← Quay lại trang sách

Chương 6 ĐƯƠNG ĐẦU VỚI CÁI CHẾT-*-TRỞ LẠI CUỘC CHIẾN

Vào cuối kỳ huấn luyện, chúng tôi phát hiện họ đang xây dựng một đơn vị mới ở Baghdad để tiến hành cuộc tiến công trực tiếp vào những kẻ bị tình nghi là khủng bố và những tên thủ lĩnh kháng chiến. Đơn vị mới này do GROM, tổ chức đặc nhiệm của Ba Lan điều hành. Trong khi những người Ba Lan phụ trách phần lớn những nhiệm vụ khó khăn, nhưng họ vẫn cần một số công việc hỗ trợ, cụ thể là lính bắn tỉa và hoa tiêu. Và do đó, vào tháng Chín năm 2004, tôi được lệnh rời trung đội và được cử đến Iraq để giúp GROM làm hoa tiêu. Những người còn lại trong trung đội tôi sẽ được điều ra nước ngoài vào tháng tiếp theo; tôi sẽ gặp họ ở đó.

Tôi cảm thấy thật tệ vì phải xa Taya. Cô ấy vẫn đang nghỉ sau khi sinh con. Nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy trách nhiệm là một SEAL của mình quan trọng hơn. Tôi muốn trở lại chiến đấu. Tôi muốn tham gia vào cuộc chiến tranh.

Lúc đó dù rất yêu con trai mình nhưng tôi chưa có sự gắn kết với con. Tôi chưa bao giờ là ông bố thích sờ vào cái bụng bầu bì của vợ để cảm nhận đứa bé đang đạp như thế nào. Tôi thường có nhu cầu biết rõ ai đó, thậm chí cả với họ hàng thân thích, trước khi cảm giác gắn bó trong tôi lớn dần lên.

Điều này đã thay đổi theo thời gian, nhưng lúc bấy giờ tôi vẫn chưa trải nghiệm hết việc được làm cha thực sự sâu sắc đến chừng nào.

Nói chung, khi những SEAL được điều động cho một đợt triển khai quân hay khi trở về, chúng tôi đều thực hiện việc này một cách rất lặng lẽ, đó là bản chất của những hoạt động đặc biệt. Thường thì có rất ít người có mặt ngoại trừ gia đình thân cận của chúng tôi, thậm chí đôi khi họ cũng không có mặt nữa. Họ không có mặt, bởi mỗi khi tôi đi ra ngoài thường xảy ra việc đi ngang một nhóm nhỏ những người biểu tình phản đối chiến tranh. Họ giương những biểu ngữ về kẻ giết trẻ con, những tên sát nhân hoặc đại loại như vậy để phản đối quân đội chuẩn bị tham gia chiến tranh.

Họ đã phản đối nhầm người. Chúng tôi không bỏ phiếu tại Quốc hội; chúng tôi không bỏ phiếu để tiến hành chiến tranh.

Tôi nhập ngũ là để bảo vệ đất nước này. Tôi không chọn chiến tranh. Chỉ có điều là tôi yêu thích được chiến đấu. Nhưng tôi không chọn sẽ chiến đấu trên chiến trường nào. Chính bọn họ mới là những người phái tôi đến những chiến trường đó.

Tôi phải tự hỏi tại sao những người này lại không phản đối tại các cơ quan của Quốc hội hoặc ở Washington. Phản đối những người nhận nhiệm vụ ra đi để bảo vệ họ, thực tình mà nói, nó để lại trong lòng tôi một ký ức không vui.

Tôi nhận thấy rằng không phải mọi người đều nghĩ như vậy. Tôi đã nhìn thấy biểu ngữ ở một số gia đình ủng hộ quân đội, như “Chúng tôi yêu các anh” và những biểu ngữ đại loại như vậy. Và cũng có đầy những cuộc tiễn đưa hoặc chào đón trở về đẫm lệ và trang trọng, thậm chí có một số cuộc còn xuất hiện trên TV. Nhưng nhiều năm sau đó tôi vẫn nhớ đến những người phản đối kém hiểu biết.

Và nói một cách chính thức và công khai, việc các SEAL không được tiễn đưa hoành tráng hoặc không được chào đón trở về ngọt ngào chẳng làm tôi phiền lòng. Chúng tôi là những kẻ chuyên nghiệp thầm lặng; chúng tôi là những kẻ thừa hành kín đáo và việc mời truyền thông đến sân bay không có trong chương trình.

Tuy nhiên, thật dễ chịu khi thường xuyên được cảm ơn về những việc mà chúng tôi đang làm.

IRAQ

Rất nhiều điều đã xảy ra ở Iraq kể từ khi tôi rời khỏi đó vào mùa xuân năm 2003. Đất nước này đã được giải phóng khỏi chế độ Saddam Hussein và quân đội của hắn sau sự thất thủ của thủ đô Baghdad vào ngày 9 tháng Tư năm đó. Nhưng rất nhiều lực lượng khủng bố khác nhau tiếp tục hoặc bắt đầu cuộc chiến đấu sau khi Saddam bị lật đổ. Chúng chống lại cả các lực lượng Iraq khác lẫn lực lượng quân đội Mỹ đang tìm cách giúp Iraq ổn định lại đất nước. Một số là những cựu thành viên của quân đội Saddam và là đảng viên của Đảng Ba’ath do Saddam cầm đầu. Trong đó có lực lượng Fedayeen, các thành viên của một nhóm kháng chiến bán quân sự mà tên độc tài đã thành lập trước chiến tranh. Trong đó còn có những nhóm nhỏ được tổ chức lỏng lẻo của quân du kích Iraq cũng được gọi là quân Fedayeen, nhưng thực ra chúng không có quan hệ gì với tổ chức của Saddam. Mặc dù gần như toàn bộ bọn chúng đều là tín đồ Hồi giáo, nhưng chủ nghĩa dân tộc chứ không phải tôn giáo mới là động lực chủ yếu và nguyên tắc tổ chức của bọn chúng.

Cũng có những nhóm được tổ chức chủ yếu dựa trên các niềm tin tôn giáo. Những nhóm tự nhận là mujahedeen, về cơ bản có nghĩa là “Thánh chiến” hay những tên giết người nhân danh Thượng đế. Chúng tận tụy với công việc giết người Mỹ và những người theo đạo Hồi nhưng lại không đi theo nhánh Hồi giáo mà chúng theo.

Cũng có lực lượng al-Qaeda ở Iraq, một nhóm phần lớn là người nước ngoài coi cuộc chiến như một cơ hội để giết người Mỹ. Chúng là Nhóm Hồi giáo cực đoan dòng Sunni trung thành với Osama bin Laden, tên trùm khủng bố không cần phải giới thiệu mà ai cũng biết, và chính là kẻ mà Lực lượng SEAL đã săn tìm và hạ thủ một cách thích đáng vào năm 2011.

Mặc dù, cũng có lực lượng của Iran và lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran thỉnh thoảng chiến đấu trực tiếp, nhưng thường thì thông qua những kẻ được ủy quyền để giết hại người Mỹ và giành lại quyền lực trên chính trường Iraq.

Tôi chắc rằng còn cả đống khác nữa mà truyền thông biết đến với cái gọi là “phiến quân”. Tất cả bọn chúng đều là kẻ thù.

Tôi không quá lo lắng về việc chính xác chúng là ai, ai đang chĩa súng vào tôi hoặc đang cài thiết bị nổ thông minh IED[*]. Thực tế, bọn chúng muốn giết tôi là tất cả những gì tôi cần biết.

Chu thich: Một loại bom được chế tạo và sử dụng trong những cách thức chiến tranh phi truyền thống. IDE thường được lực lượng du kích hoặc biệt kích sử dụng, đặc biệt trong những hoạt động khủng bố lớn hoặc cuộc chiến phi truyền thống.

Saddam bị bắt vào Tháng mười hai năm 2003

Năm 2004, Mỹ chính thức bàn giao chính quyền lại cho chính phủ lâm thời, trao quyền kiểm soát đất nước cho người Iraq, ít nhất là trên lý thuyết. Nhưng phiến quân cũng phát triển rất mạnh mẽ cùng năm đó. Một số trận chiến vào mùa xuân cũng ác liệt không kém gì trận chiến diễn ra trong những ngày đầu xâm lược.

Ở Baghdad, một tu sĩ dòng Shiite cứng rắn tên là Muqtada al-Sadr đã thành lập một đội quân gồm những đệ tử cuồng tín và kêu gọi bọn chúng tấn công người Mỹ. Sadr đặc biệt mạnh ở một vùng thuộc thủ đô Baghdad gọi là thành phố Sadr, một khu ổ chuột đặt theo tên cha của hắn, Mohammad Mohammad Sadeq al-Sadr, một thủ lĩnh quan trọng của phái Hồi giáo Shiite và là đối thủ của chế độ Saddam trong những năm 1990. Thành phố Sadr là một vùng cực kỳ nghèo đói, ngay cả theo tiêu chuẩn của Iraq, đầy người Shiite cực đoan. Diện tích được cho là chỉ bằng khoảng một nửa của Manhattan, thành phố Sadr nằm ở phía Đông Bắc của Khu vực Xanh[*] của Baghdad bên cạnh Kênh Quân đội và phố Imam Ali.

Chu thich: Khu vực mang tên Green Zone hay là Khu vực Quốc tế của Baghdad, rộng khoảng 10 ki lô mét vuông, nằm ở trung tâm của thủ đô Baghdad, Iraq.

Rất nhiều khu vực mà những người dân Iraq bình thường sinh sống, ngay cả khi họ được coi là tầng lớp trung lưu thì trông cũng như khu ổ chuột đối với người Mỹ. Hàng thập kỷ dưới sự cai trị của Saddam đã biến một quốc gia có thể trở nên giàu có nhờ nguồn dự trữ dầu lửa của mình, thành một đất nước nghèo nàn. Ngay cả bên phía các vùng được coi là khá hơn của nhiều thành phố, đường phố không được lát gạch và các tòa nhà khá đổ nát.

Thành phố Sadr thực sự là một khu ổ chuột, ngay cả đối với Iraq. Khởi đầu nó là khu vực nhà công cộng cho người nghèo, và trong thời kỳ chiến tranh nó trở thành nơi trú quân của người Shiite, những người bị phân biệt đối xử bởi chính quyền do người Sunni chi phối của Saddam. Sau khi chiến tranh nổ ra, lại càng có nhiều người Shiite hơn đến khu vực này. Tôi từng đọc những báo cáo ước chừng có khoảng trên hai triệu người sống trong một khu vực diện tích chỉ khoảng 13 ki lô mét vuông.

Bố cục theo một hình ô vuông, các đường phố dài khoảng từ bốn nhăm đến chín chục mét. Hầu hết các khu vực ken đặc các tòa nhà hai đến ba tầng. Tay nghề xây dựng những tòa nhà đó tôi thấy thật tệ; ngay cả những ngôi nhà đẹp mắt nhất, cách trang trí lộn xộn, cái nọ xọ cái kia. Rất nhiều đường phố với cống nước lộ thiên, rác thải khắp nơi.

Muqtada al-Sadr đã phát động một cuộc tấn công chống lại các lực lượng của người Mỹ vào mùa xuân năm 2004. Lực lượng của hắn đã giết một số lính Mỹ và một số lớn người Iraq trước khi tên tu sĩ cuồng tín tuyên bố ngừng bắn vào tháng Sáu. Theo thuật ngữ quân sự thì cuộc tấn công của hắn đã thất bại, nhưng bọn phiến quân thì vẫn còn rất mạnh trong thành phố Sadr.

Trong khi đó phần lớn phiến quân Sunni đã chiếm được tỉnh al-Anbar, một khu vực rộng lớn của nước này ở phía Tây của Baghdad. Chúng đặc biệt mạnh trong các thành phố ở đó, gồm có Ramadi và Fallujah.

Mùa xuân đó là thời kỳ mà người Mỹ choáng váng trước hình ảnh của bốn nhà thầu, thi thể bị xâm phạm, treo trên một cây cầu ở Fallujah. Đó là dấu hiệu điều tệ hơn sắp tới. Lính thủy đánh bộ đã tiến quân vào thành phố ngay sau đó, nhưng những cuộc hành quân của họ ở đó lại bị điều đi nơi khác sau một trận chiến đấu ác liệt. Ước tính đến thời điểm đó họ đã kiểm soát 25% thành phố.

Như một phần của việc rút quân, một lực lượng Iraq đã tiến vào kiểm soát thành phố. Về mặt lý thuyết, họ được cho là sẽ đuổi các phiến quân ra khỏi thành phố. Thực tế thì hoàn toàn khác. Vào mùa thu năm đó hầu như những người duy nhất sống ở Fallujah là bọn phiến quân. Điều đó thậm chí còn nguy hiểm đối với người Mỹ hơn cả hồi mùa xuân.

Khi tôi rời nước Mỹ để sang Iraq tháng Chín năm 2004, đơn vị của tôi đã bắt đầu huấn luyện để tham gia vào một chiến dịch mới để bảo vệ Fallujah một cách dứt điểm. Nhưng thay vào đó, tôi lại tác chiến với những người Ba Lan ở Baghdad.

HỢP TÁC VỚI GROM

“Kyle, cậu sẽ đi.”

Viên hạ sĩ quan Ba Lan nói ngắn gọn khi vuốt bộ râu rậm rạp và chỉ vào tôi. Tôi không hiểu nhiều tiếng Ba Lan lắm, và anh ta nói tiếng Anh cũng chẳng giỏi giang gì, nhưng điều mà anh ta nói có vẻ khá rõ ràng, họ muốn tôi cùng với họ tiến vào ngôi nhà trong khi tấn công.

“Báo cáo, rõ con mẹ nó luôn,” Tôi nói.

Anh ta mỉm cười. Có vài cách biểu hiện thật là phổ quát.

Sau một tuần thi hành nhiệm vụ, tôi được cất nhắc từ lính hoa tiêu lên thành một thành viên của đội tấn công. Tôi chẳng thể nào sung sướng hơn được nữa.

Tuy nhiên, tôi vẫn phải tìm đường. Nhiệm vụ của tôi là tìm ra một con đường để tiến vào cũng như rút khỏi căn nhà mục tiêu một cách an toàn. Trong khi bọn phiến quân vẫn hoạt động rất tích cực ở khu vục Baghdad, chiến sự đã giảm xuống và cũng chưa có mối đe dọa gì lớn lắm từ loại bom IED và các cuộc phục kích như đang diễn ra ở các vùng khác. Tuy nhiên, tình hình có thể thay đổi ngay tức thì, và tôi vẫn phải cẩn thận khi vạch ra các lộ trình của mình.

Chúng tôi nhảy lên chiếc xe Hummer và bắt đầu lên đường. Tôi ngồi đằng trước, bên cạnh người lái xe. Tôi đã học tiếng Ba Lan đủ để chỉ đường như Prawo kolei là “rẽ phải”, và chỉ đường cho cậu ta đi qua các tuyến phố. Tôi đặt máy tính trong lòng; treo ở phía bên phải khẩu súng máy. Chúng tôi tháo bỏ các cánh cửa xe Hummer ra để lên xuống xe cũng như bắn dễ dàng hơn. Ngoài những mũi súng ở bên cạnh tôi và ở phía sau, chúng tôi đặt một khẩu.50 trên tháp pháo đằng sau.

Chúng tôi tiếp cận mục tiêu và lao vụt ra khỏi xe. Tôi bị kích động khi rốt cuộc cũng được trở lại chiến đấu.

Những người Ba Lan xếp tôi đứng thứ sáu hoặc thứ bảy gì đó trong hàng tiến vào phía trong. Điều đó khá thất vọng, vì khi đứng phía xa sau toa tàu, ta không chắc được tham gia vào bất kỳ hoạt động nào. Nhưng tôi không phàn nàn gì.

Cuộc tấn công vào căn nhà đó của lực lượng GROM về cơ bản cũng rất giống cách mà lực lượng SEAL vẫn làm. Chỉ có vài khác biệt nho nhỏ đây đó, chẳng hạn như cách họ tiến vào các ngóc ngách của căn nhà, cách họ che chắn cho nhau trong khi tấn công. Nhưng phần lớn đều là các hành động bạo lực. Tấn công bất ngờ vào mục tiêu, đánh mạnh, đánh nhanh và giành quyền kiểm soát.

Có một sự khác biệt mà tôi đặc biệt thích, đó là loại lựu đạn gây lóa của họ. Loại lựu đạn gây choáng của Mỹ khi nổ thì lóe sáng kèm một tiếng nổ rất to, còn lựu đạn của Ba Lan thì gây ra rất nhiều tiếng nổ. Chúng tôi gọi đó là loại “làm bảy phát”. Chúng nổ rất to nghe như tiếng nổ của đại bác. Tôi cố xin họ được dùng loại lựu đạn này càng nhiều càng tốt khi tấn công mục tiêu.

Chúng tôi tấn công ngay lập tức khi lựu đạn bắt đầu nổ. Tôi tiến vào nhà qua cửa chính và bắt gặp ánh mắt viên hạ sĩ quan đang chỉ huy đội quân. Anh ra hiệu cho tôi tiến vào một cách im lặng, tôi chạy vào để quét sạch và đảm bảo an toàn căn phòng của mình.

Căn phòng trống trơn.

An toàn.

Tôi trở lại tầng dưới. Một số người đã tìm thấy cái tên mà chúng tôi săn tìm và tống hắn vào một trong những chiếc xe Hummer. Đám quân Iraq còn lại đóng trong căn nhà đứng quanh đó trông có vẻ sợ phát khiếp.

Trở ra ngoài tôi nhảy lên chiếc xe Hummer và bắt đầu hướng cả đội trở về căn cứ. Nhiệm vụ coi như ổn, nhưng đối với GROM, ước nguyện của tôi đã thành sự thật[*], từ đó trở đi tôi là một thành viên chính thức của đội.

Chu thich: Nguyên văn: “my cherry had been burst”.

VODKA LÀM TỪ NƯỚC TIỂU CỦA TRÂU RỪNG

Chúng tôi tiếp tục thực hiện các cuộc chiến đấu trực tiếp thêm hai tuần rưỡi nữa, nhưng chỉ có một nơi duy nhất mà chúng tôi gặp phải rắc rối thực sự. Một gã muốn đánh lại khi chúng tôi tiến vào. Rủi thay cho hắn, hắn chẳng có gì ngoài hai nắm tay trơ trọi. Ở đây hắn phải đương đầu với một đội quân, mỗi người đều được vũ trang đầy đủ và được bảo vệ bằng áo giáp. Hắn hoặc là ngu hoặc là bạo gan, hay cũng có thể là cả hai.

GROM đã nhanh chóng xử lý hắn. Bớt đi một tên khốn trong danh sách cần tìm.

Chúng tôi bắt được hàng loạt những kẻ bị tình nghi thuộc đủ loại khác nhau: những kẻ cung cấp tài chính cho al-Qaeda, kẻ chế tạo bom, phiến quân, phiến quân nước ngoài; có lần chúng tôi bắt được cả một xe tải đầy bọn đó.

GROM có rất nhiều điểm giống SEAL: cực kỳ chuyên nghiệp trong công việc, và cũng là những tay bợm trên bàn nhậu kéo dài hàng giờ. Tất cả bọn họ đều mang theo vodka Ba Lan, và họ đặc biệt thích loại vodka nhãn hiệu Zubrowka.

Mặc dù tôi chưa từng nhìn thấy loại vodka này ở Mỹ, nhưng Zubrowka đã tồn tại hàng trăm năm nay. Mỗi chai đều có một gọng cỏ trâu; mỗi gọng cỏ này đều đến từ cùng một cánh đồng ở Ba Lan. Cỏ trâu được cho là có các đặc tính y dược, mà câu chuyện tôi được nghe kể lại từ đám bạn ở GROM thì còn màu mè hơn rất nhiều, hoặc có thể chẳng màu mè gì cả. Theo họ thì loài bò rừng châu Âu được biết là loài bò rừng Bison bonasus[*] thường lang thang trên cánh đồng này và tè lên cỏ. Những người chưng cất rượu sẽ cho thêm loại cỏ này vào để rượu thêm kích thích. (Thực tế, trong quá trình chưng cất, một số thành phần của cỏ trâu sẽ được trung hòa một cách an toàn, vì vậy chỉ hương vị của nó được giữ lại. Nhưng đám bạn không nói cho tôi điều đó, có lẽ là khó dịch quá.)

Chu thich: Nguyên văn: “wisent”, chỉ loại bò rừng châu Âu có đầu nhỏ và cao hơn bò rừng Bắc Mỹ, còn có tên khoa học là Bison bonasus.

Tôi chỉ hiểu lờ mờ, nhưng rượu vodka này có độ êm cũng ngang độ mạnh của nó. Điều này hoàn toàn hỗ trợ cho lập luận của họ là người Nga chẳng hiểu gì về vodka và người Ba Lan làm rượu vodka tốt hơn người Nga.

Là một người Mỹ, về mặt chính thức tôi không được phép uống rượu. (Và công khai thì tôi đã không uống.)

Quy định ngu xuẩn này chỉ áp dụng với các quân nhân Mỹ. Thậm chí, chúng tôi còn không thể mua nổi một chai bia. Mọi người khác trong lực lượng liên quân, dù là người Ba Lan hay bất cứ nước nào cũng đều có thể uống.

Thật may mắn, GROM thích chia sẻ. Họ thường đến cửa hàng miễn thuế ở sân bay Baghdad để mua bia hoặc whisky hoặc bất kỳ thứ gì mà đám lính Mỹ đang họp tác với họ cần đến.

Tôi có tình bạn với một trong số lính bắn tỉa của họ tên là Matthew, (tất cả bọn họ đều dùng tên giả, một phần vì an ninh chung của họ). Chúng tôi đã trò chuyện với nhau rất nhiều về các loại súng trường và các tình huống khác nhau. Chúng tôi so sánh các ghi chú về cách họ thực hiện các nhiệm vụ, những loại vũ khí mà họ sử dụng. Sau đó, tôi thu xếp vài buổi tập huấn với họ và giới thiệu với họ chút ít căn bản về cách thức lực lượng SEAL tác chiến. Tôi dạy họ cách dựng nơi ẩn nấp bên trong tòa nhà và hướng dẫn họ một số cách luyện tập khác nhau để mang về huấn luyện trong nước. Chúng tôi thực hiện rất nhiều với tình huống “đột ngột” - các mục tiêu xuất hiện bất ngờ, và tình huống “di động” - mục tiêu di chuyển từ trái qua phải và ngược lại.

Điều dường như luôn thú vị đối với tôi là chúng tôi đã giao tiếp với nhau tốt như thế nào khi không hề sử dụng ngôn ngữ, thậm chí ngay cả trong quá trình hành quân. Họ quay lại và vẫy tôi lên hoặc xuống, đại loại như vậy. Nếu là lính chuyên nghiệp thì chẳng cần có ai bảo bạn phải làm gì. Ta đọc được ý của nhau và phản ứng lại thôi.

SẮP XẾP ĐỒ CHƠI

Mọi người thường hỏi tôi đã mang loại đồ chơi gì đến Iraq. Câu trả lời là: còn tùy. Tôi đã điều chỉnh từng chút một đồ chơi của mình qua hết cuộc dàn quân này đến cuộc dàn quân khác. Đây là cách thức tôi thường chuẩn bị:

SÚNG NGẮN

Khẩu súng ngắn theo tiêu chuẩn do SEAL ban hành là một khẩu SIG Sauer P226, ổ đạn 9 li. Trong khi nó là một vũ khí tuyệt vời, tôi thấy cần loại có hỏa lực mạnh hơn loại sử dụng đạn 9 li này, và sau đó tôi đã bắt đầu mang theo vũ khí của riêng tôi để thay cho khẩu P226. Vấn đề đặt ra là nếu ta dùng một khẩu súng ngắn trong trận chiến tay đôi, nghĩa là điều tồi tệ đã xảy ra rồi. Ta không thể có thời gian tìm vị trí bắn hoàn hảo. Loại súng có ổ đạn lớn hơn có thể không giết được kẻ thù, nhưng lại có khả năng hạ gục khi nện hắn.

Năm 2004, tôi mang theo khẩu Springfield TRP Operator, loại dùng cỡ đạn 45. Nó có phần thân là phiên bản 1991 với loại báng truyền thống và có rãnh để tôi có thể gắn thêm bộ đèn và laser. Màu đen, nó có nòng bự và là một khẩu súng tuyệt vời cho đến khi nó lĩnh một quả lựu đạn ném vào tôi ở Fallujah.

Thực ra tôi vẫn có thể đem đi sửa, những khẩu súng Springfield này chữa cũng khá xương. Tuy nhiên không muốn bỏ qua cơ may, tôi đã thay nó bằng một khẩu SIG P220. Loại P220 này trông cực giống loại P226, nhưng là loại có ổ đạn cỡ 45.

BAO SÚNG

Trong hai đợt triển quân đầu tiên của tôi, tôi dùng bao súng loại đeo ở bắp đùi. (Loại đeo ở phía trên đùi trong phạm vi tay tôi có thể dễ dàng với tới khẩu súng.) Vấn đề với loại bao sting này là nó có xu hướng xoay vòng quanh. Trong khi chiến đấu, hay thậm chí ngay cả nếu bạn chỉ cần nhảy lên thôi thì nó sẽ trượt quanh đùi của bạn. Vì vậy, sau hai đợt ra quân đầu tiên, tôi đã chuyển sang dùng bao súng đeo bên hông. Theo cách này, khẩu súng luôn ở vị trí mà tôi mong đợi.

ĐỒ CỨU THƯƠNG

Mỗi người phải luôn mang bên mình một “bộ đồ cứu thương”, một bộ nho nhỏ các dụng cụ y tế. Bạn luôn phải mang theo những dụng cụ tối thiểu để xử lý vết thương khi trúng đạn: gạc để băng bó các vết thương khác nhau, huyết tương, thuốc cầm máu. Các thứ đó phải luôn sẵn sàng, bạn hẳn không muốn người đến giúp mất thời gian tìm kiếm chúng. Tôi để túi đồ cứu thương của tôi trong chiếc túi hộp ở ống quần, ngay phía dưới bao súng. Nếu tôi có bị bắn thì đồng đội tôi có thể cắt đáy chiếc túi hộp và lôi đồ cứu thương ra. Hầu hết bọn tôi đều làm như vậy.

Khi chữa chạy cho ai đó trên chiến trường trước khi y tá hoặc lính cứu thương đến, bạn luôn dùng ngay đồ cứu thương của người vừa bị thương. Nếu bạn dùng đồ cứu thương của mình, ai biết được khi nào bạn sẽ cần nó cho gã tiếp theo hoặc cho chính mình?

ÁO GIÁP VÀ QUÂN TRANG

Trong đợt triển khai quân lần đầu tiên, bộ áo giáp SEAL của tôi có gắn kèm hệ thống MOLLE. (MOLLE là từ viết tắt của Modular Lightweight Load-carrying Equipment - Thiết bị mang theo các đồ dùng hạng nhẹ, một cụm viết tắt thời thượng chỉ một hệ thống mạng lưới mà các túi đạn và thiết bị có thể cài vào đó, cho phép bạn chỉnh sửa mạng lưới của mình. Bản thân thuật ngữ MOLLE là một thương hiệu chỉ hệ thống được trung tâm nghiên cứu quân sự Natick Labs thiết kế và sản xuất. Thế nhưng rất nhiều người dùng cụm từ này để mô tả bất cứ hệ thống nào tương tự.)

Trong đợt triển khai quân sau đó, tôi đã có bộ áo giáp tách rời và một bộ trang phục Rhodesian riêng. (Rhodesian là một chiếc áo vest cho phép thiết lập một MOLLE hoặc một trang phục giống như MOLLE. Nhưng nguyên tắc chung vẫn là có thể điều chỉnh tùy ý cách mang theo đồ đạc thiết bị của mình.)

Có một chiếc áo vest tách rời cho phép tôi tháo đống đồ chơi ra và đặt nó xuống trong khi vẫn mặc áo giáp. Điều này giúp tôi thoải mái hơn khi nằm xuống mà vẫn có thể lấy được bất kỳ thứ gì mà tôi cần. Khi tôi chuẩn bị sử dụng khẩu súng trường bắn tỉa, tôi nằm phía sau khẩu súng, nhìn qua ống kính ngắm, tôi sẽ tháo dây đeo rồi phanh chiếc áo vest ra. Điều này khiến cho số đạn dược đựng trong các bao đạn dễ dàng được lấy ra. Trong khi đó chiếc áo vest vẫn gắn vào hai vai tôi, và khi tôi đứng dậy thì nó vẫn bên người tôi và buông xuống đúng vị trí của nó.

(Một lưu ý về chiếc áo giáp là áo giáp của Hải quân thường là loại tách rời thành từng phần. Trước thực tế đó, bố mẹ vợ tôi đã rất hào phóng mua cho tôi vài chiếc áo giáp Dragon Skin sau đợt điều động lần thứ ba. Đó là loại siêu nặng, nhưng là loại cực tốt, loại tốt nhất mà ta có thể mua được).

Tôi đeo trên cổ tay thiết bị GPS, với một thiết bị dự trữ trong áo vest và thậm chí dự trữ cả một la bàn kiểu cũ nữa. Tôi cũng dùng một cặp kính bảo hộ trong mỗi đợt triển khai quân; loại kính bảo hộ này có những chiếc quạt cỡ nhỏ gắn bên trong để giữ không khí lưu thông vì vậy mà không tạo ra lớp mù trên mặt kính. Và tất nhiên, tôi còn có một con dao bỏ túi, loại dao nhãn Microtech sau khi tốt nghiệp chương trình huấn luyện BUD/S và các con dao nhọn lưỡi không gập hiệu Emerson and Benchmade, tùy thuộc vào mỗi đợt thực thi nhiệm vụ.

Trong những đồ chơi chúng tôi mang theo còn có một tấm VS-17 hình vuông, được dùng để báo hiệu cho các phi công một vị trí thân thiện, vì vậy mà họ không bắn vào chúng tôi, ít nhất là về mặt lý thuyết.

Lúc đầu, tôi cố gắng để mọi thứ xa khỏi vùng thắt lưng, thậm chí xa đến mức để tôi có thể mang thêm băng đạn dự trữ của khẩu súng lục ở phía trên đùi phía bên kia. (Tôi đã cột chặt băng đạn này lên cao để tôi có thể với tới được cả túi đạn bên đùi trái.)

Tôi không bao giờ đeo thiết bị bảo vệ tai ở Iraq. Thiết bị bảo vệ tai của chúng tôi có bảng mạch loại trừ tiếng ồn. Trong khi có thể nghe được tiếng súng do kẻ thù bắn ra, chiếc mic nhận các âm thanh này đồng đều từ tất cả các hướng. Điều đó có nghĩa là không thể biết tiếng nổ phát ra từ hướng nào.

Trái với những điều vợ tôi vẫn nghĩ, thỉnh thoảng tôi mới đội mũ bảo hiểm. Phải tự nhận là tôi không đội mũ thường xuyên. Chiếc mũ bảo hiểm này là loại mũ tiêu chuẩn của quân đội Mỹ, nhưng khi đội vào chẳng thấy thoải mái chút nào và có giá trị rất yếu trong việc chống lại tất cả mọi thứ, ngoại trừ những phát đạn yếu ớt nhất hoặc mảnh đạn, mảnh bom. Để giữ cho chiếc mũ không bị xoay lung tung quanh đầu, tôi đã nhồi chặt nó bằng các miếng bảo vệ hiệu Pro-Tec, nhưng khi đội trong thời gian dài liên tục nó vẫn rất khó chịu. Nó tăng thêm nhiều trọng lượng lên đầu tôi trong khi đang cầm súng, khiến cho việc tập trung khó khăn hơn khi canh gác.

Tôi đã thấy những viên đạn, thậm chí bắn ra từ khẩu súng lục, có thể dễ dàng xuyên qua mũ, vì vậy tôi không có nhiều động cơ lắm để chịu đựng sự bất tiện. Nói chung, chỉ có một ngoại lệ là vào ban đêm, tôi đội mũ bảo hiểm vào là để có một chỗ để gắn thiết bị nhìn đêm.

Khi không đội mũ bảo hiểm thì tôi thường đội một chiếc mũ lưỡi trai: một chiếc mũ lưỡi trai của trung đội có biểu tượng Cadillac đã được chỉnh thành logo của đơn vị chúng tôi. (Trong khi về mặt chính thức chúng tôi là Trung đội Charlie, thường chúng tôi cũng hay lấy những tên khác thay thế có cùng ký tự hoặc phát âm từ đầu tiên giống nhau, chẳng hạn Charlie trở thành Cadillac, v.v...)

Nhưng tại sao lại là mũ lưỡi trai?

Vì 90% việc trông thật ngầu thì cũng được coi là ngầu rồi. Khi đội mũ lưỡi trai vào, trông sẽ ngầu hơn rất nhiều.

Ngoài chiếc mũ lưỡi trai Cadillac, tôi còn có một chiếc mũ nữa mà tôi rất thích, đó là chiếc mũ của một công ty cứu hỏa ở New York, công ty đã mất một số nhân viên trong sự kiện Ngày 11 tháng Chín. Cha tôi đã nhận chiếc mũ này cho tôi sau vụ tấn công đó khi ông đến thăm một trạm phòng cháy chữa cháy lịch sử của thành phố, “Lions Den” (Sào huyện của sư tử). Ở đó, ông đã gặp các thành viên của đội cứu hỏa Engine 23; khi những người lính cửu hỏa nghe ông nói có con đang chiến đấu trên chiến trường, họ đã năn nỉ ông nhận một chiếc mũ.

Họ nói, “Hãy bảo cậu ta gửi tìm cách trả nợ cho ông nhé.”

Nếu họ đang đọc những dòng này, tôi hy vọng họ hiểu rằng tôi đã thực hiện điều đó.

Trên cổ tay tôi còn đeo một chiếc đồng hồ G-Shock. Chiếc đồng hồ màu đen với dây đeo bằng cao su đã thay thế cho chiếc đồng hồ Rolex Submariner vốn là thiết bị tiêu chuẩn của lực lượng SEAL. (Một người bạn của tôi nghĩ rằng thật là hổ thẹn khi để truyền thống mai một đi, anh cũng vừa mới tặng tôi một chiếc, tôi vẫn có cảm giác đôi chút là lạ khi đeo chiếc Rolex, nhưng đối với anh bạn biệt kích người nhái đến đơn vị trước tôi thì đó là một sự thụt lùi).

Trong thời tiết mát mẻ, tôi mang theo một chiếc áo khoác của riêng tôi để mặc, chiếc áo của hãng North Face, vì dù tin hay không, tôi đã tính đến việc thuyết phục nhà cung cấp đầy quyền lực này phát cho tôi đồ chơi dùng khi trời lạnh. Nhưng đó là lời khoác lác để dành cho một ngày nào đó kia.

Tôi gắn khẩu M-4 và mười băng đạn (300 viên) vào ngăn trước của lưới mắc đống đồ chơi của tôi. Tôi còn có cả điện đài, vài cái đèn pin, và đèn nhấp nháy trong những cái túi này. (Đèn nhấp nháy có thể dùng vào ban đêm để làm tín hiệu cho việc gặp gỡ các đơn vị khác hoặc với máy bay, tàu, thuyền, đại loại như vậy... Nó cũng có thể được dùng để xác định lực lượng đồng minh.)

Nếu tôi mang theo một khẩu súng bắn tỉa, tôi sẽ mang thêm khoảng 200 viên đạn nữa trong ba lô. Khi mang khẩu Mk-11 thay cho khẩu Win Mag hoặc khẩu.338, thì tôi sẽ không phải lo đến việc mang theo khẩu M-4 nữa. Trong trường họp đó, những băng đạn của súng bắn tỉa sẽ ở trong lưới gắn đồ chơi của tôi, gần tầm tay tôi hơn. Tính số đạn dược mà tôi mang theo thì có ba băng đạn dành cho khẩu súng ngắn.

Tôi đi giày leo núi cao cổ của hãng Merrill. Đôi giày rất dễ chịu và dùng bền trong suốt đợt triển khai quân.

DẬY ĐI, KYLE

Khoảng một tháng sau khi cùng tham chiến với Grom, tôi bất ngờ bị một cú lắc vai đánh thức dậy.

Tôi nhảy phắt khỏi giường sẵn sàng chiến với bất cứ kẻ nào dám len lỏi vào chốn riêng tư của tôi.

“Này, này, bình tĩnh đi cậu,” viên trung úy đánh thức tôi dậy nói. Anh là một SEAL, và là sếp của tôi. “Tôi cần cậu mặc quần áo vào, rồi đến văn phòng tôi.”

“Rõ, thưa chỉ huy.” Tôi lẩm bẩm. Tôi mặc quần soóc và đi đôi dép xỏ ngón vào rồi xuống trụ sở.

Tôi nghĩ mình gặp rắc rối, dù không chắc là vì chuyện gì. Tôi vẫn cư xử tốt khi hợp tác với người Ba Lan, chẳng hề tranh cãi đụng độ gì. Tôi lục lại tâm trí khi đi về phía văn phòng của chỉ huy, cố gắng chuẩn bị một lời biện hộ. Nhưng đầu óc tôi vẫn rỗng tuếch khi tôi đến đó.

“Kyle này, tôi cần cậu mang súng bắn tỉa và đóng gói đồ chơi của cậu.” viên trung úy nói với tôi. “Cậu sẽ đi Fallujah.”

Ông bắt đầu nói với tôi về một số việc đã được dàn xếp và đưa ra vài chi tiết hoạt động tác chiến. Lính thủy đánh bộ chuẩn bị một cú đánh lớn, và họ cần những tay súng bắn tỉa giúp đỡ.

Trời ạ, điều này sẽ tuyệt lắm đây, tôi nghĩ. Chúng tôi sẽ giết được hàng loạt những tên xấu xa. Và tôi sẽ vào giữa cuộc chiến đó.

MỘT DOANH TRẠI ĐƯỢC VŨ TRANG

Theo quan điểm lịch sử thì có hai cuộc chiến ở Fallujah. Cuộc chiến thứ nhất diễn ra vào mùa xuân như tôi đã nói ở phần trước. Những suy xét về tình hình chính trị, phần lớn bị tác động bởi việc đưa tin xuyên tạc một cách bừa bãi trên truyền thông và sự tuyên truyền rất nhiều của người Ả Rập, khiến Lính thủy đánh bộ phải rút lại cuộc tấn công ngay sau khi nó bắt đầu, và ngay cả trước khi nó đạt mục tiêu đánh đuổi bọn phiến quân ra khỏi thành phố. Thay thế cho Lính thủy đánh bộ, những người Iraq trung thành với chính phủ lâm thời được cho là có trách nhiệm kiểm soát và cai quản thành phố.

Việc này không hiệu quả. Hầu hết thời gian Lính thủy đánh bộ rút quân, bọn phiến quân tiếp quản hoàn toàn Fallujah. Dân thường không có quan hệ gì với bọn phiến quân hoặc bị giết hoặc phải trốn khỏi thành phố. Bất cứ ai muốn hòa bình, bất cứ ai với bất kỳ suy nghĩ nào, đều rời thành phố càng nhanh càng tốt, nếu không sẽ kết thúc bằng cái chết.

Tỉnh Al-Anabar, khu vực gồm cả thành phố, rải rác đủ các loại tổ chức phiến quân. Rất nhiều trong số đó là lực lượng du kích Hồi giáo Iraq, nhưng cũng có đầy người nước ngoài là thành viên của “al- Qaeda ở Iraq” hoặc các nhóm cực đoan khác. Cầm đầu nhóm al-Qaeda ở Iraq là Sheikh Abdullah al-Janabi, có tổng hành dinh đóng trong thành phố. Là người Jordan từng chiến đấu với Osama bin Laden ở Afghanistan, hắn nguyện sẽ giết hết người Mỹ. (Mặc dù có nhiều nguồn tin trái ngược nhau, theo tôi được biết thì Sheikh Abdullah al-Janabi đã trốn khỏi Fallujah và vẫn còn tự do.)

Đám phiến quân một phần là những tên khủng bố, một phần là các băng nhóm tội phạm. Chúng cài bom IED, bắt cóc các quan chức và gia đình họ, tấn công các đoàn hộ tống của Mỹ, giết những người Iraq mà chúng cho là không cùng đức tin hay quan điểm chính trị với chúng hay bất cứ thứ gì chúng có thể nghĩ ra. Fallujah trở thành noi trú ẩn an toàn của bọn chúng, một phản-thủ đô của Iraq nguyện lật đổ chính phủ lâm thời và ngăn chặn việc bầu cử tự do.

Tỉnh Al-Anabar, nói một cách cụ thể hơn, khu vực xung quanh Fallujah, theo giới truyền thông đã trở thành Tam giác Sunni. Nó cực kỳ tương đương cả về diện tích (bao gồm Baghdad, Ramadi và Baqubah) lẫn thành phần sắc tộc.

(Một số thông tin cơ bản về đạo Hồi ở Iraq: Có hai nhóm chính người theo đạo Hồi ở Iraq, Sunni và Shiite. Trước khi cuộc chiến tranh xảy ra, người Shiite chủ yếu sống ở phía Nam và phía Đông, cụ thể là từ Baghdad đến vùng biên giới, còn người Sunni tập trung quanh Baghdad và kéo đèn vùng Tây Bắc. Hai nhóm này cùng chung sống nhưng nhìn chung lại rất ghét nhau. Trong khi người Shiite chiếm đa số, trong thời kỳ Saddam họ bị phân biệt đối xử và không được phép giữ các vị trí quan trọng. Xa hơn về phía Bắc là khu vực người Kurd chiếm ưu thế, mặc dù người Kurd phần lớn là người Sunni, nhưng có truvền thống riêng và thường không coi bản thân là một phần của Iraq. Saddam coi họ là dân tộc thấp hèn; trong một vụ đàn áp về chính trị, hắn đã ra lệnh sử dụng vũ khí hóa học và phát động một chiến dịch diệt trừ sắc tộc hèn hạ.)

Trong khi sử dụng Fallujah làm căn cứ để tấn công vào khu vực xung quanh và Baghdad, bọn phiến quân dành rất nhiều thời gian để củng cố thành phố để chúng có thể chống lại một cuộc tấn công khác. Chúng tích trữ đạn dược và vũ khí, chuẩn bị thiết bị nổ tự động IED, gia cố nhà cửa. Mìn được cài đặt, các con đường bị chặn lại để có thể được sử dụng cho các cuộc phục kích. Các “hố chuột” được tạo ra trong những bức tường vây, cho phép bọn phiến quân di chuyển từ nhà này sang nhà khác, tránh được các đường phố. Rất nhiều nếu chưa nói là tất cả hai trăm nhà thờ Hồi giáo trong thành phố đều trở thành những boong ke kiên cố, vì bọn phiến quân biết rằng người Mỹ coi trọng những nơi thờ cúng như chốn thiêng liêng, do đó họ không sẵn sàng tấn công vào những nơi đó. Một bệnh viện bị biến thành tổng hành dinh của bọn phiến quân và làm căn cứ hoạt động cho bộ máy tuyên truyền của bọn chúng. Nói tóm lại thành phố đã trở thành pháo đài của bọn khủng bố vào mùa hè năm 2004.

Thực tế bọn phiến quân tự tin đến mức thường xuyên phóng tên lửa tấn công vào căn cứ quân sự của Mỹ trong khu vực và phục kích vào các đoàn hộ tống di chuyển trên các phố chính. Cuối cùng, Bộ Tư lệnh Mỹ quyết định là đã quá đủ rồi, phải tái chiếm Fallujah.

Kế hoạch mà Bộ Tư lệnh phác thảo được gọi là Phantom Fury (Bóng ma Cuồng nộ). Thành phố sẽ bị bao vây cắt đứt, vì vậy mà bọn phiến quân không thể tiếp tế và tăng cường quân được. Bọn phiến quân ở Fallujah sẽ bị diệt trừ tận gốc và triệt phá.

Trong khi Lính thủy đánh bộ thuộc Sư đoàn Lính thủy đánh bộ Số 1 là xương sống của lực lượng tấn công, thì tất cả các binh chủng khác cũng là lực lượng bổ sung quan trọng. Các lính bắn tỉa thuộc lực lượng SEAL kết hợp với các nhóm tấn công nhỏ của Lính thủy đánh bộ, thực hiện việc canh gác và tiến hành nhiệm vụ bắn tỉa truyền thống.

Lính thủy đánh bộ bỏ ra vài tuần để chuẩn bị cho cuộc tấn công, tiến hành vô số các chiến dịch khác nhau khiến cho bọn phiến quân hoang mang. Những tên xấu xa biết rằng có gì đó sắp xảy ra; chúng chỉ không biết nó sẽ xảy ra ở đâu và khi nào mà thôi. Phía Đông thành phố đã được củng cố vững chắc, và kẻ thù có lẽ đã nghĩ đó là nơi cuộc tấn công nổ ra.

Thay vào đó, cuộc tấn công lại đến từ phía Tây Bắc và đánh cuốn chiếu dần vào trung tâm thành phố. Đó là nơi tôi tiến vào.

ĐẾN CHỖ ĐÓ

Được Trung úy cho giải tán, ngay lập tức tôi gói ghém đồ đạc rồi đi ra phía ngoài nơi một chiếc xe bán tải đang chờ sẵn để đưa tôi đến chiếc trực thăng. Chiếc trực thăng Blackhawk H-60 đang chờ tôi và một anh chàng khác cũng đã chiến đấu cùng GROM, một chuyên gia máy tính tên là Adam. Chúng tôi nhìn nhau và mỉm cười. Chúng tôi rất háo hức được tham gia chiến đấu thực sự.

Các SEAL trên khắp Iraq đều đang thực hiện cuộc hành quân tương tự, tiến về căn cứ lớn của Lính thủy đánh bộ ở phía Nam thành phố tại Doanh trại Fallujah. Họ đã thiết lập một căn cứ nhỏ của riêng họ ngay bên trong doanh trại khi tôi đến đó. Tôi đi qua một sảnh hẹp của tòa nhà được gán cho cái tên Alamo, cố gắng không va chạm bất kỳ thứ gì. Bên tường xếp đầy đồ đạc và thiết bị, hòm đựng súng ống và các va li kim loại, các thùng các tông và một thùng đồ lặt vặt đựng sô đa. Chúng tôi có thể là một ban nhạc rock lưu động đang dựng sân khấu lớn cho một show đường phố.

Ngoại trừ việc show diễn của chúng tôi không bắn pháo hoa hoành tráng.

Ngoài lính bắn tỉa của Đội 3, những người khác được huy động từ Đội 5 và Đội 8 cùng tham gia cuộc tấn công. Tôi đã biết hầu hết những anh chàng thuộc Bờ Tây; còn những người khác thì vài tuần sau là tôi quen.

Mức năng lượng lên cao hết cỡ. Mọi người đều sốt sắng muốn sớm được tham gia cuộc chiến để hỗ trợ Lính thủy đánh bộ.

MẶT TRẬN Ở NHÀ

Khi chiến sự sắp đến gần, trong tâm trí tôi cứ lảng vảng hình ảnh vợ con. Con trai bé bỏng của tôi đang lớn. Taya bắt đầu gửi cho tôi những tấm ảnh và cả băng video cho thấy bé lớn lên từng ngày. Cô ấy cũng gửi ảnh qua e-mail để tôi ngắm.

Bây giờ tôi vẫn có thể thấy những video này trong tâm trí mình - cậu chàng đang nằm ngửa, chân tay cựa quậy khua khoắng như thể cậu ta đang chạy và nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt.

Cậu chàng cực kỳ hiếu động. Hệt như cha nó.

Lễ Tạ ơn, lễ Giáng sinh, ở Iraq tất cả những ngày này đối với tôi chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng không được thấy con trai trải qua những ngày đó lại là chuyện khác. Càng xa tôi càng thấy con mình lớn lên, càng muốn được giúp con trưởng thành hơn, làm những gì mà một người cha cần phải làm cho con trai mình.

Tôi gọi điện cho Taya trong khi chờ đợi cuộc tấn công bắt

đầu.

Đó là một cuộc trò chuyện ngắn ngủi.

“Nghe này, cưng, anh không thể nói cho em biết anh sắp đi đâu, nhưng anh sẽ phải đi một thời gian,” tôi nói. “Hãy theo dõi thời sự rồi em sẽ đoán ra. Anh không biết khi nào anh mới lại được nói chuyện với em nữa.”

Tôi phải không được liên hệ với vợ trong một thời gian.

CUỘC TẤN CÔNG BẮT ĐẦU

Vào buổi tối ngày 7 tháng Mười một, tôi chen vào một chiếc xe lội nước của Lính thủy đánh bộ cùng với trên chục lính thủy đánh bộ và vài SEAL, tất cả đều được tăng cường cho cuộc chiến. Tiếng ầm ầm của chiếc xe bọc thép lớn di chuyển một cách chậm chạp vượt lên phía trước một đoàn xe khổng lồ, rời khỏi căn cứ và phía Bắc thành phố, tiến vào sa mạc rộng lớn.

Chúng tôi ngồi sát cạnh nhau trên hai hàng ghế băng đối diện trong lòng xe. Hàng ghế thứ ba được nhét vào giữa khoang xe. Chiếc xe tăng lội nước AAV-7A1 giống hệt một chiếc xe limousine có thể kéo dài; bạn chỉ có thể cố gắng để những gã ngồi bên cạnh không đẩy mình ra ngoài, nhưng đấy là tất cả những gì bạn có thể làm. Từ “chật cứng” không tả hết cảnh này. May thay là tất cả những người ngồi bên cạnh tôi đều vừa mới tắm rửa.

Ban đầu, trời lạnh, khi đó là tháng Mười một, và đối với một người Texas thì cảm giác như là một mùa đông lạnh giá, nhưng trong vài phút chiếc lò sưởi làm chúng tôi thấy ngột ngạt, chúng tôi phải đề nghị tắt nó đi. Tôi đặt túi xuống sàn xe. Khẩu súng Mk-11 dựng giữa hai chân và đặt chiếc mũ bảo hiểm lên trên, thế là tôi có một chiếc gối tạm thời. Tôi cố gắng chớp mắt trong lúc di chuyển. Nhắm mắt lại thời gian trôi nhanh hơn.

Tôi chẳng ngủ được bao lâu. Thỉnh thoảng tôi liếc mắt qua những khe cửa sổ trên cánh cửa phía sau xe, nhưng tôi không thể nhìn thấy gì vì những gã đang ngồi ở đó. Chẳng có mất mát gì đáng kể, tất cả những gì họ có thể thấy được là phần còn lại của đoàn xe, một đám bụi mù mịt và vài khoảng đất của sa mạc trống trơn. Chúng tôi đã tập huấn cùng Lính thủy đánh bộ khoảng một tuần để dượt lại từ việc lên xuống xe thế nào đến việc xác định chính xác chúng tôi nên sử dụng loại đạn nào để làm nổ tung các hố bắn tỉa trong các tòa nhà. Giữa các bài tập, chúng tôi còn nghiên cứu cách liên lạc bằng điện đài và chiến lược chung, trao đổi ý kiến về việc làm thế nào để bảo vệ tốt nhất cho các đơn vị mà chúng tôi cùng chiến đấu, cũng như đưa ra hàng chục các quyết định về chiến thuật để lựa chọn, chẳng hạn như nói chung thì bắn từ sân thượng hay từ tầng ngay dưới đó thì tốt hơn.

Bây giờ chúng tôi đã sẵn sàng, nhưng thường trong quân đội, chúng tôi luôn ở trong tư thế vừa khẩn trương vừa chờ đợi. Những chiếc xe bánh xích đưa chúng tôi lên phía Bắc của Fallujah rồi dừng lại.

Chúng tôi ngồi đó tưởng như hàng giờ. Mọi bắp thịt trên cơ thể tôi tê cứng. Rốt cuộc, có người đề nghị chúng tôi có thể mở cửa dốc phía sau để dãn chân dãn cẳng một chút. Tôi rời khỏi ghế băng và đi ra ngoài bắn vài bi cùng với mấy SEAL ngồi bên cạnh.

Cuối cùng, ngay trước khi trời sáng, chúng tôi gói ghém đồ đoàn lên xe và bắt đầu lăn bánh về phía rìa của thành phố. Bên trong pháo hạm đang lăn bánh đầy ắp adrenaline. Chúng tôi đã sẵn sàng lên đường.

Điểm đến của chúng tôi là tổ hợp căn hộ nhìn ra góc phía Tây Bắc của thành phố. Cách khoảng hơn 700 mét bắt đầu tính từ trung tâm thành phố, các tòa nhà có một tầm nhìn lý tưởng xuống nơi mà Lính thủy đánh bộ sẽ thực hiện cuộc tấn công, và là một vị trí tuyệt vời cho đám lính bắn tỉa. Tất cả những gì chúng tôi phải làm là phải chiếm lấy nó.

“5 phút!” Một trong số viên hạ sĩ quan hét lên.

Tôi quàng cánh tay qua túi đồ còn tay kia nắm chặt báng súng.

Chiếc xe lội nước thình lình dừng lại. Cánh cửa phía ngả sầm xuống, tôi nhảy vọt ra khỏi xe cùng một số người khác, chạy về phía một lùm cây nhỏ có ít cây cối và vách đá che chắn. Tôi di chuyển nhanh nhẹn, tôi không hề sợ bị bắn cũng như không sợ bị một trong những chiếc xe của đoàn xe đưa chúng tôi đến đây nghiền nát. Những chiếc xe tăng lội nước khổng lồ không ra vẻ gì sẽ dừng lại vì bất kỳ ai đó.

Tôi nằm xuống đất, đặt túi bên cạnh, bắt đầu quan sát tòa nhà, theo dõi bất cứ thứ gì khả nghi. Tôi đảo mắt nhìn quanh các cửa sổ và khu vực xung quanh, trông chừng tất cả trong khi có thể bị bắn bất cứ lúc nào. Trong khi đó Lính thủy đánh bộ cũng điều xe của họ vào. Ngoài những chiếc xe bánh xích chở quân, còn có các xe Hummer, xe tăng và hàng chục phương tiện hỗ trợ khác. Lính thủy đánh bộ tiếp tục kéo vào, ồ ạt tràn vào các tòa nhà.

Họ bắt đầu đạp mạnh các cánh cửa. Tôi không thể nghe được gì nhiều, chỉ thấy tiếng vọng lớn của những tiếng súng họ dùng để phá các ổ khóa. Lính thủy đánh bộ đã bắt được một vài phụ nữ ở phía ngoài, còn thì khoảng sân quanh tòa nhà vẫn trống trơn.

Mắt tôi không ngừng ngó nghiêng. Tôi quan sát liên tục, cố gắng tìm ra điều gì đó.

Người phụ trách điện đài của chúng tôi đến và đóng chốt ngay bên cạnh tôi. Anh ta đang theo sát cuộc tiến quân của Lính thủy đánh bộ khi họ vào trong và chiếm lĩnh được tòa nhà. Một vài người dân mà họ tìm thấy trong tòa nhà phải được đưa ra ngoài và chuyển tới nơi an toàn. Không có sự kháng cự nào từ bên trong, nếu như có bọn phiến quân, bọn chúng đã chạy ra ngoài khi thấy chúng tôi tiến vào, hoặc giờ bọn chúng giả vờ là những người Iraq trung thành và những người bạn của nước Mỹ.

Lính thủy đánh bộ kết thúc cuộc tấn công này bằng việc đưa ra khỏi tòa nhà khoảng 250 dân thường, một phần nhỏ trong tổng số người mà họ được thông báo trước đó. Trước hết, từng người bị thẩm vấn. Giả định rằng họ chưa hề dùng bất kỳ loại vũ khí nào trong thời gian gần đây (Lính thủy đánh bộ thực hiện việc kiểm tra xem có thuốc súng trên tay họ không), và không nằm trong danh sách đang bị truy nã, hoặc không phải là những phần tử khả nghi, thì người đứng đầu mỗi gia đình sẽ được cấp 300 đô la và được lệnh rời đi. Theo một sĩ quan của Lính thủy đánh bộ, họ được phép trở về căn hộ của họ lấy những thứ cần thiết rồi rời khỏi đó.

(Một vài tên phiến quân có tên tuổi đã bị bắt giữ và cầm chân trong chiến dịch này).

Trong khi chúng tôi đang tiến quân trên còn đường hẹp để quan sát thành phố, chúng tôi cũng đang theo dõi một cách thận trọng một tên bắn tỉa người Iraq được biết đến với cái tên Mustafa. Theo những tin tức mà chúng tôi nghe được, Mustafa là một tay thiện xạ thi tài ở Olympic. Hắn đã dùng kỹ năng của mình để chống lại người Mỹ cùng quân đội và cảnh sát Iraq. Nhiều băng video đã được làm và đăng tải khoe khoang khả năng của hắn.

Tôi chưa từng gặp hắn, nhưng những người lính bắn tỉa khác sau đó đã giết được một tên bắn tỉa người Iraq mà chúng tôi nghĩ chính là hắn.

TIẾN VÀO CÁC TÒA NHÀ

“Được rồi,” cuối cùng cậu phụ trách điện đài nói.

“Họ muốn chúng ta vào bên trong.”

Tôi chạy từ lùm cây tới tổ hợp các tòa nhà, ở đó một trung úy SEAL đang tổ chức việc canh gác. Anh ta có một tấm bản đồ của thành phố và chỉ cho chúng tôi nơi cuộc tấn công sẽ tiến hành vào hôm sau.

“Chúng ta sẽ kiểm soát khu vực này, ở đây, và ở đây nữa,” anh ta nói. “Tất cả các anh sẽ tìm một căn phòng để thực hiện điều đó.”

Anh ta chỉ cho chúng tôi một tòa nhà, chúng tôi bắt đầu tiến hành. Tôi được bố trí cùng với một lính bắn tỉa mà tôi đã gặp ở Chuông trình BUD/S, tên là Ray. (Tôi dùng tên này để bảo vệ danh tính của cậu ta.)

Ray là một tay bắn tỉa cừ khôi thuộc loại khó chơi. Thích súng, và nắm rất chắc về súng ống. Tôi không chắc là cậu ta bắn giỏi đến đâu, nhưng chắc chắn cậu ta đã quên nhiều hơn tôi về các vấn đề liên quan đến súng trường.

Chúng tôi không gặp lại nhau trong nhiều năm, nhưng từ những gì tôi nhớ được ở Chương trình BUD/S, tôi tin rằng chúng tôi sẽ hợp nhau. Ta muốn có cảm giác tin tưởng vào người mà ta cùng hợp tác, đó là người ta có thể dựa vào, xét cho cùng thì thật ra ta sẽ phó thác vào người đó hoàn toàn.

Một người lính biệt kích mà chúng tôi thường gọi với cái tên Molloy đã cùng chúng tôi trông nom bảo quản súng trường và các món đồ khác trên một chiếc xe Hummer. Cậu ta đến và đưa cho tôi khẩu súng.300 Win Mag. Tầm xa vượt trội của súng trường so với khẩu Mk-11 sẽ rất thuận tiện khi tôi tìm được một chỗ ẩn náu lý tưởng để bắn ra từ đó.

Khi chạy lên cầu thang, tôi đã phân loại vị trí trong đầu mình. Tôi biết tôi muốn mé nào của tòa nhà, và khoảng chừng nơi tôi muốn đóng chốt. Khi lên tới đỉnh tòa nhà, tôi quyết định sẽ bắn từ trong một căn phòng chứ không phải từ trên nóc, tôi bắt đầu băng qua hành lang, xem xét một căn hộ có tầm nhìn tốt. Đi vào trong, tôi kiếm một căn phòng có đồ gỗ mà tôi có thể dùng để đóng chốt.

Đối với tôi, ngôi nhà mà tôi đứng chỉ là một phần khác của chiến trường. Những căn nhà và mọi đồ đạc trong đó chỉ là những thứ để dùng cho việc hoàn thành mục tiêu của chúng tôi - quét sạch thành phố này.

Lính bắn tỉa phải nằm hoặc ngồi trong một thời gian dài, vì vậy tôi cần tìm đồ đạc sao cho tôi thoải mái nhất có thể. Ta cũng cần phải tìm cái gì đó để đặt khẩu súng trường lên. Trong trường họp này, tôi sẽ bắn qua cửa sổ, vì thế tôi cần phải đặt súng cao lên. Khi lục lọi khắp căn hộ tôi thấy trong một phòng có một chiếc cũi trẻ em. Đó là một vật tìm thấy khá hiếm hoi, và là thứ tôi có thể dùng tốt.

Ray và tôi lôi chiếc cũi ra và lật ngược nó lên. Thế là chúng tôi có một cái chân đế. Rồi chúng tôi tháo cánh cửa của căn phòng ra và đặt nó lên trên. Giờ chúng tôi đã có một cái nền rất vững để thực thi nhiệm vụ.

Hầu hết người Iraq không ngủ trên giường; họ dùng túi ngủ, chiếu dày, hoặc chăn trải trực tiếp lên sàn. Chúng tôi tìm thấy vài thứ trong số đó và đặt chúng ra ngoài cánh cửa. Nó tạo thành một cái giường được nâng cao có phần thoải mái khi nằm trong lúc dùng súng. Một chiếc chiếu cuộn tròn cho chúng tôi chỗ để nghỉ ngơi mỗi khi kết thúc các đợt nhả đạn từ các khẩu súng của mình.

Chúng tôi mở cửa sổ và sẵn sàng bắn.

Chúng tôi quyết định trực chiến trong vòng ba tiếng, rồi lại nghỉ ba tiếng, cứ luân phiên nhau như vậy. Ray nhận ca trực đầu tiên.

Tôi bắt đầu lục lọi khắp tòa nhà xem có tìm thấy thứ gì hay ho không: tiền, súng ống, chất nổ. Nhưng thứ duy nhất đáng lấy là bộ đồ chơi điện tử cầm tay chơi đánh golf ‘Tiger Woods”.

Thực ra tôi không được phép lấy bộ đồ chơi này, hay thậm chí là có được lấy nó, một cách chính thức đi nữa. Nếu tôi lấy nó, tôi sẽ chơi suốt thời gian còn lại của đợt dàn quân. Nếu tôi làm điều đó, có thể giải thích được vì sao giờ tôi chơi game giỏi đến thế.

Nếu tôi lấy bộ đồ chơi đó.

Vào cuối buổi chiều tôi nhận khẩu súng.300 Win Mag. Thành phố mà tôi đang trông chừng là một màu vàng nâu và xám, như thể mọi thứ đều bị phủ thứ ánh sáng mầu đỏ nâu của một bức ảnh cũ. Nếu không phải là tất cả thì cũng rất nhiều các tòa nhà được xây bằng gạch hoặc trát vữa đều với cùng màu này. Đá và lòng đường đều màu xám. Dường như có một lớp bụi mờ cát sa mạc lảng vảng khắp các ngôi nhà. Cũng có cây cối và các loài thực vật khác nữa, nhưng khung cảnh tổng thể giống như một bộ sưu tập những chiếc hộp được son màu xám xịt trên sa mạc.

Hầu hết các tòa nhà đó đều là những ngôi nhà thấp, cao hai tầng, thỉnh thoảng có nhà ba hoặc bốn tầng. Những chiếc tháp của các giáo đường lác đác vươn cao lên khỏi đám màu xám. Đây đó là những mái vòm của các nhà thờ Hồi giáo bao quanh, đây là một mé vòm hình trứng màu xanh bao quanh bởi hàng chục hình trứng nhỏ hơn, kia là một cây củ cải trắng lấp lánh màu trắng bạc trong ánh nắng trời chiều.

Những tòa nhà được xây sát bên nhau, hầu hết các đường phố được bố trí hình mạng lưới. Các bức tường dựng lên khắp nơi. Thành phố đã ở trong tình trạng chiến tranh một thời gian, và có hàng đống đổ nát không chỉ ở phía ngoài rìa mà còn ở cả các đường phố chính. Dù cái chết luôn lơ lửng ngay trước mắt tôi, nhưng hình ảnh chiếc cầu bỉ ổi nơi bọn phiến quân đã báng bổ thi thể của các nhà thầu Mỹ thuộc công ty Blackwater cách đây khoảng nửa năm không hề làm tôi sợ hãi. Chiếc cầu bắc qua dòng sông Euphrates vốn chảy theo một nhánh sông có hình chữ V ngược ngay phía Nam vị trí tôi đang đóng chốt.

Mối quan tâm trước mắt của tôi là hệ thống đường ray xe lửa cách tòa nhà hơn 730 mét. Có một đường đê và một trụ cầu cho tàu hỏa trên đường cao tốc phía Nam vị trí của tôi. Ở hướng Đông phía bên trái tôi khi tôi quan sát bên ngoài cửa sổ, đường tàu hỏa chạy thẳng vào một sân bẻ ghi và vào ga phía ngoài khu vực chính của thành phố.

Cuộc tiến công của Lính thủy đánh bộ đã quét qua các đường ray, hướng xuống và tiến sâu vào khu vực từ sông Euphrates tới một con đường cao tốc ở cuối phía Đông của thành phố, được đánh dấu bằng một giao lộ dạng vòng xoay. Đây là khu vực có chiều rộng khoảng 5 ki lô mét; kế hoạch là phải tiến sâu khoảng 2,5 ki lô mét vào đại lộ số 10 của Iraq vào ngày 10 tháng Mười một, hơn ba ngày một chút. Điều này có vẻ không lấy gì làm nhiều, hầu hết Lính thủy đánh bộ chắc chắn có thể vượt qua quãng đường dài đó trong nửa giờ, nhưng đường đi xuyên qua một ổ chuột đầy các con phố bị đặt bẫy mìn và qua các ngôi nhà đã được vũ trang đầy đủ. Điều này không chỉ khiến Lính th?