← Quay lại trang sách

Chương 1 THUẦN HÓA NHỮNG CON NGỰA BẤT KHAM VÀ CÁC TRÒ VUI KHÁC-*-LÀ MỘT GÃ CAO BỒI TỪ TRONG TÂM KHẢM

Mọi câu chuyện đều có một khởi đầu.

Chuyện của tôi bắt đầu ở vùng Trung - Bắc bang Texas. Tôi lớn lên trong những thị trấn nhỏ nơi tôi đã học được ý nghĩa quan trọng của gia đình và các giá trị truyền thống như lòng yêu nước, tính tự lập, biết chăm sóc gia đình và hàng xóm. Tôi tự hào nói rằng tôi vẫn gắng sống đời mình theo những giá trị này. Tôi có ý thức mạnh mẽ về công lý, trắng - đen rất rõ ràng. Tôi không nhìn mọi thứ lờ nhờ. Tôi nghĩ bảo vệ người khác là một việc quan trọng. Tôi không nề hà việc nặng nhọc. Nhưng đồng thời tôi cũng muốn được vui chơi. Cuộc đời thật ngắn ngủi thì tại sao ta lại không tận hưởng.

Tôi được nuôi dưỡng với niềm tin và đến giờ vẫn tin vào đức tin Kitô. Nếu tôi phải đặt thứ tự ưu tiên, thì thứ tự đó sẽ là: Chúa, Đất nước và Gia đình. Có thể sẽ có vài tranh cãi về thứ tự ưu tiên của hai thứ đứng sau, nhưng bây giờ tôi lại tin rằng Gia đình, trong những hoàn cảnh nào đó, có thể còn được đặt ưu tiên trên cả Đất nước. Nhưng khoảng cách này cũng rất sít sao.

Tôi vẫn luôn thích súng đạn, thích săn bắn và theo một ý nghĩa nào đó tôi nghĩ có thể nói rằng tôi luôn luôn là một gã cao bồi. Tôi biết cưỡi ngựa từ ngày tôi mới biết đi. Nhưng bây giờ thì tôi sẽ không tự xưng mình là gã cao bồi thực thụ nữa, bởi vì đã rất lâu rồi kể từ khi tôi còn làm việc cho một nông trại, và có lẽ tôi cũng đã mất đi rất nhiều những gì mà tôi từng có khi làm công việc đó. Tuy nhiên, từ trong tâm khảm, nếu tôi không phải là một SEAL, thì tôi sẽ là một gã cao bồi, hoặc phải là như vậy. Mưu sinh là một vấn đề thật khó khăn khi anh đã có gia đình.

Tôi không còn nhớ tôi bắt đầu săn bắn từ bao giờ, nhưng có lẽ là từ khi tôi còn rất nhỏ. Gia đình tôi có một giấy phép săn hươu ở khu đất chỉ cách nhà vài ki lô mét, chúng tôi từng đi săn vào mỗi mùa đông. (Để dân Bắc Mỹ[*] rõ hơn thì giấy phép săn hươu là một loại quyền sở hữu, nhờ đó chủ sở hữu quyền này được thuê hoặc cho thuê lại quyền săn bắn trong một thời gian nhất định; anh trả tiền thuê và anh sẽ có quyền săn bắn trong khu vực đó. Cách thức thuê quyền săn bắn có thể khác nhau tùy thuộc vào nơi cư trú, nhưng cách mà tôi kể trên khá phổ biến ở đây.) Ngoài hươu nai ra chúng tôi còn săn bắn cả gà tây, chim bồ câu, chim cút nữa, tùy theo mùa. “Chúng tôi” ở đây là mẹ tôi, cha tôi và cậu em trai kém tôi bốn tuổi. Chúng tôi trải qua những ngày cuối tuần trên một chiếc xe kéo moóc đã cũ hiệu RV. Dù cái nhà di động đó không được lớn lắm nhưng chúng tôi là một gia đình nhỏ, nên chúng tôi vẫn thấy vui vẻ.

Chu thich: Nguyên văn: “Yankee”, một từ nếu sử dụng ở ngoài nước Mỹ là để chỉ người Mỹ nói chung; nếu do người miền Nam (Mỹ) sử dụng là để chỉ dân Bắc Mỹ. Chris là người miền Nam, vẫn hay bị trêu chọc về “thổ âm” của mình nên Chris hay giải thích những “thổ âm” đó cho dân Bắc Mỹ hiểu.

Cha tôi làm việc cho Công ty Southwestern Bell và công ty AT&T, ông cứ tách ra rồi lại tái nhập với công ty suốt quãng đường dài trong sự nghiệp của ông. Cha tôi là một nhà quản lý, vài năm một lần, mỗi khi ông được thăng chức thì chúng tôi lại phải chuyển nhà. Theo đó mà tôi đã được nuôi dưỡng và lớn lên trên khắp mọi vùng của bang Texas.

Mặc dù là một người thành đạt, nhưng cha tôi ghét công việc của mình; không ghét thực sự công việc đó mà là ghét những gì đi kèm với công việc. Bộ máy quan liêu. Thực tế là ông phải làm việc trong văn phòng. Ông thực sự ghét việc phải đóng bộ com lê và thắt cà vạt mỗi ngày.

“Ta không quan tâm đến việc con kiếm được bao nhiêu tiền,” cha tôi thường nói với tôi. “Nó chẳng đáng gì nếu con không cảm thấy hạnh phúc.” Đó là lời khuyên giá trị nhất ông dành cho tôi: Hãy làm những gì mà mình muốn trong đời. Cho đến hôm nay tôi vẫn theo đuổi triết lý đó.

Bằng rất nhiều cách cha là người bạn thân nhất của tôi lúc trưởng thành, nhưng đồng thời ông có thể kết hợp triết lý đó với một liều lượng vừa phải của nguyên tắc làm cha. Có một đường ranh và tôi không bao giờ muốn vượt qua ranh giới đó. Thỉnh thoảng tôi cũng bị ăn đòn (dân Bắc Mỹ gọi là xơi mấy roi) khi đáng bị đánh đòn, nhưng cha tôi không đánh quá mạnh và không đánh khi đang giận dữ. Nếu cha tôi điên lên, ông dùng vài phút để hạ hỏa trước khi táng cho tôi vài roi, ngay sau đó ông lại ôm tôi vào lòng.

Em trai tôi kể cậu ta và tôi cũng hay tranh cãi với nhau đến nổ cổ. Tôi không biết có đúng vậy không, nhưng thực sự chúng tôi cũng có lúc choảng nhau. Cậu em tôi nhỏ con hơn nhưng hắn luôn cố giành phần thắng về mình bằng được và hắn chẳng bao giờ chịu bỏ cuộc. Hắn là một người có cá tính mạnh và là một trong những người bạn tốt nhất của tôi cho đến tận hôm nay. Anh em chúng tôi gây nhau luôn nhưng chúng tôi cũng có nhiều trò vui, và luôn hiểu rằng chúng tôi lúc nào cũng ủng hộ nhau.

Trường trung học của chúng tôi từng có một bức tượng con báo ở ngay trước tiền sảnh. Hằng năm chúng tôi có truyền thống là các học sinh lớp trên sẽ tìm cách đặt lũ học sinh mới nhập học trên con báo đó như một nghi lễ dọa nạt. Tất nhiên bọn nhóc sẽ cự lại. Khi em trai tôi tựu trường, thì tôi đã tốt nghiệp rồi, nhưng tôi vẫn trở lại đó vào ngày đầu tiên hắn nhập học, và tôi treo thưởng một trăm đô la cho bất cứ ai có thể đặt hắn lên lưng con báo.

Tôi vẫn còn tờ một trăm đô la đó.

Mặc dù tôi tham gia rất nhiều trận đánh lộn, nhưng hầu hết không phải do tôi châm ngòi. Cha tôi nói rõ nếu tôi là người gây sự trước thì tôi sẽ bị đánh đòn. Chúng tôi luôn tuân thủ điều đó.

Tự vệ là một chuyện. Bảo vệ em trai mình lại là chuyện khác. Nếu có bọn người nào đó tìm cách ăn hiếp em trai tôi, thì tôi sẽ không để bọn chúng được yên. Tôi là người duy nhất được quyền đánh nó.

Đâu đó trên con đường đời tôi đã bắt đầu để mắt tới lũ trẻ ít tuổi hơn vốn hay bị bắt nạt. Tôi cảm thấy tôi phải trông chừng bọn chúng. Điều đó đã trở thành trách nhiệm của tôi.

Có thể việc này bắt đầu vì tôi đang kiếm cớ để đánh lộn mà không gặp rắc rối. Tôi nghĩ còn có nhiều nguyên cớ khác nữa; tôi nghĩ ý thức về công lý và sự công bằng của cha tôi đã ảnh hưởng đến tôi nhiều hơn tôi cảm nhận được lúc bấy giờ, thậm chí còn nhiều hơn cả điều tôi có thể nói ra khi đã trưởng thành. Nhưng cho dù lý do gì đi nữa thì rõ ràng nó đã cho tôi cả đống cơ hội để đánh lộn.

Gia đình tôi có đức tin sâu sắc vào Chúa. Cha tôi là một thầy phó, còn mẹ tôi dạy lớp giáo lý ngày Chúa nhật. Tôi còn nhớ hồi bé, chúng tôi thường phải đến nhà thờ vào mỗi sáng và tối Chủ nhật, và chiều thứ Tư hằng tuần. Tuy nhiên, chúng tôi không tự coi mình là những người quá sùng đạo, mà chỉ là những người tốt có niềm tin vào Chúa và tích cực tham gia vào công việc của nhà thờ. Sự thực là hồi ấy tôi cũng không thích đến nhà thờ quá nhiều.

Cha tôi làm việc chăm chỉ. Tôi e rằng nó như đã thấm vào máu ông, ông nội tôi là một nông dân vùng Kansas và những người dân ở đó đều làm việc rất chăm chỉ. Một công việc đối với cha tôi không bao giờ là đủ. Ông có một tiệm bán thức ăn gia súc khi tôi mới lớn, và chúng tôi có một nông trại với diện tích khá khiêm tốn mà cả nhà tôi đã phải cùng nhau làm việc để sống. Bây giờ thì cha tôi đã chính thức nghỉ hưu, nhưng bạn có thể thấy ông đang làm việc cho một bác sĩ thú y địa phương khi ông không còn phải bận tâm với những công việc ở nông trại nhỏ của mình nữa.

Mẹ tôi thực sự còn chăm chỉ hơn. Khi tôi và em trai tôi đủ lớn để có thể tự lo cho mình, bà đi làm tư vấn pháp lý cho một trại cải huấn trẻ vị thành niên. Đó là một công việc nặng nề, suốt ngày phải đối mặt với bọn trẻ khó lường và cuối cùng bà cũng vượt qua. Dù bây giờ bà cũng đã nghỉ hưu, nhưng bà vẫn bận rộn với những việc bán thời gian và đám cháu nội.

Công việc nông trại bổ sung vào những ngày học tập của tôi ở trường. Em trai tôi và tôi thường làm những công việc lặt vặt khác nhau sau giờ học và trong những ngày cuối tuần như chăm sóc và cho lũ ngựa ăn, cưỡi ngựa vòng vòng quanh đám gia súc, kiểm tra hàng rào.

Gia súc luôn gây cho ta nhiều vấn đề. Tôi đã bị chúng đá vào chân, vào ngực, và tất nhiên vào cả chỗ khó nói nữa. Dù không bị đá vào đầu. Nhưng biết đâu thế lại có thể làm tôi mạnh mẽ hơn cũng nên.

Lớn lên, tôi nuôi bê đực và bò cái tơ cho FFA[*], Hội Nông dân Tương lai Hoa Kỳ. (Tên chính thức bây giờ là Tổ chức Toàn quốc Hội Nông dân Tương lai Hoa Kỳ - The National FFA Organization.) Tôi yêu FFA và tôi đã bỏ rất nhiều thời gian để chải lông và coi sóc đàn gia súc, dù việc đối phó với bầy gia súc có thể khiến ta cáu điên. Nhiều khi tôi cũng chọc giận chúng và nghĩ mình là chúa tể thế giới. Khi tất cả những người khác đều thất bại thì chỉ có tôi mới có thể đánh mạnh vào cằm lũ gia súc để chúng bừng tỉnh. Cũng vì vậy mà tôi bị gãy tay hai lần.

Chu thich: Viết tắt của Future Farmers of America - Hội Nông dân Tương lai Hoa Kỳ.

Như tôi đã nói, bị ngựa đá vào sọ có khi lại làm tôi mạnh mẽ.

Tôi tỉnh táo khi chơi với súng đạn, nhưng tôi vẫn đam mê chúng. Giống như rất nhiều bọn con trai, “vũ khí” đầu tiên của tôi là khẩu súng trường hơi loại Daisy BB, càng nạp nhiều hơi, súng bắn càng giòn. Sau đó, tôi sở hữu một khẩu súng hơi dùng khí các bon kiểu súng ổ xoay, trông giống một model cũ của hãng Colt là dòng 1860 Peacemaker. Suốt từ đó, tôi rất khoái các loại súng kiểu Miền Tây Kinh Điển Old West; sau khi tôi rời khỏi quân chủng Hải quân tôi bắt đầu sưu tập một số bản sao đẹp. Tôi thích nhất là một bản sao súng ngắn ổ xoay 1861 Colt Navy Revolver được sản xuất bằng những chiếc máy tiện cũ.

Tôi có khẩu súng trường thật đầu tiên khi tôi lên 7 hoặc 8 tuổi gì đó. Đó là loại súng lên quy lát bằng tay cỡ đạn 30-06. Nó là một cây súng chắc chắn và “người lớn” đến mức lúc đầu tôi sợ không dám bắn. Thế rồi tôi đã khoái khẩu súng này, nhưng khi nhớ lại thì khẩu súng mà tôi thực sự thèm muốn là khẩu dòng Marlin 30-30 của em trai tôi. Đó là loại súng có lẫy kim hỏa, kiểu cao bồi.

Vâng, đây chính là chủ đề khi đó.

THUẦN PHỤC NGỰA CHỨNG

Anh chưa thể trở thành một gã cao bồi cho đến khi anh thuần phục được một con ngựa. Tôi bắt đầu học cách điều khiển ngựa khi đang học trung học; lúc đầu tôi chẳng biết gì ngoài việc: tót lên lưng chúng và cưỡi cho đến khi chúng không còn lồng lên được nữa. Hãy cố gắng hết sức để tiếp tục ngồi trên lưng chúng.

Lớn khôn lên tôi càng học thêm được nhiều điều, nhưng hầu hết mọi sự giáo dục đầu đời của tôi đều có được từ công việc, hoặc trên lưng ngựa, có thể nói như vậy. Con ngựa làm một điều gì đó và tôi làm theo. Thế là tôi và ngựa đã hiểu nhau. Có lẽ bài học quan trọng nhất là tính kiên trì. Về bản chất tôi không phải là người kiên nhẫn. Tôi phải phát triển khả năng này bằng cách làm việc với các chú ngựa; cuối cùng, việc này cực kỳ có giá trị khi tôi trở thành một người lính bắn tỉa, thậm chí có giá trị cả khi cưa cẩm vợ tôi.

Không như bọn gia súc, tôi không bao giờ tìm lý do để quất roi vào lũ ngựa. Tôi cưỡi trên lưng ngựa cho đến khi chúng mệt nhoài, chắc chắn như vậy rồi. Đương nhiên, tôi cứ ngồi trên lưng chúng cho đến khi chúng nhận ra rằng ai mới thực sự là chủ. Nhưng đánh chúng ư? Không bao giờ tìm thấy một lý do chính đáng đủ thuyết phục cả. Ngựa khôn hơn các loài gia súc khác. Bạn có thể thuần hóa một con ngựa để nó cộng tác với mình nếu có đủ thời gian và kiên nhẫn.

Tôi không biết tôi thực sự có khả năng thuần phục ngựa hay không, nhưng việc sống chung với chúng đã làm tôi thèm khát có được tất cả nhũng gì gắn liền với một cao bồi. Vì vậy, khi nhìn lại chẳng có gì là quá ngạc nhiên khi tôi tham gia vào các cuộc đua tài của những cao bồi[*] hồi còn đi học. Tôi chơi thể thao ở trường trung học, như bóng chày và bóng bầu dục, nhưng chẳng có môn nào có thể sánh được với sự hấp dẫn của món rodeo cả.

Chu thich: Nguyên văn: “Rodeo”, cuộc đua tài của những tay chăn bò Mỹ: cưỡi bò, cưỡi ngựa, quăng thòng lọng...

Mỗi trường trung học có các nhóm khác nhau: nhóm thích đua ngựa, nhóm mọt sách, v.v... Tôi tụ vạ với nhóm “quăng thòng lọng”. Chúng tôi đi giày cao cổ, mặc quần jean, và nói chung là hành xử và trông giống như những chàng cao bồi.

Tôi không phải là tay quăng thòng lọng thực thụ, lúc ấy tôi còn chẳng quăng dây bắt nổi một con bê, nhưng điều đó không ngăn cản tôi tham gia vào các cuộc thi rodeo khi tôi khoảng 16 tuổi.

Tôi bắt đầu cưỡi bò và ngựa ở một địa điểm nhỏ trong khu vực, ở đó bạn chỉ phải trả 20 đô la là có thể tập cưỡi đến lúc mệt nhoài thì thôi. Bạn phải tự sắm các thiết bị như: đinh thúc ngựa, quần da, dây an toàn. Thực ra cũng chẳng có gì thú vị cả: bạn nhảy lên lưng ngựa, rồi bị ngã, lại nhảy lên, cứ thế lặp đi lặp lại. Dần dần tôi đã ngồi được trên lưng ngựa ngày một lâu hơn, cuối cùng đã tới lúc tôi thấy đủ tự tin để đăng ký tham gia vào các cuộc thi rodeo nho nhỏ ở địa phương.

Chế ngự một con bò hơi khác với việc thuần hóa một con ngựa. Chúng hay lao lên phía trước, mà da bò thì lùng nhùng đến nỗi khi chúng lao về trước, thì bạn không những cùng lao lên theo mà còn có thể bị trượt sang hai bên nữa. Và bò thực sự cũng có thể quay tròn. Để tôi nói cho ngay: cưỡi trên lưng bò là một việc chẳng dễ dàng gì.

Tôi đã cưỡi bò trong khoảng một năm mà chẳng có chút thành công nào. Tôi đã thức tỉnh và chuyển sang tập cưỡi ngựa, rốt cuộc tôi cũng học được cách thuần phục lũ ngựa bất kham. Đó là một sự kiện kinh điển mà bạn không những phải ngồi trên lưng ngựa trong khoảng 8 giây mà còn phải làm thế một cách kiểu cách và tao nhã nữa. Vì một lý do nào đó mà tôi đã làm tốt hơn rất nhiều so với người khác trong sự kiện này, do đó tôi đã ngồi trên lưng ngựa trong một thời gian khá dài và giành được giải thưởng là những mặt khóa thắt lưng và vài chiếc yên ngựa hào nhoáng. Lưu ý với các bạn rằng tôi không phải là nhà vô địch, tôi chỉ làm khá tốt việc phân phát tiền thưởng khắp quán bar mà thôi.

Tôi cũng thu hút được sự chú ý của đám “thỏ non”, tức là được bọn con gái tại cuộc đua ngựa để mắt tới. Mọi điều đều tốt đẹp cả. Tôi thích thú đi từ thành phố này đến thành phố khác, du lịch, tiệc tùng và cưỡi ngựa.

Đó là phong cách sống của cao bồi.

Tôi vẫn tiếp tục cưỡi ngựa sau khi tốt nghiệp trung học năm 1992 và bắt đầu vào học tại Đại học Tarleton State ở Stephenville bang Texas. Đối với những ai không biết thì Tarleton được thành lập năm 1899 và nhập vào hệ thống trường đại học Texas A&M năm 1917. Đó là trường đại học nông nghiệp không được nhà nước cấp đất lớn thứ ba của Mỹ. Trường này nổi tiếng đã đào tạo ra nhiều nhà quản lý nông trang, nông trại xuất sắc cũng như các giáo viên ngành nông nghiệp nổi tiếng.

Lúc bấy giờ tôi quan tâm đến việc trở thành một nhà quản lý nông trại. Mặc dù trước khi ghi danh tôi đã nghĩ đến việc nhập ngũ. Ông ngoại tôi từng là một phi công trong lực lượng Không quân, vì vậy, đã có lúc tôi nghĩ đến việc sẽ trở thành một người lái máy bay. Sau đó, tôi lại tính đến khả năng trở thành một lính thủy đánh bộ, tôi muốn tận mắt thấy hành động thực tế. Tôi thích chiến đấu. Tôi cũng từng được nghe về những chiến dịch đặc biệt và nghĩ đến việc tham gia đơn vị trinh sát Hải quân, đó là đơn vị chiến tranh đặc biệt tinh nhuệ của binh chủng. Nhưng gia đình tôi, đặc biệt là mẹ tôi muốn tôi học tiếp lên đại học. Cuối cùng thuận theo ý họ, tôi quyết định đi học trước, rồi nhập ngũ sau. Chết tiệt là cách tôi nhìn nhận và thực hiện điều đó nghiêng về việc tôi có thể tiệc tùng một thời gian trước khi bắt tay vào việc cần làm.

Tôi vẫn tham gia đua ngựa và làm khá tốt điều đó. Nhưng sự nghiệp của tôi kết thúc bất ngờ vào khoảng cuối năm thứ nhất đại học, khi một con ngựa điên chồm lên người tôi ngay tại đường dốc ra của một cuộc đua ngựa ở Rendon, Texas. Những người trông chừng tôi không thể mở được lối dốc này vì đó là đường cho lũ ngựa chạy xuống, vì vậy họ chỉ còn cách nhảy ra kéo con ngựa đó không cho chồm lên tôi nữa.

Một chân tôi vẫn còn bị mắc kẹt trong chiếc bàn đạp, tôi bị kéo lê và bị đá mạnh đến nỗi bất tỉnh. Tôi tỉnh dậy trên chiếc máy bay trực thăng cứu thương đang trên đường đưa tôi đến bệnh viện. Thế là tôi đã kết thúc sự nghiệp đua ngựa của mình với những chiếc đinh trong cổ tay, một bên vai bị trật khớp, xương sườn bị gãy, phổi và thận bị chấn thương.

Có lẽ phần khó bình phục nhất chính là những chiếc đinh chết tiệt. Thực ra chúng là những chiếc đinh vít lớn, dày hơn nửa cen ti mét[*], chúng được đóng sâu cỡ vài li vào cả hai cổ tay tôi, hệt như con quái vật Frankenstein. Chúng làm cho tôi ngứa ngáy và dị thường, nhưng chúng giúp bàn tay tôi liền lại.

Chu thich: Nguyên văn là khoảng 1/4 inch, đơn vị đo lường hệ Anh tương đương khoảng 2,54cm. Chúng tôi đổi sang hệ mét cho độc giả tiện theo dõi.

Vài tuần sau khi tôi bị thương, tôi quyết định sẽ gọi điện cho người con gái mà tôi muốn mời đi chơi. Tôi không quan tâm đến việc để những chiếc đinh đó sẽ phá hỏng cuộc vui của chúng tôi. Chúng tôi chạy xe lòng vòng và một trong số những chiếc đinh vít dài bằng kim loại cứ đập liên hồi vào thiết bị báo rẽ khi tôi đang lái xe. Nó làm tôi cáu điên và rốt cuộc tôi đã tháo nó ra khỏi phần đế sát trên da. Tôi không nhận ra là cô ấy quá ấn tượng với điều đó và cuộc hẹn hò sớm kết thúc.

Sự nghiệp thi ngựa rodeo của tôi chấm dứt, nhưng tôi vẫn tiếp tục tiệc tùng như thể tôi vẫn đang tranh tài vậy. Tôi xài hết tiền rất nhanh, do đó tôi bắt đầu kiếm việc làm sau giờ học. Tôi đã tìm được việc làm ở một xưởng gỗ với chân giao hàng, chuyên chở gỗ và các loại vật liệu khác.

Tôi là một người làm việc chăm ngoan và tôi đoán tôi đã thể hiện rõ điều đó. Một hôm có một đồng nghiệp vào và bắt chuyện với tôi.

“Tôi biết một người là chủ nông trại đang kiếm người làm thuê,” anh nói. “Tôi không biết cậu có quan tâm hay không.”

“Trời đất,” tôi nói với anh ta. “Tôi sẽ đi đến đó ngay đây.”

Vậy là tôi đã trở thành một người làm công trong nông trại, một cao bồi thực sự, ngay cả dù lúc đó tôi vẫn là một sinh viên chính quy.

SỐNG NHƯ MỘT CAO BỒI

Tôi đến làm việc cho David Landrum ở quận Hood thuộc bang Texas, và sớm nhận ra rằng tôi chẳng hề giống với một cao bồi như tôi từng nghĩ. David chịu trách nhiệm về phần đó. Ông ta dạy tôi mọi việc để làm một nông trại, và còn hơn cả thế nữa. Ông là người cộc cằn. Ông có thể mắng chửi ta không tiếc lời. Nếu ta có làm tốt, thì ông ấy cũng chẳng thèm nói gì. Nhưng cuối cùng tôi lại thực sự thích gã đàn ông này.

Làm việc ở nông trại thật thiên đường.

Đó dù là một cuộc sống vất vả, có cả đống công việc nặng nhọc, nhưng đồng thời nó cũng là một cuộc sống yên bình. Bạn làm việc ngoài trời suốt cả ngày. Phần lớn thời gian chỉ có bạn và đàn gia súc. Bạn không phải đối mặt với con người hay lễ nghi hoặc những chuyện rác rưởi khác. Bạn chỉ cần làm việc của bạn thôi.

David mở rộng thêm bốn nghìn hecta[*] nữa. Đó là một nông trại thực sự, rất cổ điển, thậm chí chúng tôi còn có một chiếc xe chở thức ăn trong suốt vụ chờ xuân sang.

Chu thich: Nguyên văn là 10 nghìn acre, một mẫu Anh, tương đương khoảng 0,4 ha.

Tôi muốn nói với các bạn rằng, đây là một nơi rất đẹp, với những ngọn đồi hiền hòa, đôi ba kênh rạch, một vùng đất rộng bao la làm cho ta có cảm giác muốn sống mỗi khi ngắm nhìn. Trung tâm của nông trại là một căn nhà cổ, có lẽ trước đó từng là một trạm nghỉ[*] hồi thế kỷ 19, mà dân Bắc Mỹ gọi là quán trọ[*]. Đó là tòa nhà đồ sộ, với những hàng hiên có mái che ở cả phía trước và sau tòa nhà, bên trong là các phòng với diện tích hợp lý và một lò sưởi lớn đủ sưởi ấm da dẻ cũng như tâm hồn ta.

Chu thich: Nguyên văn là “way station”, một trạm nghỉ chân giữa hai chặng đường hoặc ga xép.

Chu thich: Nguyên văn là “inn”, một dạng quán trọ có phục vụ ăn nghỉ cho khách.

Tất nhiên, vì tôi là một người làm thuê, nên chỗ ở của tôi rất tuềnh toàng. Tôi ở trong một nơi được gọi là “bunkhouse[*]”chỉ đủ chỗ để đặt một cái giường rộng dài tương đương 1,8 x 3,65 mét, cái giường đã chiếm gần hết căn phòng đó rồi, không có chỗ để đặt tủ quần áo nữa, nên tôi phải treo tất cả quần áo, kể cả đồ lót, lên một cây sào.

Chu thich: Nhà trọ cung cấp nơi ngủ nghỉ tối giản.

Tường thì không được cách nhiệt. Vùng trung tâm Texas có thể khá lạnh vào mùa đông, ngay cả khi với lò sưởi gas ở phía trên và một chiếc lò sưởi điện đặt ngay cạnh giường ngủ, tôi vẫn phải mặc nhiều quần áo khi đi ngủ. Nhưng điều tồi tệ nhất là không có một nền móng chắc chắn dưới sàn nhà. Tôi liên tục phải chiến đấu với lũ gấu mèo và đám tatu[*], chúng đào bới ngay dưới gầm giường tôi. Những con gấu mèo rất ngoan cố và táo bạo; có lẽ tôi đã phải bắn khoảng hai chục con, trước khi chúng nhận ra là chúng không được chào đón trong lều của tôi.

Chu thich: Armadillo: loài động vật có da như một lớp mai bảo vệ cơ thể.

Tôi bắt đầu lái máy kéo, trồng lúa mì cho gia súc vào vụ đông. Tôi tiếp tục việc chăn nuôi gia súc. Rốt cuộc, David quyết định là tôi phù hợp ở đó và bắt đầu giao cho tôi nhiều trách nhiệm hơn. Ông ta bơm lương tháng của tôi lên bốn trăm đô la.

Sau khi giờ học cuối cùng kết thúc vào khoảng một hoặc hai giờ chiều, tôi lao về nông trại. Ở đó tôi làm việc cho đến khi mặt trời lặn, học bài một chút rồi đi ngủ. Việc đầu tiên vào buổi sáng là tôi cho tất cả các con ngựa ăn, rồi đến trường. Mùa hè là mùa hay nhất. Tôi sẽ được ngồi trên lưng ngựa từ 5 giờ sáng cho đến tận 9 giờ tối.

Cuối cùng, tôi đã trở thành người có hai năm kinh nghiệm huấn luyện “ngựa tách đàn” và sẵn sàng đưa chúng ra đấu giá. (Những con ngựa tách đàn còn được gọi là ngựa “tách”, ngựa “phân loại” hay ngựa “chuốt”, đã được huấn luyện để giúp những người chăn bò tách những con bò ra khỏi bầy. Những con ngựa làm việc này rất quan trọng đối với nông trại và một con ngựa tốt có thể đáng cả núi tiền.)

Đây thực sự là nơi tôi đã học được cách ứng phó với những con ngựa và tôi đã trở nên kiên trì hơn trước rất nhiều. Nếu cáu với một con ngựa, có thể ta sẽ hủy hoại nó suốt đời. Tôi đã tự răn mình là phải kiên trì và nhẹ nhàng với chúng.

Ngựa cực kỳ thông minh. Chúng học rất nhanh, nếu bạn làm đúng cách. Bạn chỉ cần làm cho chúng thấy thứ gì đó rất nhỏ, rồi dừng lại, và lại làm lại. Con ngựa sẽ liếm môi khi nó đang học điều gì đó. Đó là điều tôi hướng đến. Bạn dừng buổi học bằng ghi chép hữu ích và hôm sau cứ thế mà làm.

Tất nhiên, học tất cả điều đó cũng cần thời gian. Bất kỳ lúc nào tôi cảm thấy lúng túng, ông chủ của tôi sẽ chi cho tôi. Tất nhiên, ngay lập tức ông ấy sẽ mắng mỏ tôi, nói rằng tôi làm việc chẳng ra gì. Nhưng tôi không bao giờ cự cãi lại David. Trong thâm tâm, tôi nghĩ, mình làm tốt hơn ông ấy nghĩ và mình sẽ chứng minh cho ông ấy thấy điều đó.

Và điều đó đã diễn ra, đó chính là thái độ ta cần phải có để trở thành một SEAL.

HẢI QUÂN NÓI “KHÔNG”

Được tự do bên ngoài tôi có nhiều thời gian và không gian để suy nghĩ về mình sẽ hướng tới. Nghiên cứu và học tập không hợp với tôi. Khi sự nghiệp đua ngựa kết thúc, tôi quyết định sẽ rời trường đại học, thôi không làm việc ở nông trại nữa và trở lại với kế hoạch ban đầu của tôi: nhập ngũ và trở thành một người lính. Vì đó là điều tôi thực sự muốn làm, và chẳng có gì mà chờ đợi nữa.

Vì vậy, vào một ngày năm 1996 tôi đến gặp các nhà tuyển quân và quyết tâm đăng lính.

Trạm tuyển quân này đặt ngay tại siêu thị mini của nó. Tất cả văn phòng của Lục quân, Hải quân, Thủy quân lục chiến và Không quân xếp hàng thành một dãy nhỏ. Mỗi quân chủng đều dõi mắt theo ta khi ta bước vào. Họ đang cạnh tranh với nhau, và chẳng phải là các cuộc cạnh tranh hữu nghị gì.

Tôi bước vào cửa văn phòng của Thủy quân lục chiến trước tiên, nhưng họ đều đã ra ngoài ăn trưa. Khi tôi định quay lại để ra về, thì một gã thuộc Lục quân ở cuối hành lang gọi với sang.

“Này,” anh ta nói. “Tại sao cậu lại không đến đây nhỉ?”

Chẳng có lý do gì mà lại không cả, tôi nghĩ thế và làm luôn.

Anh ta hỏi, “Cậu thích làm việc gì trong quân đội?”

Tôi nói với anh ta rằng tôi thích các chiến dịch đặc biệt, và rằng từ những gì tôi đã từng được nghe về Army SF[*], tôi nghĩ tôi muốn được phục vụ trong lực lượng này nếu có vào Lục quân, vậy thôi. (Special Forces hay SF, là đơn vị tinh nhuệ trong Lục quân đảm nhiệm một số lượng lớn nhiệm vụ của các chiến dịch đặc biệt. Thuật ngữ ‘Lực lượng đặc biệt” đôi khi đã bị dùng sai để mô tả những đội quân hoạt động đặc biệt nói chung, nhưng khi tôi sử dụng từ này, ý tôi là đơn vị của Lục quân.)

Chu thich: The United States Army Special Forces - Lực lượng Đặc biệt của quân đội Hoa Kỳ.

Tại thời điểm đó, anh phải đeo lon E5 - tức là một trung sĩ - trước khi anh có thể được cân nhắc vào SF. Tôi không muốn cứ phải chờ đợi suốt trước khi được làm công việc ra hồn. Người tuyển quân gọi ý, “Anh có thể vào Biệt động quân.”

Tôi không biết nhiều về Biệt động quân, nhưng những gì anh ta kể cho tôi nghe có vẻ khá hấp dẫn: nhảy dù, tấn công các mục tiêu, trở thành chuyên gia về vũ khí hạng nhẹ. Anh ta mở tầm mắt cho tôi với nhiều khả năng mặc dù anh ta không có vẻ gì chốt việc đó cả.

“Tôi sẽ nghĩ về điều đó,” tôi nói và đứng dậy ra về.

Khi trên đường đi ra ngoài, một gã thuộc Hải quân ở cuối hành lang gọi tôi lại:

“Này, anh bạn,” anh ta nói. “Tới đây nào.”

Tôi tiến lại.

Anh ta hỏi tôi, “Cậu nói gì ở đằng kia vậy?”

“Tôi đang nghĩ sẽ xin vào SF,” tôi trả lời. “Nhưng phải có lon E5 mới được. Vì vậy, chúng tôi đã nói về Biệt động quân.”

“Ồ, thế à? Nghe gì về SEAL chưa?”

Lúc bấy giờ, SEAL vẫn còn tương đối xa lạ. Tôi được nghe chút ít về họ, nhưng tôi đâu biết tất cả lại nhiều như vậy. Tôi nghĩ mình đã nhún vai.

“Tại sao cậu lại không tới đây nhỉ,” người thủy thủ nói. “Tôi sẽ kể cho cậu nghe tất cả về bọn họ.”

Anh ta bắt đầu kể cho tôi nghe về BUD/S[*] hay Chương trình Huấn luyện Dưới nước Căn bản/Lặn biển, là trường học đầu tiên mà tất cả các SEAL phải vượt qua. Hiện nay có hàng trăm cuốn sách và phim ảnh về SEAL và BUD/S; thậm chí còn một mục khá dài về công tác huấn luyện của chúng tôi trên Wikipedia. Nhưng trở lại thời điểm đó, BUD/S vẫn khá bí hiểm, ít nhất là đối với tôi. Khi tôi nghe là nó nặng nhọc đến thế nào, huấn luyện viên hành ta ra bã ra sao, và chưa đến 10% học viên đạt tiêu chuẩn để tiếp tục, tôi rất ấn tượng. Để vượt qua được chương trình huấn luyện này, ta phải là một tay rắn mặt ra trò đấy.

Chu thich: Basic Underwater Demolition/Scuba Training - Chương trình Huấn luyện Dưới nước Căn bản/Lặn có khí cụ.

Tôi thích kiểu thách thức này.

Thế rồi viên tuyển quân bắt đầu kể cho tôi nghe về tất cả các nhiệm vụ của SEAL và tiền thân của nó, UDT[*] đã hoàn thành. (UDT là viết tắt của Biệt kích Phá hủy Dưới nước - Underwater Demolition Teams, những người nhái thám thính bờ biển của kẻ thù và thực hiện các nhiệm vụ chiến tranh đặc biệt bắt đầu từ Thế chiến 2). Có nhiều câu chuyện về việc phải bơi giữa các chướng ngại vật ở những vùng bờ biển do Nhật chiếm đóng và những trận chiến ác liệt ở phía sau giới tuyến Bắc Việt. Tất cả đều là những việc quá “khủng”, và khi ra về, tôi đã tha thiết trở thành một SEAL.

Chu thich: Underwater Demolition Teams: Biệt kích phá hủy mục tiêu dưới nước do Hải quân Hoa Kỳ thành lập trong Thế chiến 2.

Rất nhiều sĩ quan tuyển quân, đặc biệt là những người tử tế, đều có chút máu kẻ cắp trong người, và gã này cũng chẳng khác gì. Khi tôi trở lại và chuẩn bị ký giấy tờ, hắn nói tôi phải từ chối khoản tiền thưởng đăng lính nếu như tôi muốn chắc chắn có được hợp đồng với SEAL.

Tôi đã làm luôn.

Hẳn là hắn có đầy những chuyện như vậy. Tôi chắc rằng việc hắn bảo tôi từ chối nhận tiền thưởng khiến hắn trông có vẻ khá tử tế. Tôi chẳng nghi ngờ gì việc hắn sẽ có một sự nghiệp kiếm chác vĩ đại phía trước hệt như một kẻ buôn bán xe hơi cũ.

Hải quân không hứa hẹn là tôi sẽ trở thành một SEAL; tôi phải tự giành lấy đặc quyền đó. Mặc dù họ đảm bảo rằng tôi sẽ có cơ hội để thử thách. Chừng đó với tôi thế là tốt rồi bởi vì không bao giờ có chuyện tôi thất bại.

Vấn đề duy nhất là tôi còn không có cả cơ hội để thất bại nữa kia.

Hải quân đánh trượt tôi khi phát hiện tôi có những chiếc đinh vít trong cánh tay từ vụ tai nạn đua ngựa. Tôi đã cố thuyết phục, tôi cố nài nỉ; nhưng chẳng ích gì. Thậm chí tôi còn đề xuất việc ký giấy cam đoan rằng tôi không bao giờ bắt Hải quân phải chịu trách nhiệm về bất kỳ điều gì có thể xảy ra với cánh tay tôi. Họ đã từ chối tôi thẳng thừng.

Và tôi nhận ra, thế là chấm hết cho cuộc đời binh nghiệp của tôi.

LỜI HIỆU TRIỆU

Với việc bị quân đội loại trừ, tôi tập trung vào việc ở nông trại và trở thành một cao bồi. Bởi vì tôi đã có một công việc tốt ở nông trại, tôi cho rằng học đại học chẳng ích gì nữa. Tôi bỏ học, mặc dù chỉ còn thiếu 60 đơn vị học trình nữa để tốt nghiệp.

David tăng lương tôi lên gấp đôi và giao cho tôi thêm nhiều trọng trách. Dù cũng có nhiều lời mời hấp dẫn hơn dụ tôi làm cho các nông trại khác, nhưng vì nhiều lý do khác nhau tôi vẫn quay lại nông trại của David. Cuối cùng, ngay trước mùa đông 1997-1998 tôi lên đường đến Colorado.

Tôi nhận việc mà chẳng hề xem trước, hóa ra đó là một sai lầm lớn. Tôi đã nghĩ, mình đã sống suốt ở bình nguyên bằng phẳng Texas, và chuyển đến vùng núi sẽ là một sự thay đổi thú vị về phong cảnh.

Nhưng các bạn không ngờ đâu: tôi đã nhận làm việc tại một nông trại ở vùng duy nhất của Colorado còn bằng phẳng hơn cả Texas. Và lạnh hơn nhiều. Chẳng mấy chốc tôi gọi về cho David và hỏi xem ông có cần giúp gì không.

“Về đây đi.” Ông bảo tôi.

Tôi bắt đầu sửa soạn, nhưng chẳng được bao lăm. Ngay trước khi tôi xong việc sửa soạn để lên đường, tôi nhận được một cú điện thoại từ người tuyển quân của Hải quân.

“Cậu còn thích trở thành một SEAL nữa không?” anh ta hỏi.

“Sao thế?”

“Chúng tôi muốn cậu,” anh ta trả lời.

“Ngay cả khi vẫn còn những chiếc đinh trong cánh tay tôi sao?”

“Đừng lo gì về chuyện đó.”

Tôi chẳng lo. Thế là tôi bắt đầu thu xếp ngay lập tức.