Số Kiếp
HỒI đó, khi tôi gặp Nguyễn quốc Cương, thì không ngày nào, đêm nào, tôi không lấy làm băn khoăn, khó chịu. Tôi quen biết Cương từ thủa đầu còn để chỏm ; hai chúng tôi học một lớp cho đến lúc cùng thi Trung học; rồi từ đấy, cuộc sinh tồn cực nhục đã bắt chúng tôi mỗi người một ngã, xa nhau.
Trong ngót bảy năm trời, tôi không được thấy Cương môt lần nào cả. Chỉ mang máng nghe nói anh thi ba khoa đều trượt, nền buồn rầu bỏ hẳn việc học hành. Tôi Iại biết rằng anh đã theo một viên đốc tờ tây, bỏ nhà lên tận chốn sơn lâm cùng cốc.
Thật vậy. Anh Cương, phẫn chí, ly dị hẳn với nghề nghiên bút, anh thi vào ngạch khán hộ, rồi lại tự đầu đơn xin bổ đến Sơn La, Hình như anh lấy cảnh rừng cao núi cả làm thú vị, anh ở biệt mãi trên Thượng du không trở về nữa.
Mãi cho đến ngày nay; ngày nay, không biết vì lẽ gì, tự nhiên tôi thấy Cương lần mò về Hà nội, thuê một căn nhà nhỏ ở phố Sinh Từ. Tình cờ gặp anh một buổi tối ngồi hứng gió trong hàng Kem ven bờ hồ Hoàn Kiếm, tôi biết rõ anh đã nằn nì khẩn khoản mãi mới được đổi về Hà nộí, làm khán hộ trong nhà thương Phủ Doãn. Hiểu thấu tình cảnh và chí hướng anh ngày trước, tôi lấy làm lạ lắm. Xưa kia, anh nhất định bỏ nhà bỏ cửa, rắp tâm lên an cư lạc nghiệp ở Sơn La. Anh lại muốn lấy một cô nàng, rồi cùng người vợ thổ ăn ở đến bạc đầu, nhắm mắt. Nhưng nay tôi hay rằng vợ thổ chưa kịp lấy, mà ý định anh đã thấy tiêu rồi.
Vì sự gì anh thay hẳn tính tình, cái đó tôi không hiểu. Tôi chỉ đoán nổi trong đời anh, hẳn có việc rất kỳ dị xảy ra, một việc có thể khiến toàn thân thể và linh hồn anh lay động. Chả thế mà, lộ ra một vẻ mặt hãi hùng đến tột điểm, anh đỉ tai nói sẽ tôi biết không bao giờ anh còn dám cả gan trở lại chốn đồng rừng.
Anh Cương chỉ bảo có thế. Anh không nói gì thêm nữa, Buổi chúng tôi gặp gỡ nhau sau bảy tám năm li biệt chả cho tôi một cảm tưởng gì dễ chịu, mà trái lại, làm cho tính tò mò hiếu sự của tôi càng sội nổi hơn nhiều. Thành ra chả ngày đêm nào tôi không theo riết anh Cương, cố ý cạy răng anh, bắt anh kể rõ câu chuyện bí mật chốn rừng thiêng mà anh giấu trong đáy óc. Theo lẽo đẽo mãi vẫn thấy vô công hiệu, tôi rủ anh cùng dọn đến ở một căn nhà. Anh cũng không vợ như tôi, chúng tôi được thỏa thuận về sự ăn chung nằm chạ ấy. Nhưng ngày tháng lần hồi trôi mãi; tôi thì vẫn thất vọng như thường. Càng gần gụi anh Chương, tôi càng thấy anh lắm sự bí mật, mà rút cục, vẫn chưa hiểu vì sao anh bỏ rừng rú trở về.
Tôi đoán phỏng là anh sợ cọp. Bởi lẽ vừa đến ở cùng anh một gác, tôi đã thấy treo cao trên tường một bức tranh Thần Bạch hổ ngồi chồm chỗm rất oai hùng.Hai mắt sáng quắc, một bộ ria có vẻ ngang tàng, ngạo ngược, ông Bạch hổ nhà tôi coi chừng như muốn thị uy một cách rất sỗ sàng. Tôi đối với ông cũng như ông đối với tôi, nghĩa là cả đôi bên cùng có vẻ tự tôn, tự đại. Trái lại, anh Cương thì không thế. Ngày nào, khi sắp đi ngủ, anh cũng đèn nhang trước bức tranh Thần Bạch hổ, rồi anh quỳ xuống khấn lầm rầm hồi lâu không ngớt, lại kính cẩn rập đầu lạy bốn lạy, như lạy ông bà ông vải giữa từ đường.
Tôi có ý chế anh, thì anh vội nghiêm nét mặt, khuyên tôi đừng nên nhạo báng. Rồi anh nằm xuống ngủ, say như chết. Có lắm khi, giữa quãng đêm trường tịch mịch,lúc tôi đương mơ màng trong giấc ngủ liên miên, tôi bị giật bắn người lên, vì nghe ngay bên mình có tiếng ai hò hét:
‘‘ - Con lạy Đức ông vạn lạy! Ngài tha cho con!’’
Tôi mở mắt, thì thấy anh Cương đương quằn quại,. la lớn như thế rồi ú ớ hồi lâu, tựa hồ anh đang bị ở trong cơn ảo mộng. Tôi vội vàng đánh thức anh dậy; anh tỉnh táo rồi, tôi hỏi anh thấy những gì, Anh lắc đầu không nói, nhưng nhảy bổ xuống sàn, lấy áo khăn mặc vào chỉnh đốn rồi lại ra đèn hương khấn vái trước ảnh Thần Bạch hổ dán trên tường. Xong rồi anh lại đi ngủ, không nói năng gì cả.
Tôi giận lắm, nhưng không biết làm thế nào để cậy răng anh được, đành chờ có dịp sẽ bắt anh làm cho mãn ý của tôi. Song le, trong lúc chờ chực, tôi xiết bao là bực bội! Trong một tuần lễ, ít ra cũng ba ngày bị đánh thức dậy, trong lúc đương ngủ ngon, vì những tiếng kêu oái oái; rồi khi đã dậy rồi, lại phải dằn lòng mục kích vẻ nghiêm nghị, sợ sệt, của anh Cương khi anh quỳ lạy trước Thần tượng một ông Bạch hổ mơ hồ.
Mãi rồi cũng hóa nhàm; dần dần sau tôi quen cái đời chung chạ với anh Cương; anh muốn kêu mấy thì kêu, tôi cứ ngủ khì ra không biết. Cũng có đêm tôi bị đánh thức dậy vì anh lục đục ra khấn khứa, nhưng rồi lại trở mình ngủ lại, mặc cho anh làm gì thì làm. Tôi xuýt đã quên bẵng hẳn tâm sự anh Cương, tôi cho là anh hóa dại, không để ý đến những hành vi kỳ quặc của anh nữa.
Nhưng anh thì không thế. Bao giờ cũng như bao giờ, anh tựa hồ cung kính giống hổ một cách đặc biệt. Mỗi khi lên chơi trên vườn Bách thú, anh mà đi gần đến cũi hổ thì lộ ngay ra một vẻ nhũn nhặn, lễ phép lạ thường. Còn cách con hổ bị nhốt đến năm thước tây, anh đã cúi đầu vái nó, rồi đứng xa xa đôi mắt ngắm thần uy của Chúa Sơn lâm. Không bao giờ anh dám lại gần chuồng, kéo anh, ép anh, thì anh giẫy nẩy lên, rồi chạy. Có một sự làm cho tôi rất chú ý, là khi có bóng anh đi lại thăm cũi hổ, thì con hổ trong lồng giương mắt nhìn anh, nhìn chán lại gầm lên,làm cho anh phát sợ phải chuồn ngay, không dám ngoái cổ lại.
Một lần khác, tôi dẫn anh đi qua cửa một đền thờ. Trước cửa đền, một tấm bình phong trên có khắc hình một ông hổ vàng dữ tợn. Tôi cố ý nói chuyện rõ hùng hồn và dìu anh Cương đi sát bên cạnh bình phong, thử xem khi lơ đãng, anh có sợ Thần hổ của anh không. Môt bước... hai ba bước... anh Cương đương vui vẻ tiến lên, thì; bỗng dưng, gần đến chỗ bình phong, mặt anh xám lại, người anh run lên, anh lộ ra một vẻ khủng khiếp lạ thường. Không những thế, anh lại còn vội quỳ rạt xuống cạnh đường, cúi đầu rập đất lạy bốn lạy rồi cung kính đứng dậy vùng ăãng chạy mất.
Mãi đến một hôm mưa dầm gió bấc, một hôm mà lòng người, chịu không nổi sức dè nén của tâm sự, cũng như không gian chịu không nổi sức đè nén của những luồng điện khí chất âm ỷ giữa vừng mây, mãi đến hôm ấy, tôi mới được hân hạnh hứng trên môi anh Cương một cân chuyện ly kỳ, huyền hoặc, một câu chuyện tôi không muốn tin mà sau rồi cũng phải tin, một chuyện ma thiêng hổ dữ của chốn Sơn lâm u uất.
‘‘- Hồi đó, anh ạ, tôi làm ở Mai Sơn, cách tỉnh thành Sơn La độ vài chục cây số. Tôi nguyên có quan thày che chở, liền được hân hạnh coi riêng một nhà thương nho nhỏ, một ‘‘infirmerie’’.
‘‘Tôi sống ở Mai Sơn một quãng đời không vẻ vang nhưng bình tĩnh, không giầu có nhưng thảnh thơi. Mỗi ngày, chỉ bận chăm nom coi sóc một vài bệnh nhân đến xin thuốc, còn thì ngồi rỗi cả ngày. Cũng có hôm không ai mò tới y viện cả. Thỉnh thoảng lắm lắm mới được tiếp một vài ông tây hay bà đầ, đi săn bắn bị nạn, vào nhờ băng bó; còn ngày thường ra, chỉ toàn một lũ thổ dân.
‘‘Tôi cư xử với người đường ngược nhũn nhặn và tử tế, hóa nên ai cũng có lòng yûu quí; kẻ nào có tâm sự gì, không bao giờ không kể cặn kẽ tôi nghe.
‘‘Một buổi sáng tinh sương - vào khoảng trung tuần tháng bảy - tôi đương mơ màng ngủ kỹ bỗng giật mình choàng dậy, rồi được nghe tiếng đấm cửa thình thình xen vào tiếng kêu gọi rầm rĩ. Tôi nhận ra tiếng người bản thổ. Tôi cho người nhà mở cửa, thì thấy hấp tấp đi vào một người Thái khỏe mạnh, hùng dũng, mà cánh tay bên phải, lấp dưới một ống tay áo rách tơi tả, bị một vật gi cào xé, đến nỗi máu tia từng dòng xuống bàn tay, rồi dọng lại.
Tôi hỏi:
‘‘ Anh làm sao thế? Vì sao tay lại bị thương?’’
Người Thái đáp:
‘‘ - Thưa thày ông cọp cào!’’
Tôi rất lấy làm lạ, nhưng cũng không hỏi căn vặn, chỉ lấy cồn ra rửa sạch chỗ thương tích cho người bị nạn, bôi thuốc cẩn thận xong đâu đấy băng lại gọn ghẽ, Băng xong, tôi đợi cho người Thái quay đi để lộn vào ngủ lại; nhưng tôi nào được như ý, bởi người kia cứ ngần ngừ như muốn ở lại, hoặc để cảm ơn tôi hay únói chuyện gì, tôi không rõ. Một lức lâu, tôi hỏi:
‘‘ - Anh còn muốn uống thuốc hay xin thuốc gì nữa không?
‘‘ - Thưa thày, con hiện mệt quá, đói quá, muốn ngồi nghỉ một chốc rồi lại về, đường xa lắm...
Nói xong, người Thái bỗng che mặt sụt sùi khóc, Tôi bỡ ngỡ, không biết anh ta có chuyện gì đau xót, chỉ đành khuyên dỗ anh nên bớt cơn sầu não, vào nằm nghỉ trong nhà một lúc cho đở mệt. Tôi lại bảo người nhà, sẵn sữa bò, pha cho anh ta một cốc lớn, ăn với mẩu cơm nắm còn sót lại tự hôm qua. Người Thái ăn uống xong, đứng dậy lại gần tôi, tìm lời cảm tạ. Lúc bấy gíờ tôi mới ngắm anh ta kỹ lưỡng: hắn là một thiếu niên cường tráng, trông tướng mạo khôi ngô, lẫm liệt, tưởng chừng như một vị anh hùng hay một tên tướng cướp có can tràng. Một người cứng cáp như thế đáng lẽ không khi nào sụt sùi khóc lóc như một cô con gái thì phải, thế mà anh chàng này vẫn cứ âu- sầu, ủ dột, làm cho tôi càng không hiểu vì sao một tráng sĩ như anh phải nuốt lệ ngậm ngùi,
Tôi nói:
‘‘ - Anh không nên tạ ơn tôi, sự tôi băng bó và giúp đỡ anh chỉ là bổn phận của tôi phải thế, Tôi thấy anh buồn rầu, khóc lóc, tôi đoán rằng anh hẳn có một mối thương tâm gì chất nặng ở trong lòng. Mối đau đớn ấy là thế nào, mà vì sao anh đến nỗi bị hổ cào, anh có thể nói cho tôi biết không, may ra giúp anh đỡ khổ chút nào, tôi xin hết sức.
Tôi nói xong, người Thái trố hai mắt sáng quắc nhìn tôi không chớp; hắn bỗng nhích mép cười gằn, lộ ra một nét cười chua chát, rồi đôí mắt hắn bỗng mờ ám hẳn đi, hai dòng lệ từ khóe mắt trào ra, chảy ròng ròng xuống hai gò má. Hắn như chán nản, ngồi phịch xuống một cái ghế trước mặt tôi, ôm đầu cúi một lúc rõ lâu, mãi sau cùng mới ngẩng lên, nói:
‘‘ - Xin thày ngồi xuống đây, câu chuyện của tôi dài lắm, thày muốn nghe xin chịu khó mất một chút thì giờ. Tôi tên là Kắm, ở cách đây chừng năm mươí cây số. Cha tôi lúc còn sống vốn làm nghề phù thủy, thày tạo, ông lại biết xem cả tướng số. Vì thế tôi cũng có học về khoa lý số, tôi thường khi rỗi rãi, xem tướng hộ các bà con, Sau khi cha tôi mất, tôi bỏ nghề phù thủy, chỉ yên phận cày cấy kiếm lúa ăn và nuôi một ít súc vật để đem bán kiếm tiền độ nhật.
‘‘ Mãi đến năm hai mươi hai tuổi, tôi chưa có vợ. Cha mẹ tôi cử giục tôi luôn luôn phải lập thành gia thất cho hai ông bà có cháu để nưng niu. Chiều lòng cha mẹ tôi, tôi gá nghĩa cùng một người thiếu nữ quanh vùng tôi ở.
‘‘ Vợ tôi đẹp lắm. Tôi rất được vừa ý. Người thon thon mềm mại, tóc đen mượt, môi đỏ thắm, lưng nhỏ như lưng ong mà nước da trắng bóc như trứng gà luộc. Tôi quý vợ tôi lắm.
‘‘ Lấy nhau vừa được ba năm, chưa có con, thì cha mẹ tôi đã lần lượt rủ nhau qua đời cả. Như tôi đã kể, tôi bèn thay nghề, không theo chí hướng của cha tôi nữa. Như thế tôi được rỗi rãi hơn nhiều, được ở nhà kề bên mình vợ, không phải đi cúng vái, đi liệm cho người chết và đi làm bùa yếm ma tà. Tôi tự cho thế là sung sướng.
‘‘Bỗng một hôm, cũng là vì sự tình cờ xui khiến, tôi ngồi buồn xem tướng cho vợ tôi. Từ ngày chúng tôi lấy nhau, không bao giờ tôi nghĩ đến sự bấm số hoặc xem tay cho nhà tôi cả. Khi tôi ngắm nghía bàn tay mềm mại và trắng nuột của người tôi yêu quý, tôi không tài nào tránh khỏi sự kinh hoàng. Thày có biết đọc những nét khắc trên bàn tay, thày có biết những nét ấy nó đối với định mệnh con người có liên lạc rất mật thiết, lúc bấy giờ thày sẽ hiểu được sự sợ hãi của tôi rnó lớn lao dường nào. Mặt tôi tái đi không còn một giọt máu, Tôi giụi mắt bốn năm lượt, cầm tay vợ tôi căng ra chín mười lần, tôi vẫn thấy nét bút Tử thần đề rõ rệt trên nước da của thiếu phụ tôi yêu mến: ‘ ‘‘Mày phải chết vì nghiệp cọp bắt!’’.
‘‘Không tin ở sự thí nghiệm riêng của tôi, tôi đem nhà tôi sang nhờ ông thày tạo quen cha tôi ngày xưa xem tướng hộ. Ông thày thắp hương khấn khứa, rồi ông vẽ bùa, rồi ông bấm độn, mãi sau cùng, ông bảo tôi:
‘‘ - Vợ mày có số hổ tha, phải cẩn thận, đừng cho nó vào rừng buổi tối.
‘‘ Thế là từ hôm ấy, hai vợ chồng tôi đâm ra lo lắng; tôi giữ riết nhà tôi, không cho xa tôi một bước. Nó có muốn đi đâu, đã có tôi đi kề bên cạnh, không bao giờ tôi để nó phải len lỏi vào rừng vắng một mình.
‘‘Như thế mãi đến tối hôm qua, chúng tôi vẫn được sống một quãng đời êm thắm. Ngày hôm qua, tôi phải đem vợ tôi sang Mường Vat, đường xa quá, tôi đã ngần ngừ ba bốn bận, không muốn đưa đi. Song việc nhà là việc hệ trọng, mà nghĩa tử là nghĩa tận, thế nào tôi cũng phải cho vợ tôi sang giáp mặt bà sinh mẫu nàng, hiện đương thập tử nhất sinh. Sau khi vợ tôi lấy tôi, thì bà mẹ vợ tôi, trước kia góa bụa, cũng đi lấy chồng, theo chồng xuống Mường Vat. Cách đây bốn năm hôm, bà thấy trong mình ốm nặng, vội sai người lên báo cho vợ chồng tôi biết, và xin phép tôi cho vợ tôi được đến thăm bà trước khi bà tắt nghỉ. Lẽ tất nhiên là tôi không bao giờ dám từ chối, tôi bèn đánh liều đưa vợ đi một chuyến xem sao.
‘‘Tôi ăn mặc gọn ghẽ xong xuôi, giắt trong mình một con đao bẩy dài và sắc. Tôi lại bắt vợ tôi mặc quần áo đàn ông cho khó nhận và đeo bên sườn một lưỡi dao găm. Sáng hôm qua, mờ mờ sương, hai vợ chồng tôi dậy sớm, khởi hành. Tôi rắp tâm đi một ngày, hết khu rừng rậm thì đến Mai Sơn, rồi từ Mai Sơn, hoặc đi đò, đi bè, hoặc theo dọc sông … chúng tôi sẽ tới Mường Vat.
‘‘ Cả ngày hôm qua, thôi thì trèo đèo, lặn suối, thôi thì gia công tổn sức, tôi đem vợ tôi đi được hơn 30 cây số. Đường núi gập ghềnh khó đi quá; tôi đã quen xông pha, có thể đi nhanh được, nhưng vợ tôi yếu đuối, vừa đi vừa nghỉ, mới đi được bấy nhiêu đường. Tối đến, đáng nhẽ đã ra khỏi rừng từ lâu, mà hóa ra chúng tôi còn lần mò giữa chốn hoang vu, rậm rạp. Tôi sợ quá, vừa sợ vừa lo lắng, bởi hai vợ chồng đã bị tối, lại bơ vơ ở ngay sườn núi, trong rừng. Tôi bèn tìm một cây lớn, bảo vợ đứng nép vào đó, rồi tôi tháo con dao bẫy ra cầm lăm lăm trên tay.
‘‘Thình lình, có tiếng sột sạt. Tôi chưa kịp định thần nhìn kỹ, thì một con hổ to đã đi sát lại gần. Tôi thấy hai mắt nó sáng trưng, đỏ ửng. Cách chỗ tôi đứng chừng ba bốn trượng, con quái vật ấy dừng lại, chòng chọc nhìn tôi. Lúc ấy tôi tuy sợ đến cực điểm, nhưng tai nạn gần kề bên họng lại nghĩ đến số phận vợ tôi sắp bị mãnh thú kia đoạt mất, hóa nên càng hăng hái. Còn thì giờ đâu mà sợ hãi với bồn chồn! Tôi cầm chắc cán dao bẫy trong tay phải,tay trái thì ôm lấy vợ, rồi đứng nép vào gốc cây thủ thế. Con hổ gầm lên một tiếng vang cả sườn núi, xong nhảy bổ lại vồ tôi. Tôi ôm vợ chạy né ra, giơ dao chống cự. Nhưng tôi không thể nào lanh lẹn được, vì vợ, tôi cứ phải ôm lẽo đẽo bên sườn. Vợ tôi thì khiếp run lên, mềm nhủn người ra, không còn lê đi được. Tôi luống cuống, chưa biết định kế gì cho thoát. Con hổ vồ tôi không trúng, lại đập đuôi quay bắn lại, tát tôi. Chẳng may cho Nhình, nó tát ngay trúng vào mặt, ngã gục xuống.
‘‘Máu tôi lúc ấy sôi lên sùng sục, mắt tôi hoa lên, tôi bỏ xác vợ xuống đất, khoa dao lại chém con mãnh hổ. Tôi chém lia, chém lịa, Con quái vật kia thì cứ cố xán lại, định hễ tôi hở cơ, thì cướp xác Nhình để chạy. Mỗi khi hổ ghé mồm định ngoạm lấy người tôi yêu quí, tôi lại giơ hai tay giáng mạnh xuống một dao. Nó bị đau, nhảy chồm lên, gầm hét, rồi lăn xả vào tôi cấu xé. Tôi nhanh chân, né sang chỗ khác, giơ dao kháng cự hồi lâu, Nó tát được vào tay tôi một cái, cào một lằn rõ sâu, tôi rách cả tay áo, cả cổ tay, mà vẫn không chịu buông dao, chạy trốn. Mãi mãi, con hổ không làm thế nào để tha xác vợ tôi cho được, nó bèn cúp đuôi, bỏ mồi, chạy tuột vào rừng.
‘‘ Tôi tra dao vào vỏ, quì xuống ôm lấy Nhình, thì vợ tôi, tuy còn hôi hổi nóng, nhưng trái tim đà hết đập. Tôi đau đớn quá, cứ đứng ngây người ra nhìn vợ, không đủ nghị lực ẵm nàng dậy, cũng không đủ thần lực và tình cảm để khóc nàng, Tôi tựa hồ sắp hóa ra người điên dại. Mãi hồi lâu, tôi nghe một tiếng ‘‘à uôm’’ vang động rừng sâu mới giật mình hồi lại, nhìn lên trời thì vừng trăng sáng trắng đã chênh vênh treo lỏng lẻo trên cành.
‘‘Tôi bèn cởi tấm khăn vấn đầu của tôi và của Nhình ra ; buộc tấm khăn ấy qua ngực vợ tôi rồi leo lên ngọn cây lớn làm khiên ẩn thân cho tôi lúc nẫy. Tôi luồn làn khăn qua một cành cây chắc chắn, lấy thế đứng vững vàng trên cây, cố sức kéo xác nhà tôi treo lủng lẳng giữa trời, Xong xuôi, tôi buộc chặt đầu khăn vào một cành khác gần chỗ tôi, rồi ngồi xuống canh cái thây ma vừa chết.
‘‘ Tôi định tâm treo xác vợ tôi lên cây để thú dữ không có thể đến cấu xé thịt xương của người yêu tôi được; tôi muốn canh giữ thân thể vợ tôi cho được toàn vẹn, ngõ hầu sáng mai, cõng vợ tôi về nhà, làm ma chay tử tế cho nàng. Tôi cho rằng nếu để xác nàng bị các mãnh thú giầy vò, ắt linh hồn nàng không được mát mẻ, rồi, vừa thác oan, vừa uất ức, nàng sẽ hóa ra một con ma khổ sở, khó lòng được dễ siêu linh. Vì thế, tôi nhất quyết ngồi chồm hỗm trên ngọn cây, câm đầu dây khăn thật chắc, chờ cho tới sáng,
‘‘ Trăng lúc bấy giờ rạng tỏ, bóng cây um tùm chiếu xuống đất tựa hồ một giọt mực to loang lổ khắp mặt một tấm thảm mầu lợt xám, lợt vàng. Trời quang đãng không mây, ánh sáng sao, hòa với ánh trăng, càng làm cho không trung sáng sủa, Nhờ có trăng sao, tôi cũng đở bồn chồn, lo ngại. Bởi lẽ trong rừng, mịt mùng và thăm thẳm, không còn bóng một người nào. Trừ hai vợ chồng tôi, một sống, một chết, xung quanh toàn là một vẻ im lặng nặng nề,u uất, mà thỉnh thoảnng những tiếng lạnh lẽo của những con dã thú và những con dạ điểu càng làm cho thêm ảm đạm, tiêu điều. Con chim Tử quy rúc một hồi áo não, thê lương, trong khi đàn cú vọ ăn sương lên giọng nhắn nhe Thần Chết. Rồi đàn hoẵng vừa chạy vừa kêu lên một tiếng kêu bi đát, rồi ông ba mươi đáp lại bằng một cái ‘‘à uôm’’ nghe tạnh buốt xương lưng.
‘‘Giữa một hoàn cảnh đáng sợ, đáng buồn, tôi ngồi trên cây cùng một xác chết, dưới chân lũng lẳng. Tôi vốn là người táo bạo, không sợ ma cũng như không sợ cọp, tôi cứ ngồi điềm nhiên canh xác vợ tôi.
''Lúc ấy tôi không tài nào tránh khỏi sự thổn thức bồn chồn! Tôi tuy đau tựa xé lòng mà vẫn không có tâm nào khóc vợ. Trong đầu tôi còn lắm điều lo ngại, còn thì giờ đâu ngồi sụt sịt, thở than! Một tiếng vỗ cánh của con chim bay đi tìm mồi, một cành lá khô rụng xuống, một tiếng sột sạt trong bụi lau, mỗi một tiếng động là một cái máy làm cho tôi giựt mình chú ý vào thây chết. Tôi chỉ sợ một con ác điểu, hoặc một con báo xám, hoặc một con hồ ly, đến leo cây rồi rỉa xác vợ tôi, Vì thế, mỗi lần có tiếng gì là lạ, là một lần tôi đứng dậy, rút dao ra, thủ thế. Tôi không hiểu vì sao lúc ấy tôi can đảm lạ. Tôi quyết định rằng bất kể vật nào xán lại cạnh vợ tôi, tôi cũng cùng con vật ấy chẳng cùng sinh tử. May sao, có lẽ vì hương hồn vợ tôi rất tinh sáng thiêng liêng, nên không có một loài ác cầm, dã thú nào dám lại trêu trọc tôi trong cơn tôi hăng hái. Mà tôi hăng hái, có lẽ cũng vì tôi yêu vợ tôi lắm lắm, hóa nên khi nàng bị lìa tôi phút chốc, tôi không còn nghĩ gì đến thân thể và số mạng của tôi.
‘‘ Tôi cầm dao lăm lẳm trong tay, ngồi ôm lấy thân cây, không cựa cạy. Tôi tuy hơi giờn giợn vì đêm trường trong rừng khuya vừa âm thầm vắng lạnh, lại vừa đầy những hình ảnh ma thiêng thú dữ vô ngần, song cũng vẫn còn đủ can đảm ngồi yên, không đến nỗi vì khủng khiếp mà bị tâm thần rối loạn. Lòng tôi lúc ấy chỉ bị bồn chồn đau đớn, nhưng tôi không hề sợ hãi một sự gì. Tôi ngồi yên lặng canh xác vợ tôi có đến quá bốn năm giờ; lúc tôi nhìn lại bóng trăng thì đã thấy trăng quá đĩnh đầu vài bốn thước. Khi đó, chừng độ khoảng canh ba, bắt đầu sang giờ Tí. Đương bàng hoàng tựa lưng vào thân cây, nghĩ vơ, nghĩ vẩn, bỗng tôi nghe một tiếng gầm vang lừng xé từng không hiu quạnh, rồi một con hổ lớn từ từ tiến lại mé tôi ngồi. Tôi đứng dậy rút dao, chờ sẵn.
‘‘Dưới ánh trăng tròn vằng vặc, tôi nhận thấy con ác thú kia chính là con hổ, buổi chiều, ra hại vợ chồng tôi. Trên trán nó, còn in rõ vết thương mà tôi đã lấy đao thưởng cho nó. Máu chảy ra, bây giờ đong lại, làm đỏ ngòm cả một bờm lông, Con mãnh hổ ấy đi một vòng dài lùng khắp khu rừng, rồi bỗng đứng lại đánh hơi một lúc. Mãi khi nó biết đích có hơi người còn lẩn quất trong cây lá, lúc bây giờ hó đi thẳng lại chỗ tôi.
‘‘Tới nơi, nó đứng dừng lại. Nó bỗng gầm lên một tiếng,tựa như mừng rỡ vui lòng, rồi nhảy lại phía thân cây, chạy vòng tròn đùa giỡn cùng một vật gì dưới đất. Tôi lấy làm lạ, nhìn xuống gốc cây, thì càng lấy làm lạ nữa. Nhờ có bóng trăng chiếu sáng, tôi nhận thấy bóng xác vợ tôi in rõ rệt trên đám cỏ xanh dờn. Thì ra con hổ chạy chung quanh bóng vợ tôi mà nó coi như một quả tú cầu dùng để vờn lên, vờn xuống. Tôi chú ý nhìn xem nó làm trò gì, thỉ chỉ thấy nó chạy vòng quanh cái bóng, vẫy cong đuôi như có ý vui vẻ lắm, lại giơ một chân trước lên cào nhè nhẹ mặt đất, tựa như xoa vuốt bóng em Nhình.
‘‘ Liền lúc ấy,một giọng cười giòn giã, lanh lảnh bỗng phát lên trong quãng đêm khuya vắng lạnh, Tôi giật mình, hoảng hốt, không hiểu vì sao, giữa rừng hiu quạnh, lại có người dám ra cười đùa cùng hổ, cũng không biết từ đâu vẳng ra những tiếng vui vẻ kia. Tôi đã tưởng là ma, cũng có phần giờn giợn... Tôi lắng tai nghe kỹ; tiếng cười sằng sặc tựa như gần kề ngay chỗ tôi đứng không xa. Càng hết sức thu nghị lực và tinh thần để quan sát, tôi càng đâm ra kinh khủng, yếu nhược. Tóc tôi bỗng dựng đứng cả trên đầu.
‘‘ Giọng cười kia, trời ôi! nào phải của ai đâu, chính là xác vợ tôi nó cười lên đó! Giọng cười lại không giống giọng nhà tôi khi còn sống, nó giòn giã sang sảng, tựa như tiếng cười của một đứa trẻ con khi có người cù nách; tuyệt nhiên lúc vợ tôi chưa thác, nàng không từng cười như thế bao giờ. Tôi nghiệm ra một sự rất lạ lùng: con hổ tựa như chạy vòng quanh cái bóng để pha trò hay đùa bỡn. Mỗi một khi con ác thú ấy giơ chân vờn cái bóng, là một lần, như nắc nẻ, vợ tôi cười rú một hồi.
‘‘ Tôi chưa từng bị cơn sợ hãi nào như thế. Góp nhặt hết cả tàn khí, tàn lực, mà người tôi vẫn mềm nhũn, không đủ can đảm đứng vững trên cây, xuýt nữa thì lăn beo xuống. Người tôi lúc bấy giờ mồ hôi toát ra như tắm, tôi bất giác run lên cầm cập, táo bạo đến như tôi, trước cảnh ngộ hãi hùng kia, cũng khó giữ được vẻ thản nhiên. Tôi phải vội vàng ngồi xuống, tra dao vào vỏ, rồi cố bíu lấy cành cây nằm rạp xuống, lại lấy dây lưng buộc mình vào cành cây đó cho khỏi rơi xuống gốc cây.
‘‘ Tôi đành nằm yên, nhìn xem tấn thảm kịch (mà con hổ đương diễn đi diễn lại một cách vui vẻ) kia bao giờ mới hết, Con hổ hình như không biết chán, cứ vờn bóng cái xác hoài. Mỗi một lần vờn, là một lần cái xác lại rú cười lên, một cách lạnh lùng, đáng sợ. Tiếng cười phát ra bao nhiêu, ruột tôi như thắt lại bấy nhiêu, mà người tôi thì giá buốt. Tôi dẫu không muốn cũng không được, tự mình cứ phải buộc minh nằm xem một quái trạng kinh hồn. Tôi định tâm giữ thân thể vợ tôi cho tới sáng ngày, để cõng nàng về nhà khâm liệm và mai táng cho trọn nghĩa. Nhưng, gặp cảnh này tôi không thể nào khư khư cố ôm lấy xác nàng được nữa, số kiếp nàng đã thuộc về loài mãnh thú kia cai quản, thì dầu có chôn nàng, nó cũng đến đào bới mả lên để rỉa thịt mới nghe. Thì âu là sự thể đã thế này, tôi chỉ còn cách quăng trả xác vợ tôi cho nó là hơn cả.
‘‘ Tôi nghĩ làm cách đó tất thế nào cũng được ôn thỏa, song le chỉ sợ hương hồn nhà tôi vì sự ấy mà uất ức, lại ngần ngừ không dám làm. Tôi bèn nằm trên cây, định thần nghĩ đến nhà tôi, rồi lâm râm khấn khứa:
‘‘ Em Nhình sống khôn chết thiêng, xin phù hộ cho anh, em hỡi! Anh định nằm đây canh xác em cho tới rạng đông, rồi cõng em về nhà để em được chôn cất theo tục lệ. Hương hồn em, nếu còn phảng phất quanh đây, xin nghĩ đến ân tình vợ chồng mà chứng giám cho lòng anh, đau đớn. Anh thấy con hổ đến vờn bóng em thì em cười, anh lấy làm lo sợ lắm. Nếu thực quả nghiệp em bị hổ ăn thịt, thì xin em bảo cho anh biết, anh sẽ cắt dây khăn cho người em rơi xuống. Có chăng, xin em lấy tiếng khóc làm hiệu, anh sẽ hiểu ý; bằng không, xin em lại cứ cười như thưòmg. Giữa đường đứt mối tơ duyên, anh vạn bất đắc dĩ mới phải quăng xác em trả cho ác thú; vì như có thể cõng em về tử tể, thì dù xương tan thịt nát, lặn suối trèo đèo, anh cũng chẳng từ nan!
‘‘ Lạ thay! Tôi vừa khấn xong, vợ tôi bỗng khóc lên rưng rức, khóc mãi không ngơi. Tôi chẳng còn biết thế nào, cũng đành liều theo định mệnh. Tôi nhắm mắt lại, rút dao ra, đưa lưỡi dao vào vành khăn, cắt làn vải buộc xác vợ tôi lủng lẳng. Thoát khỏi dây trói buộc. Thi hài vợ tôi nặng nề rơi xuống mặt cỏ xanh. Con dao cũng rời tay tôi, lăn xuống đất, Tôi thì ngã gục xuống cành cây, ngất đi, không còn đủ sức nhìn theo xác vợ tôi bị tha về ngả nào. May có thắt lưng bó chặt tôi vào thân cây, tôi không đến nỗi bị rớt từ trên không xuống đất...
‘‘ Tôi ngất đi không biết bao nhiêu thời khắc. Khi tỉnh dậy, mặt trời đã rạng đỏ phương đông. Tôi cởi khăn trói buộc mình, leo cây tụt xuống. Xác vợ tôi đã biến mất tự bao giờ.
‘‘ Ngậm ngùi cúi lượm con dao, tôi sửa lại áo quần, một mình thất thểu đi ra ngoài rừng thẳm. Tôi đi một quãng độ chừng năm sáu cây số, thì đến chốn này. Té ra, vợ tôi thực quá vô duyên; chúng tôi nếu chỉ gắng gượng đi chong chóng một chút nữa thôi thì có khi nào lại xảy ra tai nạn gớm ghê dường ấy! Mà chỉ cần cách độ vài ba cây số, chúng tôi đã thoát khỏi rừng! Thế mới biết duyên nghiệp con người đã có Trời định sẵn, không tài nào tránh được. Giả nhà tôi đừng vừa đi vừa nghĩ, thì bao giờ đến nỗi bị hổ kia ra chặn ngang đường!’’
Người Thái kể đến đây, lại cúi mặt sụt sùi khóc. Tôi nghe hết chuyện, vừa thương tâm, vừa sợ, thành ra tỉnh táo cả người, không còn muốn ngủ lại nữa. Tôi nghĩ thương hai người Thái quá, nhưng còn biết thế nào, chỉ đành khuyên dỗ anh ta đừng nên phiền não, bởi chung đó là số mệnh của vợ anh ta. Người Thái ngẩng mặt nhìn tôi, con mắt chứa chan những lệ.
‘‘- Thưa thầy, tôi vẫn biết đó là số kiếp, song tài nào mà chẳng đau đớn thiết tha, Sau khi đã ăn ở với nhau, đã yêu nhau khắng khít, thì đến khi bị nửa đời chia rẽ, ai người không đứt ruột, tan lòng? Thầy đã có lòng thương an ủi, cám cảnh tôi, tôi biết lấy gì mà báo đáp?
‘‘- Cái đó không can gì, tôi đã bảo anh chỉ là bổn phận của tôi đó mà! Anh đã biết xem tướng số, vậy anh thử lấy hộ tôi một quẻ xem sao?
‘‘ Tôi chìa tay trái cho người Thái. Hắn đưa ngang tay áo chùi nước mắt, mân mê ngắm nghía bàn tay tôi, Bỗng mặt hắn cứ tái dần dần, hắn ngước đôi mắt sáng đen nhìn thẳng vào mặt tôi, như có vẻ đau đớn, sợ hãi và thương tiếc. Hắn lại giụi mắt, ngắm kỹ làn da tay tôi đến ba bốn lượt. Càng xem tướng cho tôi, hắn càng lộ ra vẻ bồn chồn khó chịu, một lúc lâu, hắn vứt mạnh tay tôi xuống, thừ mặt ra, rồi thở dài:
‘‘- Khốn-nạn! Ai ngờ đâu cuộc đời chua xót lắm vậy! Số thầy chả khác gì số vợ tôi, những nét ngấn trong lòng bàn tay thầy cũng tương tự như trên tay nó. Thầy cũng có số bị ông ba mươi hãm hại, thầy nên bỏ đồng rừng trốn tránh cho xa. Thầy ơi! những người tử tế đều không được hưởng sự sung sướng đâu thầy ạ!
‘‘- Người Thái nói xong, lại gục mặt xuống. Nó như nghiền ngẫm một sự gì. Một khắc, nó lại nói:
‘‘- Nhưng có một điều, thầy nên nhớ kỹ. Muốn tránh tai nạn thê thảm bị làm mồi cho mãnh thú, thầy nên, từ ngày hôm nay, kính thờ Thần Bạch hổ trong nhà. Rồi đêm đêm, thầy nên thành tâm cầu khẩn ông Thần ấy phù hộ cho được sống vẹn toàn, khỏe mạnh. Thầy cũng chớ nên khinh rẻ ông Ba mươi. Như thế, may ra thầy thoát khỏi số kiếp đáng thương mà vợ tôi đã chịu. Thôi xin lạy thầy.
‘‘ Người Thái dặn dò xong, cúi đầu chào tôi, rồi đi mất, không hề ngoảnh lại. Câu chuyện ngày nay tôi kể lại anh nghe rõ rệt, người ấy đã kể cho tôi nghe bằng giọng nói ngô nghê và ngộ nghĩnh của người miền Thượng du, Sau khi nghe chuyện đó, bao nhiêu chí hướng và tính nết của tôi đều thay đổi cả. Từ ngày ấy. tôi tin ở số mệnh, lại hóa ra sùng kính Thần Bạch hổ lạ thường. Tôi không dám len lỏi đi bắn trong rừng nữa, đêm ngày cho canh phòng rất cẩn mật những khu vườn bao bọc nhà tôi. Dần dần tôi đâm ra rát như cáy, bao nhiêu vẻ hung hăng, táo bạo tự nhiên biến mất bao giờ. Ở Mai Sơn lo ngại luôn luôn, tôi bất đắc-dĩ phải xin về Hà Nội cho yên ổn.
‘‘ Anh thấy tôi khác tính, ấy chỉ bởi tôi tin rằng số tôi bị hổ ăn thịt, hóa nên ngày đêm cầu khẩn Thần linh phù hộ tôi được tránh khỏi tai nạn hiểm nghèo, đau đớn ấy.’’
Anh Cương kể xong câu chuyện, tôi đã không sợ hãi thì thôi, còn phá lên cười một cách mỉa mai. Khinh bỉ. Anh không bằng lòng, cau mặt lại. Tôi chế anh là một hạng người vô lý, giữa thế kỷ hai mươi này, mà dám tin những sự dị đoan. Tôi lại đem việc bí mật của anh ra nói tung cho tất cả bạn bè chúng tôi được rõ ; ai ai cũng cười anh Cương là một con dị vật hay tin nhảm việc hoang đường, Rồi họ đem anh ra làm một cái bung xung để giễu cợt. Mặc dầu bị giễu cợt, anh Cương cũng vẫn kính thờ Thần Bạch hổ của anh và cúi chào rất lễ phép con cọp trong vườn Bách thú. Bạn tôi trông thấy anh không ai nhịn cười cho được. Họ thấy anh sợbhãi, càng bắt ôm anh đem gí lại gần chuồng, làm cho anh mặt tái mét rồi giẫy lên đành đạch. Các bạn anh lại còn hay tụm năm tụm bảy để chuyện trò ghẹo chế anh. Họ định làm thế cho anh phải mất hẳn tính sợ cọp vô duyên, vô lý. Nhưng anh Cương khó bảo quá, nói thế nào anh cũng vẫn không nghe.
Một buổi sáng mùa đông, anh Bắc đi Phủ Đoan về có bắn được một con hổ to và đẹp lắm. Anh đã khiêng nó vào tòa sứ Phú Thọ lĩnh thưởng, rồi anh đem lột da chia thịt cho khắp thân bằng cố hữu nếm mùi. Còn cái da hổ, đương tươi, anh đem về Hà Nội để mượn người nhét rơm, ngõ hầu giữ lấy kỷ niệm của một cuộc đi săn đắc chí.
Anh em bạn anh Cương và tôi, được tin anh Bắc có cái da hổ, bèn định bụng dọa anh Cương một mẻ làm trò tiêu khiển. Họ biên giấy cho mời anh Cương đến ăn tiệc, tuyệt nhiên giấu hẳn chuyện bắn bổ không nói lộ ra. Cơm xong, quay vào bàn cà phê, hết lượt cà phê, chúng tôi tụm cả vào bàn đèn thuốc phiện. Bao nhiêu đèn điện, đã có hiệu sẵn, anh em đem tắt ngấm ngầm cả, chỉ để riêng mỗi một ngọn đèn dầu lạc mờ mờ tỏa ánh sáng đỏ ngầu.
Câu chuyện quanh bàn đèn đương nở như gạo vàng, anh Cương đương lim dim hưởng thú êm đềm tỉnh mạc, bỗng đâu, trong góc phòng bên trái, một cái bóng lù lù mở màn nhảy xổ vào. Một con hổ vàng to, trông rất dữ. Con hổ gầm lên một tiếng, nhảy nhót lại gần anh Cương.
Cương lúc ấy mặt như chàm đổ, chân tay luống cuống, mồm há ra mà không kêu được. Anh ôm chặt lấy tôi, tôi cứ giả vờ chạy lại chỗ con hổ đương ngồi chồm chỗm. Túng thế, anh Cương quay ra mở cửa chạy, thì các cửa đóng cả rồi. Anh em đều làm ra bộ hoảng kinh, ai ai cũng tìm mắc áo, gầm bàn, khe tủ, chui vào ẩn nấp. Chỉ còn chơ vơ anh Cương run lên vì khiếp nhược trước mặt con hổ già. Con hổ làm ra bộ nhảy nhót đắc ý, nó chỉ tìm cách xông vào anh Cương. Anh cứ tránh và né hoài, xuýt mấy lần bị ngã. Mãi sau cùng, anh lùi đã hết chỗ, phải đứng tựa vào tường. Con hổ được thế, lại gầm lên một tiếng rồi lăn vào tát anh Cương, Cương hét lên rất to, giơ tay ra đỡ, rỗi ngã lăn ra sàn, bất tỉnh nhân sự.
Anh em bạn thấy sự đùa đã có hại, bèn xúm lại nâng Cương dậy. Hai mắt Cương trợn ngược, chỉ còn lòng trắng, mồm thì xùi bọt ra ngoài. Tay anh bị vuốt nhọn con hổ giả xướt vào, bị một lằn toạc da, hơi rơm rớm máu, Gọi anh một lúc rõ lâu, anh mới hồi tỉnh lại, nhưng vẫn như người mê sảng, chưa hoàn hồn.
Tôi đem Cương về nhà, thì đến khuya anh phát sốt li bì, rồi nằm liệt giường chiếu. Sáng hôm sau, tôi cho gọi đốc tơ đến khám, khi cặp mạch anh thì thấy độ sốt 42. Ông thầy thuốc cau mày, hỏi nguồn gốc sự sốt của anh, tôi khai thực cả. Ông lắc đầu, nói:
‘‘ - Thế thì hỏng. Nguyên cái móng chân con hổ thường hay có trùng ‘‘létanos’’. Con hổ mới bắn được, hóa nên ở vuốt nó vẫn còn trùng. Bệnh nhân bị vuốt hổ làm xướt tay, những vi trùng nhiễm ngay vào máu, vả lại bệnh nhân bị sợ quá, người cũng yếu đi, phát sốt ngay. Có cứu bây giờ cũng muộn.
Quả nhiên, chả được bao lâu, phụ công thầy thuốc cứu cấp và các bè bạn trông nom, anh Cương tạ thế. Chúng tôi đều sụt sùi khóc lóc, đỗ lẫn tội cho nhau đã giết anh một cách bất ngờ. Đưa đám anh Cương xong, chúng tôi hối hận quá mất cả ăn cả ngủ.
Nhưng từ đó, càng thương tiếc anh Cương bao nhiêu, tôi càng đâm ra tin ở số- mệnh bấy nhiêu. Đứng trước tranh Thần Bạch hổ mà người bạn bất hạnh của tôi trước vẫn một niềm sùng kính, tôi bây giờ nhũn nhặn lễ phép, không hề dám láo xược như xưa. Rồi thấy ai cúng vái hay khấn khứa các Thần linh, tôi chẳng khi nào mỉa mai cười cợt nữa.
Thế mới biết số anh Cương, anh không thễ nào tránh được. Dù hùm sống hay cọp chết, anh cũng vẫn bị nó cào. Mà chỉ có một nét cào, cũng đủ làm thiệt mạng kẻ có số chết về tay mãnh hổ.
Anh Cương đã tốn công giữ mình và cầu khẩn duyên nghiệp ông Trời đã định sẵn, thì dẫu có bay xa muôn dặm, cái nghiệp kia cũng kéo mình lại được, bắt mình phải chịu ý Trời.
Tôi ngẫu nhiên, đã được một bài kinh nghiệm về khoa số học.
(Juin 1937)
Phổ Thông Bán Nguyệt San
Số 17 ngày 1er Avril 1938