ROBERT KOCH
Khác với Louis Pasteur, con đường đến với vi sinh học bắt đầu bằng hóa học, Robert Koch (1843-1920) đến với vi trùng học với tư cách một thầy thuốc, và việc nghiên cứu của ông trước hết phát xuất từ những vấn đề y học và phương pháp nghiên cứu. Không có năng khiếu gây được những ấn tượng mạnh mẽ, tài năng của Koch nằm ở chỗ chịu chú ý đến phần chi tiết và những kỹ thuật đơn giản nhưng tài tình đã làm cho ngành vi sinh học hiện đại phát triển. Đối với những người cùng thời, Koch là “một thiên tài với vai trò một nhà kỹ thuật và một nhà vi trùng học”.
Robert Koch.
Robert Koch là con thứ ba trong 13 người con của Merman Koch và Mathilde. Cha ông làm quản lý hầm mỏ. Khi Koch bắt đầu theo học y tại Đại học Göttingen, thì khoa y tại đây đã có nhiều nhà khoa học xuất sắc, nhưng trong thập niên 1860, thậm chí đến Jacob Henle cũng không hề chú ý đến mối liên hệ có thể có giữa vi khuẩn và bệnh tật. Năm 1866, Koch nhận bằng bác sĩ và đậu kỳ thi y khoa quốc gia. Ông trải qua nhiều tháng tại Berlin để quan sát cách điều trị tại bệnh viện Charité và tham dự những bài giảng của vị bác sĩ nổi tiếng nhất của Đức thời bấy giờ,
Rudolf Virchow (1821-1902), người khai sinh ra môn bệnh lý học tế bào.
Có phần lãng mạn, mặc dù tính tình khá lạnh lùng, lúc đầu Koch chỉ mong được làm bác sĩ trên tàu thủy hoặc bác sĩ phẫu thuật quân y, nhưng ông ta từ bỏ mục tiêu này khi đính hôn với Emmy Fraatz. Vị trí đầu tiên của ông là y sĩ trợ lý tại Bệnh viện Đa khoa Hamburg đã giúp ông một số kinh nghiệm khi làm việc với bệnh tả, chứng bệnh mà ông gặp lại sau này. Năm 1867, sau khi tìm được một chỗ làm khác và mở được một phòng mạch tư khiêm tốn, ông cưới Emmy và dường như sắp phải bị cột suốt đời tại vùng thôn quê với chân thầy thuốc đa khoa và bác sĩ phụ trách y tế của một thị trấn. Khi chiến tranh Pháp - Phổ xảy ra năm 1870, Koch gia nhập vào quân y. Cũng giống như nhiều bác sĩ khác, Koch phát hiện ra rằng chiến tranh quả thực là một trường y tuyệt vời. Kinh nghiệm với sốt thương hàn và các vết thương chiến trường đã giúp rất nhiều cho công việc nghiên cứu của ông sau này. Mặc dù công việc bận rộn, Koch vẫn tìm được thời gian dành cho các thú vui như lịch sử tự nhiên, khảo cổ học, chụp ảnh và nghiên cứu các vấn đề liên quan đến vệ sinh, y tế công cộng và vi trùng học.
Một chuyến đi năm 1875 để tham dự một số hội nghị y học và thăm các phòng thí nghiệm khoa học đã động viên ông đi vào con đường nghiên cứu khoa học. Vì thế, khi bệnh than xuất hiện tại thị trấn ông làm việc, Koch bắt tay nghiên cứu mối liên hệ giữa vi trùng và chứng bệnh. Bệnh than chủ yếu là một bệnh của cừu và trâu bò, nhưng có nhiều thể bệnh xảy ra ở người: như những chỗ loét khu trú trên da tạo thành các mụn mủ, một thể bệnh nguy hiểm gọi là bệnh than thể tiêu hóa và bệnh viêm phổi ác tính là bệnh của công nhân chải sợi len. Những người ủng hộ thuyết vi trùng gây bệnh đã chú ý đặc biệt đến bệnh than và một loại trực khuẩn tương đối lớn liên quan đến bệnh này. Franz Pollender (18001879) đã từng thấy vi trùng này trong máu các nạn nhân bệnh than từ năm 1849, nhưng mãi đến năm 1855 mới công bố phát hiện của mình. Pierre Rayer (1793-1867) cho rằng đã từng thấy trực khuẩn trong máu cừu mà ông ta đã tiêm bằng máu lấy ở con vật chết vì bệnh than. Tuy nhiên, Casimir Joseph Davaine (1812-1882) mới chính là người đầu tiên trình bày bằng chứng rõ ràng, dù rằng hơi gián tiếp, mối liên hệ giữa trực khuẩn và bệnh than. Davaine chứng minh rằng khi tiêm máu lấy từ nạn nhân bệnh than sẽ làm lây truyền bệnh than cho động vật thí nghiệm. Năm 1863, Davaine công bố nhiều tài liệu về tính lây nhiễm của những thể “dạng như sợi chỉ” xuất hiện trong máu của các con vật sắp chết vì bệnh than. Những trực khuẩn tương tự cũng có thể tìm thấy trên các mụn mủ ác tính ở người. Những thí nghiệm này đều có tính gợi ý nhưng thiếu thuyết phục; Davaine không phân lập được và làm tinh khiết được trực khuẩn bệnh than cũng như đáp ứng các tiêu chuẩn chứng cứ như Jacob Henle đề nghị.
Năm 1876, Koch đã lấy được mẫu nuôi cấy Bacillus anthracis và trình bày tỉ mỉ vòng đời của trực khuẩn này cũng như diễn biến tự nhiên của bệnh. Giống như Davaine, Koch đã cấy chuyển trực khuẩn bệnh than từ trâu bò bị nhiễm sang thỏ và chuột nhắt. Khác với những người đi trước, Koch phát hiện rằng mình có thể nuôi trực khuẩn này bên ngoài cơ thể của động vật còn sống. Sử dụng một chất dịch lỏng lấy từ con thỏ hoặc từ trâu bò làm môi trường cấy, Koch có thể tạo và tinh chế các môi trường cấy vi khuẩn, sau đó có thể tiêm vào các động vật thí nghiệm. Những môi trường thí nghiệm này cũng sản xuất vi khuẩn than như thể mẫu máu lấy từ một con vật nuôi bị mắc bệnh tự nhiên mà trước đây đã được sử dụng. Nhằm duy trì lúc nào cũng có vật liệu chứa vi khuẩn bệnh than mới và để xác định liệu con vi khuẩn này có thay đổi sau một số thế hệ hay không, Koch thực hiện một loạt các đợt tiêm từ chuột sang chuột. Ngay cả khi trực khuẩn này được truyền qua 20 lượt chuột nhắt, chúng vẫn giữa nguyên hình dạng. Những thí nghiệm này đã loại đi khả năng là một chất độc hoặc độc tố nào đó từ con vật ban đầu đã gây bệnh cho những con vật thí nghiệm. Chỉ có một tác nhân có khả năng tăng trưởng trong cơ thể của con vật bị nhiễm mới tạo ra được một chuỗi lây truyền dài như thế.
Trong khi quan sát các trực khuẩn bệnh than nằm trên các lam kính, Koch thấy những chuỗi vi khuẩn dạng sợi chỉ bắt đầu có các bào tử dạng hạt. Khi môi trường mới được thêm vào, thì những bào tử này chuyển thành các trực khuẩn hoạt động, bắt đầu tăng sinh trở lại. Tính chịu đựng các điều kiện khắc nghiệt của bào tử giải thích được nhiều bí mật xoay quanh sự tồn tại của bệnh than trên các đồng cỏ bị vấy nhiễm. Do các bào tử chịu đựng được các điều kiện khắc nghiệt, cho nên xác con vật chết được chôn nông có thể cung cấp đủ bào tử để gây bệnh cho các con vật khác nhiều năm sau đó. Nhờ vậy, khi hiểu được lịch sử tự nhiên của bệnh than, người ta đưa ra ngay các biện pháp phòng bệnh bằng cách xử lý đúng mức xác những con vật bị nhiễm bệnh.
Tin rằng mình đã giải xong bí ẩn của bệnh than, Koch gởi một bảng tường thuật công trình của mình cho Ferdinand Cohn (1828-1898), một nhà thực vật học xuất sắc, là chuyên gia hàng đầu của Đức trong ngành vi trùng học. Bất chấp chút hoài nghi ban đầu, Cohn mời Koch đến Đại học Breslau để trình bày thí nghiệm của mình. Điều chắc chắn là Koch không phải là tay tài tử đầu tiên mạnh bước vào một cộng đồng hàn lâm để tuyên bố rằng mình đã tìm ra một giải pháp cho vấn đề lây nhiễm. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Cohn và các cộng sự nhận thấy rằng các kết quả thí nghiệm và những gì trình bày đều hoàn toàn thuyết phục. Nhờ sự bảo trợ của Cohn, báo cáo ‘Nguyên nhân bệnh than dựa trên vòng đời của Bacillus anthracis’ của Koch được công bố trên tạp chí Những đóng góp cho Khoa sinh học thực vật.
Từ cơ sở của công trình về bệnh than, Koch tự tiên đoán rằng ngành vi trùng học sẽ giúp khống chế các bệnh truyền nhiễm. Nhằm vượt qua sự chống đối của các thầy thuốc và những nhà khoa học bảo thủ, Koch khuyến khích những người ủng hộ thuyết bệnh là do vi trùng học cách nuôi cấy các chủng vi sinh thuần nhất, vất bỏ những công việc cẩu thả và suy đoán, và chứng minh giá trị của ngành vi sinh trong nội dung dự phòng và điều trị bệnh. Về lâu dài, những tiên đoán của Koch đều trở thành sự thật, nhưng chính Pasteur mới là người chế tạo ra vaccine ngừa bệnh than để dự phòng bệnh này trên cừu và bò. Ngoài ra, Pasteur cũng giải thích cách mà con giun đất đã tham gia như thế nào trong chuỗi lây truyền tự nhiên khi chúng đẩy các bào tử trực khuẩn than từ dưới đất sâu lên bề mặt đồng cỏ từ đó chúng gây bệnh cho những gia súc gặm cỏ. Mặc dù chất lượng không nhất thiết phải tương ứng với số lượng, nhưng điều thú vị là Pasteur đã công bố 31 bài báo trong khi đó Koch vỏn vẹn chỉ có 2. Những sự khác biệt trong cách tiếp cận vấn đề cũng như cách để đạt được các giải pháp thực tiễn, càng làm trầm trọng thêm mâu thuẫn giữa Koch và Pasteur. Bằng cách công kích trực tiếp và công khai công trình của Pasteur, Koch cho rằng phải xét lại các kết quả của đối thủ vì Pasteur không đưa ra được các cách cấy thuần chủng và nhấn mạnh đến một thực tế ai cũng biết rõ là Pasteur không phải là thầy thuốc. Đáp trả những ai đã ca ngợi Pasteur là “Jenner thứ 2”, Koch đã khinh bỉ cho rằng công trình của Edward Jenner liên quan đến người chứ không phải cừu.
Hình thành được một vaccine bệnh than an toàn và hữu hiệu dành cho người vẫn còn là một vấn đề đến thế kỷ 21, mặc dù khả năng sử dụng bào tử bệnh than làm vũ khí khủng bố vẫn là một điều khả dĩ. Trong thập niên 1990, việc chủng ngừa bệnh than được coi là nguyên nhân gây ra Hội chứng chiến tranh vùng Vịnh trong các binh sĩ Mỹ bị buộc phải tiêm chủng bắt buộc. Mặc dù hiệu quả của vaccine bệnh than còn tranh cãi, những người chống đối lập luận rằng những thay đổi trong vaccine chưa được kiểm định đầy đủ và chưa thực hiện các quy định bắt buộc khi sản xuất. Mối nguy hiểm của việc sản xuất trên quy mô lớn số lượng bào tử bệnh than sử dụng làm vũ khí khủng bố được phát hiện qua một vụ dịch bệnh than xảy ra vào năm 1979 tại Sverdlovsk, Nga, gần nhà máy Biopreparat, là nơi nghiên cứu các vũ khí hóa học và sinh học. Lúc đầu, nhà cầm quyền Liên Xô quy trách nhiệm cho thịt bị vấy bẩn. Trong lịch sử Nga đã từng xảy ra nhiều trường hợp bệnh than liên quan đến những vấn đề về chăn nuôi và chế biến thịt. Tuy nhiên, 68 trường hợp tử vong xảy ra trong vụ dịch 1979 rõ ràng là do bệnh than hít phải chứ không phải bệnh than qua đường tiêu hóa. Đến thập niên 1990, những vấn đề về bản chất và mức độ của chương trình Biopreparat lộ diện.
Sau khi chứng minh nguyên nhân của chứng bệnh cụ thể, Koch quay sang vấn đề chung trong nhiễm trùng vết thương, vấn đề mà nhà phẫu thuật người Anh, Joseph Lister bắt đầu khống chế được thông qua hệ thống sát trùng. Nhiều nhà nghiên cứu đã thấy được vi trùng trong các bệnh nhiễm trùng sau chấn thương, nhưng họ không xác định được những vi trùng đó có phải là các thực thể không chuyên biệt, là nguyên nhân gây bệnh, hoặc sản phẩm của một số tiến trình bệnh lý. Phần nào đó, công trình của Koch về nhiễm trùng vết thương là nhằm hỗ trợ quan niệm cho rằng vi trùng hiện diện như những loài riêng biệt, đã được xác định. Karl von Nägeli (1817-1891), một nhà thực vật học xuất sắc người Thụy Sỹ, giữ một vị trí đặc biệt trong lịch sử ngành di truyền học vì đã không đánh giá đúng lý thuyết di truyền (inheritance) của Gregor Mendel (1822-1884). Nägeli công kích quan niệm về loài vi trùng riêng biệt. Nếu vi khuẩn không hiện diện như loài riêng biệt, thì chẳng có ý nghĩa gì khi nói rằng một vi sinh vật cụ thể - như trực khuẩn than Bacillus anthracis- lại gây ra một bệnh chuyên biệt. Nhiều người chống đối học thuyết về nguyên nhân chuyên biệt này cho rằng họ đã “thấy” sự chuyển đổi giữa nhiều loại vi trùng. Tin rằng những kiểu quan sát như thế bao giờ cũng do các kỹ thuật xét nghiệm tùy tiện, Koch cho rằng nhà khoa học cần có các phương pháp đáng tin cậy nhưng đơn giản nhằm đưa ra được các môi trường thuần khiết và chuẩn hóa các phương tiện chuẩn bị vi trùng để đem ra xét nghiệm dưới kính hiển vi.
Những nghiên cứu về các bệnh nhiễm trùng có nguyên nhân từ chấn thương đã khiến Koch tin rằng mỗi tình trạng nhiễm trùng là do một loài vi sinh vật khác nhau gây ra. Ông cũng chứng minh được là trong máu và mô của động vật khỏe mạnh không hề tìm thấy vi trùng. Tiếc thay, cộng đồng y khoa diễn giải sai bằng chứng của Koch về khả năng ứng dụng thuyết bệnh do vi trùng vào các nhiễm trùng vết thương, cho đó chỉ là những chuyện ít gặp trong phòng thí nghiệm liên quan đến sự hoại thư và nhiễm trùng huyết trên chuột nhắt. Mặc dù Koch coi trọng tính chính xác các kỹ thuật của mình, nhưng ông không có khiếu như Pasteur trong việc chọn và bố trí những sự kiện gây ấn tượng, gây chú ý. Các đồng nghiệp của Koch hẳn đã quan tâm nhiều hơn nếu ông chứng minh được mối liên hệ giữa công trình của mình về sự nhiễm trùng trên chuột nhắt và bệnh của người. Trong trường hợp này, rõ ràng là bất lợi khi làm việc một mình tại vùng thôn dã, thay vì tại một trung tâm y khoa đô thị dễ dàng tiếp cận với các phương tiện lâm sàng. Tuy nhiên, Joseph Lister đã hiểu rõ những tác động từ công trình của Koch, và chính Lister giữ vai trò chính giúp cho tài liệu Nguyên nhân các bệnh nhiễm trùng do chấn thương của Koch dịch sang tiếng Anh.
Sau nhiều năm kiên trì theo đuổi công việc nghiên cứu nhưng vẫn duy trì phòng mạch tư, cuối cùng Koch cũng chọn được chức vụ lãnh đạo một phòng thí nghiệm nghiên cứu vi trùng mới thành lập nằm trong Văn Phòng Y tế Hoàng gia tại Berlin. Đến năm 1885, ông trở thành Giáo sư môn Vệ sinh tại Đại học Berlin và là Giám đốc Học viện Vệ sinh của trường Đại học, tước vị này ông giữ đến năm 1891 khi Viện các bệnh truyền nhiễm được thành lập dành riêng cho ông. Dù rằng thành công trong nghề nghiệp, nhưng đời tư của Koch hoàn toàn không được như ý cho tới khi ông gặp được cô Hedwig Freiberg mới 17 tuổi, và ông li dị người vợ đầu tiên. Vào thời điểm này, cô con gái là Gertrude đã cưới phụ tá nghiên cứu của ông là Eduard Pfuhl.
Chuyện tình lãng mạn giữa một nhà khoa học tiếng tăm và cô người mẫu trẻ đã dấy lên một “cơn bão đạo đức” trong cộng đồng khoa học và y học. Tại hội nghị Các Thầy thuốc Đức năm 1892, người ta thích thú nhiều vì những câu chuyện phóng túng của Koch hơn là các bài báo khoa học. Koch đã 50 tuổi, còn cô Hedwig mới 20 khi họ cưới nhau vào năm 1893. Bực mình vì cộng đồng y học hoài nghi thuyết bệnh là do vi trùng gây ra, Koch tin rằng muốn tiến bộ thì phải tìm ra các phương pháp tin cậy để có được các canh cấy thuần khiết. Cơ thể động vật có thể là một công cụ tối ưu để nuôi cấy các vi trùng gây bệnh, nhưng các nhà vi trùng học buộc phải nuôi cấy những chủng thuần khiết bên ngoài cơ thể nhằm chứng minh vai trò gây bệnh của vi trùng. Thấy rằng hầu như không thể nào tạo được một môi trường chung phù hợp cho tất cả các vi trùng, Koch tìm ra một phương pháp có thể chuyển đổi các canh thang (nutrient broth) thành dạng đặc trên đó các khuẩn lạc tụ lại thành từng đảo, thay vì giống như các khuẩn lạc vi nấm thường thấy trên bánh mì cũ hoặc khoai tây. Các kiến thức về nấu ăn từ xa xưa đã giúp giải quyết vấn đề khi thay gelatin bằng chất thạch agar-agar. (gelatin chảy thành nước ở thân nhiệt bình thường 37oC; nhiều loại vi trùng tiêu hóa được gelatin; còn agar là chất trơ khi vi trùng tiêu hóa và vẫn cứng khi nhiệt độ lên đến 45oC). Việc sử dụng thạch agar để phân lập các khuẩn lạc vi trùng còn được gọi là “Kỹ thuật đĩa thạch của Koch”. Koch cho rằng để nghiên cứu các bệnh truyền nhiễm điều cơ bản là phải có môi trường cấy thuần khiết. Richard Julius Petri (1852-1921), làm việc tại Viện Vệ sinh của Koch là người phát minh ra một chiếc đĩa đặc biệt dùng cho các môi trường cấy agar. Nhờ việc sử dụng rộng rãi đĩa Petri, các sinh viên ngành sinh học quen thuộc với tên của Petri hơn là Robert Koch. Một vấn đề kỹ thuật khác mà Koch và các cộng sự giải quyết tại Văn Phòng Y tế Hoàng gia là rà lại các biện pháp y tế công cộng, chẳng hạn như sự khử trùng (disinfection). Ngành vi sinh học giúp ta hiểu được sự khác nhau giữa khử trùng (disinfection= giết các tế bào dạng sinh dưỡng, nhưng không nhất thiết phải diệt tất cả các bào tử), và tiệt trùng (sterilization = giết hết thể sinh dưỡng và bào tử). Khi kiểm định hoạt tính của nhiều thứ thuốc sát trùng (antiseptics) có tiếng, Koch phát hiện rằng nhiều thứ trước nay được ưa chuộng lại không hề có tác dụng khử trùng, trong khi đó nhiều chất được coi là sát trùng lại ức chế sự tăng sinh của vi trùng nhưng không giết được chúng.
Khi Lister, Pasteur và Koch gặp nhau trong Hội nghị Y học quốc tế lần thứ 7 năm 1881 tại London, Koch lợi dụng cơ hội để trình bày Kỹ thuật đĩa thạch của mình tại labô của Lister. Sau chuyến viếng thăm đầy thắng lợi trở về, Koch bắt đầu nghiên cứu bệnh lao. Dồn hết mọi sức lực để tìm ra tác nhân gây bệnh lao và tìm cách chữa chứng bệnh phổ biến này, Koch làm việc không hề biết mệt mỏi, giấu kín mọi người. Vào tháng 3 năm 1882, trong một phiên họp tại Hội Sinh lý học Berlin, Koch tuyên bố là đã tìm ra trực khuẩn lao, Mycobacterium tuberculosis. Tin tức về phát hiện của Koch đã làm nức lòng mọi người khắp thế giới. Nhà vật lý học người Anh, John Tyndall (1820-1893), là một trong những người hết lòng ủng hộ Pasteur, đã gởi thư đến tờ London Times công bố một bản tóm tắt công trình của Koch. Một vài tuần sau, thư của Tyndall được in lại trong tờ New York Times. Các bài tường thuật và bình luận lập tức chộp lấy ý kiến cho rằng với phát hiện của Koch chẳng bao lâu nữa người ta tìm được thuốc chữa bệnh lao.
Koch hồi tưởng, trong thời đại vàng son của ngành vi trùng học, nhiều tác nhân vi trùng gây bệnh của nhiều bệnh truyền nhiễm có vẻ rớt vào tay các nhà vi trùng học như thể “táo chín rụng từ trên cây xuống” nhưng trực khuẩn lao lại không hề rụng dễ dàng. Trong tất cả các vi sinh vật mà Koch nghiên cứu, trực khuẩn lao là con vi trùng được phát hiện, phân lập và nuôi cấy khó khăn nhất. Trên môi trường thạch agar thích hợp, phần lớn các vi trùng đều cho khuẩn lạc trong vòng hai ngày; còn trực khuẩn lao cần đến hai tuần mới cho các khuẩn lạc thấy được. Trong những nghiên cứu như thế này bắt buộc phải có kỹ thuật vi sinh tốt nhất, môi trường nuôi cấy và kỹ thuật nhuộm đặc biệt, và động vật thí nghiệm phù hợp. Nhưng Koch cũng tin rằng bệnh lao là một bệnh do vi trùng gây ra, ông ta hết sức tin tưởng rằng có thể phân lập được tác nhân gây bệnh, và cần phải có lòng kiên nhẫn hầu như vô tận. Sự phát hiện trực khuẩn lao và Koch chứng minh rằng trực khuẩn này có thể tìm thấy trong mô bị bệnh đã xua tan sự mù mờ mà từ lâu đã ngăn cản các nỗ lực muốn tìm hiểu bệnh lao dưới tất cả các thể bệnh. Do M. tuberculosis có thể tấn công hầu như tất cả các cơ quan trong cơ thể, cho nên trên lâm sàng bệnh lao gây ra một loạt các thể bệnh lý như lao phổi, lao hạch, lao kê, viêm màng não và nhiều thứ khác. Sự phát hiện ra trực khuẩn lao đã chứng minh rằng các thể bệnh lý của bệnh lao chẳng qua là các biểu hiện hoạt động của một tác nhân gây bệnh nhất định.
Robert Koch và người vợ thứ hai trong trang phục người Nhật (1903).
Để hiểu rõ tác động sâu xa của phát hiện của Koch đòi hỏi phải hiểu rõ những phương thức mà bệnh này đã xâm nhập vào hoàn cảnh sống của thế kỷ 19. Bệnh lao, nếu căn cứ vào số lượng nạn nhân mắc phải, đã gây nhiều tác hại nặng nề hơn bất cứ bệnh dịch đáng sợ nhất, trong đó có bệnh đậu mùa và bệnh tả. Thậm chí vào thế kỷ 17, Richard Morton (1637-1698), tác giả Chuyên luận về bệnh Lao (1694), thấy rằng khó mà tin được người nào lớn đến tuổi trưởng thành mà chưa bị lao. Từng được coi là “bệnh gây tử vong hàng đầu trên người,” vào thế kỷ 19 bệnh lao là nguyên nhân của 1 trên 7 trường hợp tử vong. Tác động đầy tai hại trên xã hội lại càng nhiều hơn nữa bởi vì bệnh lao phần lớn chỉ chọn nạn nhân trong độ tuổi cống hiến nhiều nhất. Những cái chết bi thảm của nhiều họa sĩ, văn sĩ, nhà soạn nhạc và nhạc sĩ trẻ tuổi càng củng cố huyền thoại bệnh lao là bệnh của các thiên tài nghệ thuật. Nhiều họa sĩ khỏe mạnh than phiền rằng quả là phù hợp nếu các thi sĩ mắc bệnh lao và chết trước khi được 30 tuổi. Cuộc đời ngắn ngủi của John Keats (1795-1821) đã phản ánh cái quan niệm lãng mạn về bệnh lao và cách điều trị sai lầm lại càng đẩy nhanh cái kết cuộc không thể tránh khỏi. Mặc dù anh và mẹ của nhà thơ đều chết vì bệnh lao, nhưng bệnh của nhà thơ bị chẩn đoán sai thành “sốt dạ dày” (gastric fever) và Keats phải theo một chế độ điều trị chỉ đưa đến suy kiệt là trích máu và chế độ ăn theo kiểu nhịn đói. Chẩn đoán xác định chỉ rõ khi làm giải phẫu bệnh lý, hai lá phổi hầu như bị tiêu hủy hoàn toàn.
Nạn nhân của phần lớn bệnh truyền nhiễm chết hoặc hồi phục thường quá nhanh không kịp cho họ đủ thời gian nghiền ngẫm như các họa sĩ mắc bệnh lao suy tư về chứng bệnh tiến triển chậm, nhưng không chữa được. Đối với Franz Kafka (1883-1924), nhà văn người Áo, bệnh lao không phải là bệnh bình thường, nhưng “chính nó là mầm gieo cái chết”. Theo cách tưởng tượng lãng mạn, những người bị lao bị ám ảnh bởi một thứ lực luôn thôi thúc họ hướng tới các thành quả nghệ thuật. Tuy nhiên, khi chứng bệnh này hoành hành trong các khu ổ chuột đô thị và các làng mạc nghèo xơ xác, thì mối liên quan này rõ ràng chỉ là ngẫu nhiên chứ không phải nhân quả. Có lẽ vì sợ phải chết sớm, lúc nào cũng cảm thấy hâm hấp sốt, và sử dụng các thứ thuốc an thần dạng thuốc phiện để bớt ho lại càng đẩy mạnh cái ham muốn sáng tạo của những người mắc bệnh lao vốn là nghệ sĩ và càng làm nổi bật nét quyến rũ của người phụ nữ bị lao. Chỉ có một “thiên thần bệnh lao” mới phù hợp với hình mẫu nữ tính đầy lý tuởng lãng mạn: trẻ, xanh xao, gầy, mắt sáng long lanh vì sốt, kín đáo ho có lẫn chút máu vào chiếc khăn tay trước khi qua cái chết không thể nào tránh được, nhưng thoát nợ đời. Keats từng than thở: “Tuổi trẻ trở nên vàng vọt, gầy như ma, rồi chết”.
Sau khi Koch phát hiện trực khuẩn lao, tính ủy mị đa cảm sai lệch gắn liền với bệnh lao dần dần nhường chỗ cho thực tế là bệnh này có liên quan chặt chẽ nhiều với sự nghèo đói và bẩn thỉu hơn là với thiên tài và nghệ thuật. Càng tệ hơn nữa, như Koch ghi nhận trong những báo cáo đầu tiên về bệnh lao, trực khuẩn lao rất giống về hình thể, kích thước và đặc tính nhuộm màu với vi sinh vật gây ra bệnh phong.
Nhận định về mặt y học về nguyên nhân và cách xử lý bệnh lao phụ thuộc nhiều vào những đặc điểm địa dư. Những người bị lao ở phương bắc, khi xuống phương nam dưỡng bệnh, rất ngỡ ngàng khi thấy rằng mình hoàn toàn không thích hợp với những vùng đầy nắng ấm như Ý và Tây Ban Nha bởi vì người dân ở đây cho rằng bệnh lao có tính lây nhiễm. Các thầy thuốc vùng Bắc Âu thường tin vào cái tạng (diathesis) mang tính không lây và di truyền (có nghĩa là người nào dễ mắc bệnh lao vì cơ địa của họ dễ mắc bệnh này). Cũng thường gặp trường hợp “mắc bệnh cả họ”, đôi khi qua nhiều thế hệ. Hơn thế nữa, có người không cho rằng bệnh lao lây lan bởi vì tuy số người phơi nhiễm thì đông, nhưng trên thực tế chỉ có một số người chuyển thành lao mà thôi. Điều này cũng giống như nói rằng đạn không giết người, bởi vì không phải người lính nào tại trận địa cũng bị chết vì một loạt đạn bắn ra.
Koch không phải là nhà khoa học đầu tiên lập luận bảo vệ “thuyết nhất thể” (unitary theory) đối với bệnh lao, thậm chí cũng không phải là người đầu tiên chứng minh lao là lây nhiễm. William Budd (1811-1880), nhà dịch tễ học người Anh, nổi tiếng nhờ chuyên luận kinh điển về sốt thương hàn, cho rằng dịch tễ học bệnh lao trong số người da đen ở Anh và tại châu Phi chứng tỏ đây là một bệnh lây nhiễm. Thầy thuốc xuất sắc người Pháp Jean Antoine Villemin (1827-1892), thử chứng minh tính lây nhiễm của bệnh lao khi lấy chất đàm và những chất khác từ nạn nhân bị lao đem tiêm cho thỏ và chuột lang. Sự lây truyền bệnh lao từ người sang thỏ đã cho phép Villemin chứng minh tính lây của đờm, máu và các dịch tiết cuống phổi. Ông còn cho rằng bệnh lao ở người cũng tương tự như bệnh xảy ra trên trâu bò. Tuy nhiên, công trình của Villemin không tạo ra được tác động tức thời và các cố gắng lặp lại thí nghiệm của ông do các thầy thuốc khác thực hiện cũng không cho kết quả thuyết phục. Thật vậy, chính Rudolf Virchow cho rằng bệnh lao phổi và lao kê là những bệnh khác nhau, mặc dù René Laënnec (1781-1826), người phát minh ra chiếc ống nghe, đã chứng minh rằng bệnh lao gây nên các hình ảnh tổn thương trong khắp cơ thể. Với một số người, bệnh lao biểu hiện dưới hình thức lao kê, một số người khác lại xuất hiện các triệu chứng lao phổi. Mặc dù có sự nghiệp sáng lạn trong ngành bệnh học tế bào, nhưng các quan điểm của Virchow lại bị bóp méo vì tính tự ái quốc gia và thành kiến. Giống như Koch đã xem thường ngành vi sinh học của Pháp, Virchow chê bai việc đối chiếu lâm sàng với những nghiên cứu giải phẫu tử thi vốn là điểm nổi trội của René Laënnec và các nhà giải phẫu bệnh người Pháp. Dĩ nhiên, sự chống đối của Virchow không hẳn hoàn toàn là vấn đề thuộc về chủ nghĩa quốc gia. Thậm chí sau khi xem xét những trình bày của Koch, Virchow vẫn tiếp tục nói đến “cái gọi là trực khuẩn lao”.
Sau khi cấy được vi sinh vật đặc thù rõ ràng có liên quan với bệnh lao hiện diện trong tất cả các thể lâm sàng, Koch đưa ra một bằng chứng dứt khoát rằng B. tuberculosis là nguyên nhân chuyên biệt gây ra bệnh lao. Khi làm như thế, Koch đưa ra tiêu chuẩn mà hiện nay ta gọi là “định đề Koch”, tức là cần phải tiến hành một loạt các bước để chứng minh một tác nhân vi sinh nhất định là nguyên nhân của một bệnh nhất định. Thực ra, thì những tiêu chuẩn này cũng đã được Jacob Henle và nhiều người khác đề xuất từ trước, nhưng Koch mới là người đưa ra những dẫn chứng chặt chẽ nhất về thuyết bệnh là do vi trùng gây nên. Để thỏa mãn định đề Koch, nhà nghiên cứu phải chứng minh rằng một vi sinh vật chuyên biệt lúc nào cũng gắn kết với bệnh đó. Nhưng nếu kết hợp những nhận xét như thế với bằng chứng là không tìm thấy được vi sinh vật đó trên người khỏe mạnh hoặc trên những người đang mắc những bệnh khác thì những tiêu chuẩn trên chỉ mang tính gợi ý, không đủ tính thuyết phục. Để đưa ra được chứng cứ dứt khoát, nhà nghiên cứu phải phân lập và nuôi cấy được vi sinh vật trong phòng thí nghiệm để tách nó ra khỏi mô vấy bẩn và các sinh vật khác. Sau khi cấy chuyển nhiều lần, tác nhân gây bệnh giả định trên phải được tiêm vào những con vật khỏe mạnh. Nếu chất nuôi cấy thuần khiết này làm cho các động vật thí nghiệm bị bệnh, thì nhà nghiên cứu sẽ phân lập vi sinh vật từ những động vật trên để chứng minh rằng có sự liên hệ nhân quả giữa vi sinh vật và bệnh. Đối với nhiều chứng bệnh ở người, chẳng hạn như tả, thương hàn và phong, không thể nào thỏa mãn được định đề Koch bởi vì các nhà khoa học không tìm được mô hình động vật thí nghiệm phù hợp. Để có được bằng chứng dứt khoát trong những trường hợp trên cần phải thí nghiệm trên người tuy rằng điều này không phù hợp với đạo đức. Định đề Koch được dành cho các nghiên cứu bệnh truyền nhiễm, nhưng cách tiếp cận này cũng đã được nới rộng sang các nghiên cứu những bệnh khác chẳng hạn như các nguy hại về sức khỏe (health hazards) do sợi amian và các hóa chất khác.
Dù rằng phát hiện của Koch về trực khuẩn lao không kéo theo ngay một vaccine dự phòng hoặc một thứ thuốc điều trị chuyên biệt, nhưng nó cũng mang lại hy vọng là các bệnh nhân kiên trì có thể lấy lại được sức khỏe khi được điều trị phù hợp. Tuy nhiên, Koch chịu nhiều áp lực mới bắt kịp những thành quả của đối thủ vĩ đại người Pháp. Năm 1889, sau khi dành nhiều năm cho công vụ và du lịch, Koch quay trở lại phòng thí nghiệm, đầy hăm hở nhưng hết sức kín đáo bởi vì những thí nghiệm này làm chết một số lượng lớn chuột lang. Một năm sau, tại Hội nghị quốc tế y học lần thứ 10 tổ chức tại Berlin, Koch nửa kín nửa hở cho biết là đã tìm ra cách điều trị bệnh lao. Khi xem xét kỹ những gì Koch thực sự nói ra chắc hẳn đã ngăn không cho người ta hi vọng quá nhiều và sau đó cảm thấy phản bội khi báo chí làm sai lệch ý đồ của ông về viễn tượng sẽ có một thứ thuốc chữa bệnh. Trong bài phát biểu, Koch bàn luận về một chất chận đứng sự phát triển của trực khuẩn lao trong ống nghiệm và trong các cơ thể sống. Tuy nhiên, cơ thể sống ở đây là chuột lang, chứ không phải con người. Đây là một điểm quan trọng, bởi vì trong tự nhiên chuột lang không mắc bệnh lao, mặc dù chúng bị nhiễm lao khi được tiêm vi trùng lao vào cơ thể đúng cách. Dù vậy, Koch đã thiếu thận trọng khi ông cho rằng chất mà ông khám phá là một thứ thuốc chữa bệnh. Lập tức báo chí gán cho chất bí ẩn đó là “chất dịch trắng của Koch”, Kochin, hoặc “chất dịch Koch”. Koch gọi chế phẩm của mình là “tuberculin”. Nếu căn cứ trên những kết quả sơ bộ của Koch trên chuột lang, thì rõ ràng là còn quá sớm để thực hiện những thử nghiệm quy mô lớn trên người, nhưng những bệnh nhân lao tuyệt vọng không hề muốn chờ đợi các kiểm định lâm sàng để xác định giá trị những hứa hẹn mà họ mong đợi ở tuberculin.
Dù rằng tại Đức có luật cấm các “thứ thuốc bí mật”, nhưng Koch từ chối tiết lộ bản chất của tuberculin. Tuy nhiên, ông vẫn cung cấp tên và địa chỉ của một bác sĩ bào chế tuberculin dưới sự hướng dẫn của người con rể của Koch, đó là Eduard Pfuhl. Theo tường thuật của Arthur Conan Doyle (1859-1930), người đến Berlin để tìm hiểu cái gọi là bài thuốc của người Đức, thì có đến hàng trăm ngàn bệnh nhân lao cầu xin được điều trị. Ngay cả Joseph Lister, cũng phải đợi một tuần lễ mới được Koch tiếp khi ông này mang đứa cháu gái đến Berlin để xin điều trị. Bị ấn tượng về công trình tuberculin cũng như các phương pháp điều trị mới dành cho bệnh bạch hầu và uốn ván do Emil von Behring (1854-1917) và Shibasaburo Kitasato (1852-1931) phát triển, Lister than phiền rằng nền khoa học của người Đức đã vượt xa khoa học của người Anh.
Trong vòng một năm, hàng ngàn người được điều trị bằng tuberculin, nhưng các phụ tá của Koch không quan tâm mấy đến các thử nghiệm lâm sàng nghiêm ngặt. Tuberculin dường như giúp đỡ ít nhiều cho một vài bệnh nhân mắc lao ở da, xương, khớp giai đoạn đầu, nhưng thầy thuốc và bệnh nhân đều nhầm khi thấy các dấu hiệu cải thiện chủ quan là do hi vọng chứ không phải các hiệu quả điều trị chuyên biệt. Rủi thay, với các bệnh nhân lao phổi, khi nghiên cứu sâu hơn cho thấy tuberculin không có tác dụng, hoặc thậm chí còn nguy hiểm nữa. Lấy ví dụ BS Edward L. Trudeau (1848-1915), người quản lý một dưỡng đường lao quan trọng tại Saranac Lake, New York, đã phát hiện rằng tuberculin không phải là thứ thuốc điều trị thần kỳ như ông và các bệnh nhân mong đợi. Từ khắp nơi trên thế giới, bệnh nhân và thầy thuốc đầy thất vọng và vỡ mộng chua chát kết tội Koch và phương thuốc bí mật của ông. Một nghiên cứu do chính phủ Đức tiến hành đã tìm thấy rất ít bằng chứng chứng minh các tác dụng của tuberculin. Tuy nhiên, những báo cáo không chính thức về các trường hợp đỡ và khỏi bệnh đã làm cho các viên chức chính phủ tiếp tục hỗ trợ tuberculin đem ra dùng trong các nhà tù và trong quân đội.
Cuối cùng khi Koch mô tả bản chất và cách bào chế thứ thuốc của mình, các nhà khoa học và thầy thuốc đều ngạc nhiên khi biết rằng tuberculin thực ra chỉ là chất glycerin trích từ trực khuẩn lao. Những người chống đối mỉa mai nhận xét rằng Koch đã phát hiện ra một bí mật lớn sau khi biết rõ tuberculin không hề có chút giá trị. Để bào chữa, Koch lập luận rằng rất khó khăn bào chế tuberculin. Vì vậy, ông ta sợ rằng các bác sĩ và bọn lang băm trên khắp thế giới tìm cách bào chế và tiêm những thứ thuốc bắt chước, phương hại cho người bệnh và uy tín của nền khoa học Đức. Khi sự quy tội dâng cao, Koch làm một chuyến du lịch sang Ai Cập, giao cho người con rể giải quyết vụ tuberculin và quản lý Viện các bệnh truyền nhiễm. Sau năm 1896, hầu như Koch không còn nghiên cứu gì về bệnh lao và tuberculin nữa. Chuyển sang nghiên cứu các bệnh nhiệt đới, cuối cùng Koch cũng thực hiện được những giấc mơ ngày xưa được đi đến các vùng đất xa lạ. Dù rằng đóng vai trò tiên phong trong lịch sử ngành vi sinh y học, nhưng mãi đến năm 1905 Koch mới được trao tặng giải Nobel về công trình nghiên cứu bệnh lao và vi trùng học.
Với trải nghiệm qua nhiều loại bệnh đã đưa Koch đến kết luận là hầu như không thể tạo được sự miễn dịch đối với bệnh lao bằng những phương pháp đã từng thành công với các bệnh do vi trùng khác. Tuy nhiên, Koch không bao giờ từ bỏ hẳn hi vọng là một dạng cải tiến của tuberculin sẽ đóng vai trò chất tạo miễn dịch hoặc thuốc chữa bệnh. Giấc mộng này không bao giờ thành hiện thực, nhưng ít nhất cộng đồng y học cũng nhất trí rằng tuberculin là một công cụ chẩn đoán có giá trị để phát hiện bệnh lao vào giai đoạn đầu, chưa có triệu chứng. Theo phong cách hào hùng vào thời ấy, Koch đem thử tuberculin cho chính mình. Phản ứng của cơ thể của Koch chứng tỏ rằng như phần lớn những người cùng thời, Koch cũng không thoát khỏi “bàn tay của bệnh lao”. Cái mà Koch thực sự vấp phải là một hiện tượng miễn dịch phức tạp mà sau này gọi là phản ứng quá mẫn tuýp muộn. Ở nơi nào mà bệnh lao còn được coi là một bệnh đáng xấu hổ, một rào cản hôn nhân hoặc một điều kiện không được đăng ký bảo hiểm sinh mạng, thì nhiều cá nhân và gia đình của họ có thể sẽ không hề mong muốn có một chẩn đoán chính xác.
Tuberculin không phải là thuốc chữa bệnh, nhưng việc phát hiện ra trực khuẩn lao và tuberculin đã đem lại một thứ vũ khí cơ bản trong cuộc chiến chống lại bệnh lao. Nghiệm pháp tuberculin có thể giúp phát hiện những trường hợp lao chưa có triệu chứng và các phòng thí nghiệm vi sinh có thể giúp cho thầy thuốc theo dõi tình trạng của bệnh nhân khi phân tích chất dịch cổ họng hoặc các mẫu nghiệm đàm. Thất bại đáng xấu hổ của vụ tuberculin là một bài học lớn về sự cần thiết phải thận trọng và thực hiện nghiêm ngặt các quy định thử nghiệm lâm sàng. Nhiều ý kiến ủng hộ việc loại bỏ toàn bộ các quy trình mù đôi thử nghiệm thuốc trong nỗ lực tìm kiếm thuốc điều trị bệnh AIDS một trăm năm sau đã chứng tỏ rằng những bài học như thế bị quên nhanh quá. Bệnh AIDS trong thập niên 1980, cũng như bệnh lao trong thập niên 1880, được cảm nhận là một căn bệnh bí hiểm, đầy ghê sợ, đáng xấu hổ và dẫn đến tử vong. Dấu diếm một thứ thuốc có thể chữa lành bệnh, hoặc ít nhất cũng làm chậm đi mức tiến triển của một căn bệnh chết người, chắc chắn là một hành động độc ác và phi đạo đức. Câu chuyện về các bài thuốc hão huyền đã chứng minh rằng quả là có nhiều khó khăn để giải phóng những áp lực đòi cho phép đưa ra sử dụng những thứ thuốc không có tác dụng và niềm lạc quan không cơ sở khi điều trị một chứng bệnh có diễn biến tự nhiên đầy phức tạp và bất trắc như bệnh lao hoặc AIDS.
Để bày tỏ sự tuyệt vọng do bệnh lao gây ra, nhà văn người Anh Charles Dickens (1812-1870) đã nêu ra những đặc điểm của bệnh lao là một bệnh mà y học không bao giờ chữa khỏi và tiền bạc cũng không bảo vệ được. Tuy nhiên, các tỷ suất mắc và chết của bệnh lao đã giảm xuống đáng kể trước khi có liệu pháp kháng sinh chuyên biệt. Dần dần người ta cũng đạt được những tiến bộ trong việc khống chế bệnh lao, khi các thầy thuốc và nhân viên y tế công cộng hiểu được đây là một bệnh có thể dự phòng và bắt đầu nghĩ đến một mạng lưới phức tạp các nguyên nhân. Người ta có thể phát hiện sớm các ca bệnh và đo lường chính xác số mới mắc nhờ việc phát triển những test thử tuberculin ngoài da nhạy hơn và chụp X quang phổi. Mặc dù trực khuẩn lao hiện diện khắp nơi, số ca mới mắc đã giảm nhiều khi lối sống thay đổi, khi có nhiều người tiếp cận được không khí trong lành, ánh sáng và dinh dưỡng khá hơn. Các nhà khoa học cho rằng khi hành vi xã hội và cá nhân hướng đến sự khôn ngoan sinh học (biological wisdom) thì có thể thanh toán bệnh lao mà không cần đến vaccine. Tuy nhiên, các cấp thẩm quyền trong y khoa và y tế công cộng ít khi đạt được sự đồng thuận thực tiễn thế nào là sự “khôn ngoan sinh học”.
Theo những khảo sát tiến hành trong thập niên 1920 và 1930, test tuberculin trên da cho thấy có từ 50 đến 60% sinh viên của các trường cao đẳng vùng đông bắc và khoảng 80% sinh viên vùng tây nam (Mỹ) đã nhiễm lao. Thậm chí tỷ suất nhiễm còn cao hơn ở các sinh viên ngành y và điều dưỡng. Một số trường báo cáo là khi tốt nghiệp tất cả các sinh viên đều dương tính với tuberculin. Cùng thời điểm này, bệnh lao đang giảm trong cộng đồng nói chung. Do lao là một bệnh gắn liền với sự nghèo khó, những phát hiện như thế này trong quần thể sinh viên tương đối có điều kiện khiến người ta cảm thấy lúng túng. Đặc biệt là các trường đại học nữ luôn ưu tiên các vấn đề bảo đảm sức khỏe cho sinh viên. Điều này rất cần thiết để phản bác lại những lời cảnh báo y học về sự nguy hại của việc học đối với sức khỏe và sự phát triển của phụ nữ.
Khi người ta phát hiện rằng độc lực của nhiều chủng trực khuẩn lao biến thiên khá nhiều, các nhà khoa học hi vọng rằng một chủng nào đó có thể đóng vai trò của bệnh đậu bò được sử dụng để phòng ngừa bệnh đậu mùa. Tuy nhiên, rất khó khăn khi đánh giá các vaccine bệnh lao; tại một số vùng, hầu như mọi người đều đã phơi nhiễm với trực khuẩn và nhiều người đã nhiễm từ lâu nhưng bệnh chưa phát ra. Trực khuẩn lao có thể ngủ yên nhiều năm trong cơ thể người nhiễm. Chúng tránh được sự tấn công của hệ miễn dịch và tự bảo vệ bằng lớp vỏ bọc dày gồm các phức hợp lipid. Vaccine chống bệnh lao phổ biến nhất lấy từ một chủng vi khuẩn còn sống nhưng đã giảm độc tính do Albert Léon Charles Calmette (1863-1933) và các cộng sự phát triển. Từ thập niên 1920, vaccine BCG (Bacille Calmette-Guérin) đã được đem tiêm phòng lao cho con nít. Mặc dù vẫn còn các vấn đề về tính an toàn và hiệu quả của BCG, nhưng tiêm vaccine phòng bệnh vẫn là cơ sở của các nỗ lực chống bệnh lao tại nhiều quốc gia đang phát triển.
Việc thừa nhận mối nguy hiểm do sữa bị vấy nhiễm đã đóng một vai trò quan trọng trong các cố gắng phòng chống bệnh lao. Một số nhà khoa học nghĩ rằng bệnh lao đi từ gia súc và đã truyền sang người qua sữa và thịt, nhưng mối liên hệ giữa bệnh lao của người và của bò đã trở thành nguyên nhân của nhiều tranh cãi dữ dội. Năm 1901, tại Hội nghị về bệnh lao đầu tiên của Anh tổ chức tại London, Koch tuyên bố rằng bệnh lao của bò và của người là hai bệnh khác nhau. Đối lập với các ý kiến thịnh hành thời bấy giờ, Koch tuyên bố rằng con người không thể nhiễm trực khuẩn lao của bò. Tuyên bố này quả là gây sốc, không phải chỉ vì hoàn toàn sai, nhưng vì trong công trình đầu tiên về bệnh lao của mình Koch đã nói rằng bệnh lao của người và của bò là do một con vi sinh gây ra. Nếu điều này đúng, thì ý kiến mới của Koch về bệnh lao của bò đã tạo ra những tác động ghê gớm cho ngành y tế công cộng. Vì thế, các nhà vi trùng học gấp rút tìm cách chứng minh hoặc bác bỏ lời tuyên bố này. Một Ủy ban của Anh đi đến kết luận rằng bệnh lao của bò là một mối đe dọa cho y tế công cộng, nhưng Ủy ban của Đức lại nhất trí với Koch. Tuy vậy, Emil von Behring (1854-1917) lại cho rằng sữa bị vấy nhiễm là nguyên nhân chính gây nhiễm lao cho trẻ con. Quan điểm này được nhà vi trùng học người Mỹ là Theobald Smith (1859-1934) xác nhận. Trẻ em từ 1 đến 5 tuổi rất dễ bị nhiễm bệnh từ “những môi trường cấy bệnh lao” tức là sữa được bán ra. Vì thế, Smith vận động tiêu hủy các trại sản xuất sữa bò bị nhiễm lao, coi đó như là một biện pháp y tế công cộng cần thiết.
Các bác sĩ thú y và các nhân viên y tế công cộng cùng nhau nhấn mạnh những mối nguy hiểm của bệnh lao của bò đối với sức khỏe con người. Koch bị công kích vì ông quá chú trọng đến bệnh lao phổi và vì ông cho rằng bệnh lao của bò không phải là vấn đề lớn. Bác sĩ nhi khoa người Mỹ Abraham Jacobi nói: “Mạng sống của hàng ngàn trẻ em còn quan trọng hơn nhiều so với tiếng tăm của một nhà khoa học”. Mặc dù đại đa số các trường hợp chết vì lao là do lao phổi thể hoạt động, có khoảng 10% trường hợp chết ở nhũ nhi và trẻ em ở vùng đô thị của Mỹ được coi là do những bệnh truyền qua sữa. Theobald Smith lý luận rằng “cả bộ máy y tế công cộng” đều có nguy cơ nếu trận chiến chống lại sữa và nước bị vấy nhiễm bị Koch và những người khác phá hoại.
Khi mới đeo đuổi công việc trong điều kiện thô sơ và khó khăn, thì Koch là một nhà khoa học kiên nhẫn và tận tụy. Nhưng sau khi đạt được nhiều thắng lợi đầy vinh quang, dường như ông ta ngày càng bốc đồng, ngoan cố và giáo điều. Nhiều người cho rằng một phần cũng là do môi trường quân phiệt và độc đoán của giới khoa học Đức thời đó. Có lẽ ngay cả Koch cũng trở thành nạn nhân do huyền thoại của chính mình và không cưỡng lại được sự phỉnh nịnh cũng như áp lực từ phía quan chức và công chúng. Khi một nhà khoa học tầm cỡ như Koch phạm sai lầm, thì những phát biểu như lời sấm của mình sẽ gây nguy hại cho nền y tế công cộng.
Năm 1908, chủ đề tranh cãi tại Hội nghị Quốc tế về bệnh lao là vấn đề bệnh lao của bò. Đáp lại sự phấn khởi của những “người chống phương pháp tiệt trùng Pasteur” tại Mỹ, Koch tập trung vào bệnh lao phổi. Theo Koch, vấn đề nhiễm trùng lao ruột của trẻ em về cơ bản là không có liên quan, bởi vì bệnh lao phổi chiếm đến 11 trong số 12 tử vong do lao. Bất luận các tỷ lệ tử vong và mắc bệnh đối với nhiều thể bệnh lao cao hay thấp, nhưng việc bỏ qua không nhắc đến những bệnh nhiễm trùng có thể phòng ngừa được mà nguyên nhân là uống các sản phẩm sữa vấy nhiễm cho thấy có một cách tiếp cận rất lạ lùng đối với bệnh trẻ em. Nhiều người công kích rằng Koch có lập trường này là nhằm bảo vệ chính phủ Đức và kỹ nghệ sản xuất thịt của Đức. Khi Koch trở về Berlin sau hội nghị 1908 đầy cay đắng, ông ta thử quay lại nghiên cứu về bệnh lao, nhưng sức khỏe suy sụp nhanh chóng và ông chết vì một cơn đau tim năm 1910. Hai năm sau, Viện các bệnh truyền nhiễm được cải tên thành Viện Robert Koch.
Kể từ thời Hippocrates, người mắc bệnh lao buộc phải tuân theo những chế độ ăn kỳ quặc, các bài thuốc độc hại, và một thứ thuốc cồn ngọt có tác dụng làm dịu cơn ho gồm “thuốc phiện và những sự lừa bịp”. Có khả năng là, các điều trị đầy màu mè nhất là nghi thức Hoàng đế chạm tay, được các bậc vua chúa của Anh và Pháp thực hiện từ thời Trung cổ cho đến tận thế kỷ 18. Do những người bệnh bất hạnh bị chứng tràng nhạc được chọn để tham dự nghi lễ này được nhận một đồng xu làm kỷ niệm, cho nên các tài liệu phát chẩn được phân phát trong những nghi thức trên cho ta ước tính được con số những người được chạm. Có lẽ một vài người còn hoài nghi như Michael Servetus (1511-1553) nhận thấy rằng có nhiều người được chạm nhưng chỉ vài người khỏi bệnh, nhưng do tính chất không lường trước được của bệnh cho nên liệu pháp Hoàng đế chạm tay có thể cũng có tác dụng như các cách điều trị khác.
Tùy theo xu hướng điều trị luôn luôn thay đổi, các thầy thuốc cho những đơn thuốc cho bệnh nhân lao như nghỉ ngơi, vận động, ăn kiêng hành xác, ăn nhiều thực phẩm, không khí trong lành, ánh nắng mặt trời, thuốc bổ và các thứ thuốc an thần. Nhiều cách điều trị chuẩn chẳng hề có tác dụng, và một số, như các loại muối vàng, thực ra còn làm bệnh nặng thêm. Các bài thuốc dân gian điều trị lao như gan sói nấu với rượu vang, máu con chồn, phân chim bồ câu, và xạ của con chồn hôi. Ăn sống ốc sên cũng được coi như là cách phòng bệnh. Các bác sĩ thế kỷ 20 cho các đơn thuốc như nhựa than đá (creosote), digitalis, thuốc phiện, dầu gan cá thu, các kim loại nặng, muối vàng, và dung dịch Fowler (một thứ thuốc bổ có chứa nhiều thạch tín). Các tổ chức công lập và tư nhân thành lập các bệnh xá và dưỡng đường lao. Có một số bác sĩ cho đơn thuốc như không khí miền núi, đi bộ đường dài, cưỡi ngựa và những chương trình làm việc được cẩn thận xếp theo mức độ tăng dần, còn những người khác thì cảnh báo rằng vận động sẽ tạo ra quá nhiều stress cho hai lá phổi. Người ta cũng đưa ra cách cho lá phổi bị bệnh được nghỉ ngơi hoàn toàn bằng cách tạo ra chứng tràn khí màng phổi (pneumothorax) nhân tạo hoặc “liệu pháp làm xẹp phổi”. Người ta bơm khí vào khoang màng phổi để làm xẹp lá phổi bị lao và cho lá phổi này thời gian lành bệnh. Phương pháp tràn khí màng phổi nhân tạo ra đời trong thập niên 1890 và được thực hiện rộng rãi trong các thập niên 1930 và 1940. Người ta bơm khí vào các khoảng thời gian nhất định cho đến khi nào phổi lành bệnh hoặc bệnh nhân tử vong.
Trong những thập niên đầu của thế kỷ 20, bệnh lao vẫn là bệnh gây tử vong dẫn đầu. Công trình của Koch và phong trào vệ sinh khoa học tạo điều kiện cho người ta tin rằng bệnh lao có thể kiểm soát được, dần dà tiến đến khả năng thanh toán với những kỹ thuật y khoa, các định chế, cơ cấu quản lý mới và với quyền lực của nhà nước. Tuy nhiên, các chiến dịch chống lại bệnh lao quá nhấn mạnh đến trách nhiệm của cá nhân mà không chú ý đến những vấn đề kinh tế-xã hội vốn đã ăn sâu và tạo nên những liên kết chặt chẽ bệnh lao với sự nghèo khổ. Nhiều bác sĩ không biết đến những ý nghĩa của công trình của Koch và xem nhẹ vai trò của vi sinh vật và tính lây nhiễm của bệnh. Cũng chưa bỏ được những ý kiến xa xưa về tính chất di truyền của bệnh, hoặc cơ địa bẩm sinh. Người ta bỏ qua các yếu tố xã hội và môi trường là nguyên nhân tạo nên mối liên kết giữa nghèo đói và bệnh lao, chẳng hạn như suy dinh dưỡng, sống quá chen chúc, thiếu ánh sáng và khí trời. Người bệnh bị cô lập, xa lánh và nhốt trong các dưỡng đường giống như thời Trung cổ nhốt người bị bệnh phong.
Khái niệm đầy lãng mạn về dưỡng đường dành cho bệnh lao là một nơi thanh bình trên một “ngọn núi thần kỳ”, nơi đem lại sự nghỉ ngơi, ánh nắng, thức ăn đầy bổ dưỡng và bầu không khí chữa bệnh đã bị nhiều người gạt bỏ khi các nghiên cứu sâu hơn cho thấy bệnh nhân đã phải chịu bao đau khổ khi trải qua sự cô quạnh, sự khắt khe và xuống cấp vốn là đặc trưng của nhiều cơ sở kiểu này. Trong thế kỷ 19 và 20, chế độ điều trị tại các dưỡng đường đã đi từ một chương trình nhẹ nhàng như không khí trong lành và nghỉ ngơi đến những chương trình khắt khe và thiên về điều trị y khoa hơn như vận động tăng dần, thử nghiệm thuốc và phẫu thuật. Tiêu chuẩn được sử dụng để đánh giá sự thành công rất thấp, lấy ví dụ như cách điều trị bằng muối vàng được coi là thành công như trong 42 bệnh nhân có 9 người chết. Nhiều bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp gây tràn khí màng phổi nhân tạo, nhưng tại một số cơ sở, tỷ lệ tử vong của thủ thuật này lên đến 50%. Khi phân tích những kết quả gây nản lòng như thế đã khiến cho nhiều nhà nghiên cứu tin rằng không thể nào tìm ra một hóa chất chuyên trị một chứng bệnh mang tính bất trị và khó lường như bệnh lao.
Đối với các lý do phức tạp vẫn còn là chủ đề đang tranh luận sôi nổi, thì vào thời điểm đã có các thứ kháng sinh hiệu quả, bệnh lao, “bệnh dịch hạch trắng” đã giảm xuống dần. Tất cả các nghiên cứu chi tiết về bệnh lao cho thấy rằng tử suất bệnh lao đã giảm xuống đáng kể trước khi phác đồ điều trị chuyên biệt bằng kháng sinh ra đời vào năm 1947. Như trường hợp bệnh phong, khi xét trên diện rộng về mặt xã hội và toàn cầu, lịch sử bệnh lao nhắc chúng ta nhớ rằng không thể làm giảm đi những đau khổ và chết chóc của con người do một bệnh nào đó qua cách mô tả tác nhân vi sinh gây bệnh của bệnh này. Tuy thế, trực khuẩn lao không hề biến mất.
Các nhà dịch tễ học tại Hội nghị toàn cầu về bệnh lao lần thứ 4 (2002) cảnh báo rằng có 2 tỷ người bị nhiễm lao và bệnh này giết chết mỗi năm 2 triệu người. Khoảng 1.000 ca lao được báo cáo tại New York City năm 2002, nhưng khoảng 5-10% dân New York cho kết quả dương tính đã phơi nhiễm với bệnh này. Bộ máy đối phó với bệnh lao về cơ bản đã bị giải tán vào thời điểm bệnh lao liên quan đến AIDS và các chủng vi khuẩn kháng thuốc trở nên chuyện thường gặp. Có nhiều vụ bùng phát lao kháng thuốc được báo cáo trong thập niên 1980 tại các nhà giam tại New York City. Đến năm 1991, 20% số người được chẩn đoán lao tại New York City đã kháng với các kháng sinh vốn thường được sử dụng để điều trị bệnh (rifampin và isoniazid). Tỷ lệ tử vong /ca bệnh (Case fatalíty rates) đối với lao kháng thuốc lên đến 40-60% tức là bằng bệnh lao còn nhạy cảm với thuốc, nhưng chưa được điều trị. Trên phạm vi toàn cầu, các nhà dịch tễ học ước tính có khoảng 300.000 ca bệnh lao mới kháng thuốc xuất hiện mỗi năm, đó là chưa tính đến việc thiếu số liệu đáng tin cậy tại nhiều nước nghèo có tỷ suất HIV/AIDS cao. Các trường hợp kháng thuốc thường xảy ra nhiều hơn tại các nước mà bệnh nhân không được điều trị đầy đủ, vốn là điều kiện thuận lợi cho sự hình thành những chủng kháng thuốc. Tại nhiều nước, thuốc điều trị lao được bán không cần đơn và thường được sử dụng không đúng cách.
Khi Penicillin được đưa ra sử dụng thành công trong thế chiến thứ hai đã dấy lên hy vọng là những kháng sinh khác sẽ hiệu quả chống lại bệnh lao. Tiếc thay, những thứ thuốc có tác dụng trên mô hình lao thực nghiệm trên động vật thí nghiệm lại không nhất thiết có hiệu quả trên người. Các báo cáo cho thấy Streptomycin, kháng sinh do Selman A. Waksman (1888-1973) phát hiện năm 1943, được nhanh chóng chứng tỏ có tác dụng trên người sau những thành công trên chuột lang. Tuy nhiên, những chế phẩm streptomycin đầu tiên, không được tinh khiết đã gây nên nhiều phản ứng phụ nghiêm trọng, kể cả điếc. Trong một số thử nghiệm thuốc, chỉ có 51% các bệnh nhân tiến triển tốt sau 6 tháng điều trị. Dần dần, para-aminosalicylic acid, isoniazid, rifampin, và nhiều thuốc khác được đưa vào hàng ngũ thuốc trị lao. Dù được sử dụng đơn thuần hay trong các phác đồ kết hợp nhiều thuốc, những thuốc hóa chất này đã làm thay đổi cách xử lý và điều trị bệnh nhân lao và hầu như làm trống các dưỡng đường. Những nỗ lực nhằm đánh giá vai trò của các kháng sinh tham gia làm giảm tỷ lệ tử vong bệnh lao trở thành phức tạp vì lý do vaccine BCG đã được sử dụng rộng rãi chẳng bao lâu trước khi streptomycin được đưa vào phác đồ.