳ này, thuật ngữ virus quen được dùng theo nghĩa không chuyên để chỉ một tác nhân hoặc chất độc gì đó gây ra bệnh tật. Theo thuật ngữ virus học hiện đại, bệnh dại là bệnh viêm não cấp tính chết người do nhóm virus ưa thần kinh thuộc chi Lyssavirus, họ Rhabdoviridae. Đa số các ca dại là do động vật có vú cắn. Sau thời gian ủ bệnh khoảng từ vài tuần đến vài tháng, virus tìm đường chui vào hệ thần kinh trung ương và tăng sinh tại đây. Virus dại sau đó theo dây thần kinh phát tán đến các tuyến nước bọt và các cơ quan khác. Y học hiện đại đã tạo ra một cơ chế bất ngờ giúp cho bệnh dại lây truyền từ người sang người. Có ba người chết vì bệnh dại trong năm 2004 sau khi được ghép tạng (phổi, thận, gan) có virus dại từ cùng một người cho. Người cho này không có triệu chứng dại trước khi chết vì xuất huyết não. Trước đây đã có các báo cáo cho thấy ít nhất có 8 người mắc phải virus dại qua ghép giác mạc.

Nếu nhìn vào những khó khăn khi theo đuổi dự án này, thì quả thật là khó hiểu vì sao Pasteur lại quyết định nghiên cứu một bệnh hiếm gặp như bệnh dại trong khi có quá nhiều bệnh thông thường dễ tiếp cận hơn nhiều. Có nhiều câu trả lời được đưa ra. Có lẽ đó là do ký ức ám ảnh về tiếng hú của lũ chó sói điên quanh vùng Arbois khi Pasteur còn là một cậu bé, và tiếng gào của các nạn nhân khi bị đốt mô để điều trị các vết thương chó cắn. Nói một cách khác, sự lựa chọn có thể đã phản ánh tham vọng của Pasteur và cái khiếu thiên về những cảm xúc mạnh mẽ. Tuy nhiên, những việc mà Pasteur đã làm cũng đủ đưa ông vào hàng ngũ những người bất tử trước khi dấn thân vào một dự án rõ ràng là nguy hiểm, bởi vì việc nghiên cứu bệnh dại phải bắt đầu với con vật đáng sợ nhất, đó là con chó dại.

Một yếu tố khác ảnh hưởng đến sự lựa chọn của Pasteur có thể là sự căng thẳng giữa tư tưởng lên án việc lấy con người làm vật thí nghiệm và ước muốn ngăn chặn bệnh cho người. Pasteur tin rằng việc đem con người ra làm thí nghiệm không những chỉ là phi đạo đức, mà còn là tội ác nữa. Hơn thế nữa, con đường đi vào nghiên cứu các bệnh của người của ông rõ ràng là không suôn sẻ bởi vì trong thâm tâm ông không ưa việc mổ sống con người và phần nào ông cũng không ưa các thầy thuốc. Để dung hòa những mâu thuẫn này, Pasteur cần đến một chứng bệnh vừa có ở súc vật vừa có ở người, chắc chắn sẽ gây chết, cho nên dù điều trị thí nghiệm như thế nào đi nữa thì kết quả cũng không thể nào xấu hơn được. Dù với động cơ nào đi nữa, thì Pasteur cũng đã chọn lựa đúng; thành công của ông trong nỗ lực tìm ra một thứ vaccine phòng dại đã được khắp thế giới chào đón như là một thành quả vĩ đại nhất trong ngành vi sinh. (Những người lớn tuổi hẳn còn nhớ sự sợ hãi đối với sốt bại liệt như thế nào, cũng đã trải qua những tình cảm tương tự như hân hoan, hy vọng và tri ân Jonas Salk (1914-1995) và vaccine ngừa bại liệt trong thập niên 1950). Con người Pasteur bằng xương bằng thịt, một nhà khoa học vĩ đại chắc chắn cũng có những sai lầm và thất bại, nhưng tất cả đều biến mất dưới sức nặng của huyền thoại, tính lãng mạn và lòng ngưỡng mộ. Được công chúng tôn sùng là thiên tài, là anh hùng, là bậc thánh, Pasteur, hoặc Pasteur huyền thoại đã trở thành cái đích của các sử gia khoa học của thế kỷ 20 vừa qua.

Một yếu tố khá rắc rối là làm sao đoán được hậu quả vết cắn của một con chó dại khi đánh giá vaccine ngừa dại của Pasteur. Đó là, nếu mắc phải bệnh dại thì tử vong là điều chắc chắn, nhưng không phải ai bị chó dại cắn cũng bị bệnh dại, và không phải mọi “chó điên” đều là chó dại. Ngoài ra, thời kỳ ủ bệnh của bệnh dại rất thay đổi đến nỗi trong một số trường hợp khó mà đánh giá được mối liên hệ giữa vết cắn và bệnh dại. Phẫu thuật gia người Anh, John Hunter (1728-1793) có báo cáo trường hợp một con chó được cho là đã cắn 21 người. Những người này đều không được chăm sóc y tế, nhưng chỉ có một người bị bệnh. Nếu tất cả những người này được điều trị, thì bác sĩ điều trị sẽ nói rằng đã chữa khỏi 20 người. Tuy nhiên, khó có trường hợp bác sĩ bỏ qua không điều trị, thậm chí trong trường hợp thuốc của họ gây hại nhiều hơn là lợi. Lấy ví dụ, thầy thuốc nổi danh thời Trung cổ là Arnau de Villanova (khoảng 1235-1311) tin rằng không được để vết thương do chó dại cắn lành miệng. Phải để vết thương hở miệng ít nhất 40 ngày bằng cách cho đỉa hút máu, giác hút lấy máu và đắp các thứ độc hại lên chỗ chó cắn. Quan điểm lấy độc trị độc là cơ sở của các bài thuốc có chứa hoặc những thứ sâu nằm dưới lưỡi con chó điên hoặc nằm trong tim của con chó săn. Theo truyền thống dân gian Anglo-Saxon, ngay cả chó điên cũng có giá trị làm thuốc. Bột làm từ đầu con chó điên trộn với rượu vang được coi là thuốc để chữa bệnh tràng nhạc (scrofula)-một dạng lao hạch nằm ở vùng cổ.

Để phân lập virus bệnh dại và điều chế ra vaccine, Pasteur cần phải có một môi trường cấy tác nhân gây bệnh trong phòng thí nghiệm. Điều rõ ràng là ngày thường khó mà tìm ra được chó dại và để được chúng hợp tác lại càng khó hơn nữa. Không có ngạc nhiên, khi chẳng có khu dân cư nào lại thích ở gần mấy chiếc cũi nhốt chó dại, cũng như những bệnh xá điều trị bệnh AIDS trong thập niên 1980 hoặc một bãi rác chứa chất độc hại. Người ta sử dụng một hệ thống khá tin cậy và tương đối an toàn để lây truyền bệnh dại, là khoan sọ các động vật thí nghiệm như thỏ và các động vật khác và tiêm chất gây nhiễm vào não xuyên qua màng cứng. Bệnh dại được truyền từ thỏ sang thỏ sao cho lúc nào cũng có sẵn “virus ổn định” (fixed virus), với độc lực không đổi và thời gian ủ bệnh rút ngắn. Cuối cùng, Pasteur và các đồng nghiệp phát hiện rằng khi cho hong khô đoạn tủy sống của con vật bị dại với những khoảng thời gian tăng dần, thì con virus dại dần dần yếu đi. Để kiểm chứng việc có thể dùng chất hong khô này làm vaccine ngừa bệnh được hay không, người ta đem tiêm cho chó hàng ngày với hỗn dịch có chứa tủy sống với độc lực càng ngày càng tăng. Khi hoàn tất quy trình này, lũ chó đề kháng với bệnh dại ngay cả với những liều độc lực cao nhất được tiêm thẳng vào trong não. Đến năm 1885, Pasteur hài lòng vì ông có thể tạo được tính miễn dịch bệnh dại cho chó.

Câu hỏi về tính an toàn và hiệu quả của vaccine này trên con người phải đặt ra một khi người ta biết được các kết quả đạt được ở chó. Bảo vệ người bằng cách chích ngừa cho tất cả số chó ở Pháp là một việc không thể nào làm được; hơn nữa, động vật hoang dã là một ổ dự trữ bệnh vô tận. Rõ ràng là vaccine dại sẽ không được đem ra tiêm chủng hàng loạt bởi vì bệnh dại ở người rất ít khi xảy ra cho nên không có cơ sở để tiến hành một loạt mũi tiêm đau đớn có khả năng gây nguy hiểm. Tuy vậy, vaccine của Pasteur là niềm hi vọng duy nhất để chống lại cái đau đớn, đau khổ và cái chết hầu như chắc chắn một khi mắc phải bệnh này. Vào ngày 6 tháng 7 năm 1885, cậu bé 9 tuổi Joseph Meister được dẫn tới phòng thí nghiệm của Pasteur. Cậu bị một con chó dại tấn công hai ngày trước đó, bị cắn ít nhất 14 vết, có vết rất sâu. Các bác sĩ khám không chút nghi ngờ là cậu bé sẽ mắc bệnh dại và chết là điều không thể tránh khỏi. Sau khi tham khảo ý kiến các đồng nghiệp tại Hàn lâm viện Y học, Pasteur bắt đầu quy trình tiêm chủng. Mặc dù có một số khó chịu do phải tiêm nhiều ngày, nhưng Joseph bình phục hoàn toàn. Bệnh nhân kế tiếp là một cậu bé 15 tuổi, bị một con chó dại cắn dã man 6 ngày trước khi được điều trị. Những tin tức về việc sử dụng thành công vaccine của Pasteur được đón nhận với hai thái cực trái ngược: bị công kích dữ dội và hy vọng quá mức. Pasteur bị các bác sĩ, thú y sĩ, những người chống đối việc mổ sống con người và những người chống việc tiêm chủng hè nhau công kích, trong khi đó các nạn nhân hoảng sợ vì bị các động vật dại (hoặc cho là dại) cắn, đã bao quanh phòng thí nghiệm của ông để xin được giúp đỡ.

Những đặc điểm bất định sẵn có trong diễn biến của bệnh dại ở người và vaccine chưa tinh khiết đã dẫn tới những trường hợp thất bại và thành công đầy bi thảm. Sự thành công khi tiêm chủng phụ thuộc vào thời điểm bắt đầu tiêm có sớm hay không và phản ứng của người được tiêm đối với vaccine. Không thể tránh khỏi một số trường hợp tử vong do các phản ứng đối với vaccine. Những người công kích luôn luôn tố cáo sẽ là vô nghĩa nếu sự thành công chỉ tính theo số người không chết vì bệnh dại. Khi một vài bệnh nhân bị liệt, họ gọi ông là kẻ giết người và kết tội ông đã gây nhiễm cho con người với thứ “bệnh dại phòng thí nghiệm”.

Tuy nhiên, khi các nạn nhân bị chó cắn so sánh những nguy hiểm nếu theo cách điều trị của Pasteur với bệnh dại, thì hàng ngàn người đều nhất quyết cho rằng vaccine ngừa dại là một chiến thắng vĩ đại trong trận chiến giữa khoa học và bệnh tật và họ chọn vaccine. Trên khắp thế giới, mọi người đều nhắc đến lời của Joseph Lister tri ân Pasteur: “Thành thật mà nói thì trên toàn thế giới không có người nào mà y học mang ơn nhiều hơn so với Ngài”. Có lẽ chỉ có đối tác người Đức là Robert Koch mới không nhất trí sự đánh giá này. Sự thù nghịch giữa Koch và Pasteur là do, ít nhất phần nào, sự kình địch mang tính dân tộc bùng lên từ cuộc chiến tranh Pháp-Phổ, nhưng cũng do những sự khác biệt lớn về mục đích, mục tiêu, phong cách khoa học và tính cách của mỗi người.

Báo cáo của Pasteur về cách điều trị cho Joseph Meister được trình bày tại Hàn lâm viện Khoa học Paris vào tháng 10 năm 1885. Báo chí đã nhanh chóng phổ biến các tin tức về vaccine phòng bệnh dại và làm cho công chúng quan tâm đến thuyết bệnh là do vi trùng và đồng thời cũng mong mỏi có được ngay cách điều trị cho những bệnh chết người khác. Những nạn nhân bị chó dại và sói cắn đều đến xin Pasteur điều trị. Một ví dụ, khi một con chó dại cắn 7 con chó và 6 đứa trẻ tại Newark, New Jersey, người ta gởi bọn trẻ sang Pháp để tiêm vaccine Pasteur. Khi về Mỹ, họ tổ chức gặp gỡ công chúng, giúp cho mọi người chú ý thêm về công trình của Pasteur và học thuyết bệnh là do vi trùng gây ra của ông. Trong thế kỷ 20, những nỗ lực dự phòng bệnh dại ở Mỹ chủ yếu nhắm vào các thú nuôi, đại diện cho phần lớn các trường hợp bệnh trước năm 1960. Nhờ thành công của những chiến dịch như thế, đến năm 2000, chỉ có 10% các ca dại mới được quy cho thú nuôi trong nhà. Những trường hợp tử vong ở người do bệnh dại đã giảm từ trên 100 ca/năm vào những năm đầu thập niên 1900 xuống còn 2 ca/năm. Tuy nhiên, mỗi năm có khoảng 40.000 người tại Mỹ được tiêm ngừa dại sau phơi nhiễm, chủ yếu là do tiếp xúc những con vật bị dại như chồn hương (raccoons), sói đồng (coyotes), và dơi. Các viên chức liên bang và tiểu bang đã cố tìm cách thanh toán số chồn hương dại bằng cách dùng máy bay thả những thứ mồi có chứa vaccine ngừa dại theo đường uống. Pháp và Thụy Sỹ hiện nay không có bệnh dại là nhờ sử dụng vaccine uống. Tuy vậy, về mặt thống kê, dơi dại lại nguy hiểm hơn chồn hương dại.

Ngoài đời, Pasteur nhấn mạnh vào một phương pháp khoa học duy lý, nhưng với chính mình, ông ta theo đuổi một cách tiếp cận mang tính kinh nghiệm nhiều hơn, thường dựa theo những lý thuyết có thể gọi là bất hợp lý. Đồng nghiệp của ông, bác sĩ Emile Roux, khuyên ông nên thận trọng và phê phán cách tiếp cận của Pasteur đối với việc thí nghiệm trên con người. Một số sử gia khoa học đã mô tả Pasteur là “người độc đoán, phản động về mặt chính trị, tự lừa dối mình, quá quan tâm đến quyền ưu tiên và công trạng, hẹp hòi với nhân viên, tàn nhẫn với người đối nghịch, và quá tự tin đến mức bất cẩn đặt bệnh nhân vào tình thế rủi ro”. Tuy nhiên, nhiều học giả và nhà khoa học khác thì cho rằng Pasteur đã tính toán các nguy cơ căn cứ theo những thông tin mà ông có được và những nguy hiểm mà các bệnh nhân của ông phải đối mặt. Pasteur là người của công chúng và là một nhà khoa học cho nên ông ta rất khéo khêu gợi sự chú ý và thuyết phục người khác theo quan điểm của mình. Rõ ràng là Pasteur đã chọn cách giấu kín những khía cạnh không rõ ràng hoặc không thuận lợi trong công trình về bệnh dại và bệnh than của mình. Ít nhất đã có hai người bệnh được tiêm chủng vaccine ngừa dại trước Joseph Meister, nhưng do kết quả không rõ ràng cho nên không được công bố. Cũng không có gì ngạc nhiên, khi các đối thủ của Pasteur cho rằng vaccine ngừa dại của ông là nguy hiểm và những người bảo vệ ông thì lại nhấn mạnh về mặt an toàn tương đối của vaccine khi phải đối diện với một thứ bệnh chết người. Những người ủng hộ Pasteur nhấn mạnh rằng mọi cách điều trị đều có những nguy cơ chưa biết được và những nguy cơ vốn có trong bệnh mà nhà nghiên cứu chọn để nghiên cứu. Các sử gia khoa học cũng đã phê bình kịch liệt công trình của Pasteur về vaccine, nhưng phải thừa nhận rằng nhiều điểm khó khăn cũng như bất định mà Pasteur và nhiều người cùng thời với ông gặp phải khi cố tìm ra những thứ vaccine hữu hiệu và an toàn thì nay vẫn còn chưa có lời giải.