← Quay lại trang sách

Thăng Trầm Hay

NGÀY hôm đó, vào khoảng hai giờ chiều, trong một gian phòng ở tầng gác thứ hai nhà khách sạn Đồng Lạc, người ta thấy hai cái xác - một người đàn ông và một người đàn-bà - ôm chặt lấy nhau, nằm co quắp dưới gầm bàn, trên sàn ván, Người đàn ông,trông độ 35, 36 tuổi, thân thể thì co dúm lại, một tay bám chặt lấy vai người đàn bà, còn một tay thì duỗi thẳng, nhưng năm đầu ngón tay lại tựa hồ muốn cắm sâu vào sàn gỗ. Anh ta có nhẽ chết từ sáng sớm; thịt đã cứng đét lại và da đã xám ngắt, lạnh, như đồng. Trông cách ăn mặc đoan trang, ai cũng phải bảo là một người thuộc vào hạng phong lưu, lịch sự; nhưng mặt mũi anh ta, trong lúc chết, có nhiều nét dị kỳ, ghê tởm, khiến người xem, bất giác, phải rùng mình. Một làn tóc, lốm đốm màu tro, rủ lòa xòa xuống hai bên gò má và xuống một cái trán hơi cao, mà những nét dăn cũ còn để lại nhiều lằn, in rõ rệt. Hai con mắt mở trừng trừng, như muốn đuổi theo khách bàng quan làm cho họ lẩn đến chỗ nào cũng vẫn thấy đôi mắt kia nhìn theo chòng chọc. Đôi mắt ấy trông không có thần nữa, Lòng trắng nhuộm màu hung hung. bởi lẽ những tia máu đỏ ngầu nổi hẳn lên như những đường mạng nhện. Còn đôi đồng tử, đen một sắc đen phờ phạc thì lộn ngược, theo dáng điệu của đôi lông mày dựng xếch và cau có lại. Những mí mắt, quầng tím và xưng húp, cùng với cái mũi to mà tròn, vì cớ ấy, cũng đều kéo ngược hay hếch cả lên, làm cho kẻ khốn nạn thiệt thân kia có vẻ một ông tướng Tầu trong cơn thịnh nộ.

Còn cái miệng? Ôi! cái miệng nó đáng sợ biết mấy! Nó cười một vẻ cười đứt ruột, làm dăn đến ba bốn vành làn da của hai má hóp, biểu lộ ra một bộ điệu ghê tởrn và đau đớn lạ thường. Bọt mép xùi ra và chảy xuống càm; cập môi dầy mà xám bầm thì vảnh lên như hình bán nguyệt, để nhe ra một bộ răng cải mả tục tằn. Nét cười hiện trên môi người chết ấy tựa như một nét cười vô nghĩa, một nét cười tạc vào đá, một nét cườí đứng sững trên một khuôn mặt lạnh lùng. Nó làm cho người ta trông thấy phải giật lùi, bưng mặt lại, không dám nhìn lâu nữa. Và hễ nhìn, mình cứ tựa hồ như có cảm giác là kẻ kia trông mình chòng chọc, và nhe răng, nhăn nhở, trao đổi với mình bằng một nụ cười độc địa, những ý tưởng dữ dội, tàn khốc, về cái chết bi đát của hẳn ta.

Người đàn ông trông ghê gớm thế, nhưng chị đàn bà lại có phần dễ coi hơn nhiều. Chị ả trông còn trẻ lắm, chỉ độ 23, 24 tuổi là cùng. Áo mặc cực kỳ tân thời, trông ra vẻ một khách ăn chơi đàng điếm. Một bộ áo ‘‘anben’’ hàng sặc sỡ, bao khít tấm hình hài mảnh dẻo nhưng đều đặn và mỹ Iệ là thường. Tuy làn tóc xổ tung ra, lòa xòa phủ khắp hai vai, hơi che mất khuôn mặt bự đầy son phấn, ta cũng còn có thể nhận thấy một vẻ đẹp rất kiều diễm lộ ra rõ rệt dưới làn tóc mượt đen kía. Mà trong khi, dưới đôi lông mày nhỏ phăn, mành như lá liễu lại uốn như vành cung, đôi mắt nhắm nghiền khít lại, nhan sắc của thiếu phụ bạc mệnh trông càng lộng lẫy, khuynh thành. Chả thế mà những nhà thi sĩ Trung Hoa hay ca tụng về đa tình của các ‘‘Miên Mỹ nhân’’ cũng phải! Người đàn bà đó đối với bạn tình, có vẻ hơi hờ hững, vì trông xác người đàn ông thì co quấp hẳn, cố ôm chặt lấy chị ả, mà chị ta lại nằm nghiêng, hai tay tuy ôm lấy lưng và cổ người đàn ông, nhưng nửa người về dưới thì choãi hẳn ra, khiến, một chần duỗi thẳng một chân hơi co, mà cái chân co chỉ chận nhẹ lên chân người đàn ông có một chút.

Độ mười ba giờ về trước, vào khoảng một giờ khuya, đôi trai gái đó vào thuê một căn phòng trên từng gác thứ hai nhà ô tên Đồng Lạc. Đến sáng mai, không thấy hai người trở dậy, Mãi đến trưa, cũng vẫn chưa thấy ra về. Đến non hai giờ chiều, bồi phòng rất lấy làm lạ, vì cả ngày không ai gặp cặp kia ra vào; mà cũng không nghe họ sai bảo gì, bèn đập cửa phòng, gọi to lên. Đập hồi lâu, vẫn không có tiếng trả lời, Đến lúc cậy cửa vào xem, thì đôi trai gái khổ sở kia đã nằm trơ trên ván gác.

Khi sen đầm và mật thám vào làm biên bản, cặp uyên ương vẫn còn nằm sóng sượt trong phòng. Mãi đến khi thầy thuốc vào bắt mạch và khám tử thi, thiên- hạ mới biết rằng chỉ có một mình người đàn ông tắt thở đã lâu, còn người đàn bà thì thân thể chưa đến nỗi lạnh hẳn, quả tâm còn hơi đập mà mũi cũng còn thoi thóp thở ra.

Người đàn ông phải cho xe xuống nhà mổ để xem xét kỹ càng, còn người đàn bà thì được nằm cáng khiêng vào nhà thương Phủ Doãn.

Trong phòng, khám không có gì lạ cả, Giường màn vẫn y nguyên không hề có vết đụng chạm tới. Chỉ có ở góc phòng, về mé cửa sổ, người ta thấy mấy chiếc gối trên giường bị vứt xuống đó. Và, trên chiếc bàn nhỏ vẫn thường nâng chai nước lọc, quan thầy thuốc ái ngại nhấc lên vỏ một hộp sữa bò còn bỏ dở và vỏ một hộp thuốc phiện nửa lạng mở toang.

Các viên chức đều lắc đầu khi bước trở ra; ai cũng thương cho số phận hai kẻ khốn nạn kia, biết trước rằng tính mệnh người đàn bà khó lòng cứu được, vì nàng đã tự tử bằng sữa pha thuốc phiện.

Ngày hôm sau, khi các báo chí thuật lại vạ tự sát trong nhà ‘‘xăm’’ Đồng Lạc, ta mới biết rằng người đàn ông chết co quắp là một viên phán sự làm việc ở một công sở lớn, còn người đàn bà thì không rõ lai lịch và hiện đương nằm mê mệt trong nhà thương. Cứ như lời nhiều kẻ biết mặt thiếu phụ đó, hình như chị ả là một cô ‘‘giăng hồ’’ gần đây làm vũ nữcho một tiệm nhảy đầm, và đeo cái tên rất mỹ lệ, rất dễ nghe; Lệ Ngọc.

Duyên cớ xui viên phán sự kia nằm chết trong tay Lệ Ngọc, thiên hạ không ai biết cả. Nhiều tờ báo cố sức giải phẫu sự bí mật ấy, song phần nhiều đều là buông những lời phỏng đoán không đâu. Câu chuyện tự sát kia, dần dần cũng chui vào gầm quên, cõi tối.

Nguyên nhân một vụ ám sát hoặc một vụ án mạng, những nhà thám tử còn có thể, sau khi dò la mãi và lấy đủ chứng cớ, biết được một cách rõ ràng; rồi vì thế, xây lại được những trường hợp làm khuôn cho vụ ám sát hoặc án mạng ấy xảy ra. Nhưng, đứng trước một vụ quyên sinh, nhà chuyên-trách - dù giỏi về khoa giải phẩu tâm lý đến đâu - cũng không dám tự phụ rằng xét rõ được duyên cớ đã khiến một người tự sát. Vì duyên cớ ấy, nhiều phen, rất bí hiểm và khó hiểu; trong những duyên cớ chính, thường hay xen vào nhiều duyên cớ phụ, mà, trừ kẻ tự tử ra, khó lòng có một kẻ thứ hai biết được.

Nếu không gặp một dịp may phanh trước mắt ta tấm màn bí mật của một vụ tự sát, thì thực không bao giờ ta trông rõ thấy căn nguyên. Những lời bàn luận và dị nghị của ta, chỉ toàn là điều phỏng đoán, có khi đúng, nhưng nhiều khi sai, vì những điều phỏng đoán đó đều không có cốt chắc chắn, đều chỉ dựa vào những hiện trạng bề ngoài. Còn về tình-thế bề trong, ai làm gì có thể đi sâu vào tâm hồn một kẻ quyên sinh mà rõ được? Kẻ ấy, trước khi chết, hẳn đã suy nghĩ chín chắn hết mọi lẽ, lúc bấy giờ mới quyết chí lìa đời. Thế tất cái cớ khiến hắn nhất định hủy mình, nó hẳn là một mãnh lực rất mạnh. Mãnh lực đó, một sự thất vọng hay phẫn chí nhỏ không tài nào tạo nỗi; nổi quyết nhiên phải là kết quả của muôn ngàn sự thất vọng hay phẫn chí mà chỉ riêng một mình kẻ tự sát biết thôi. Ai là người tự dám bảo có tài, suy bằng những hiện trạng bề ngoài, biết rõ được hết những nỗi thất vọng hay phẫn chí, mà người quyên sinh đã đem sang một thế giới bí mật vô hình?

Cho nên, càng nghĩ kỹ, tôi càng phải cho là mình được một dịp may mắn nhất trần ai. Vì tình cờ tôi đã biết rõ tại sao viên phán sự tự tử trên gác nhà ô-ten Đồng Lạc kia, lại chết trong tay cô Lệ Ngọc. Sự này là một sự rất lạ ; tôi kể nó ra đây, trong lòng cũng thương tiếc ngậm ngùi.

Tôi dám nói to rằng những lời tôi viết ra đều đúng sự thực, không sai chút nào, bỡi lẽ những lời ấy là tự mồm cô Ngọc kể ra, trong một trường hợp bất ngờ hết sức. Ngày, nay cô Ngọc đã không còn chen chúc giữa lớp sóng người sống nữa, cô hiện là một cái bóng của thời dĩ vãng đã mờ. Mười giờ sau khi ông phán lìa đời, cô Ngọc cũng theo ông dìm hồn vào Cõi Chết. Cô tạ thế tại nhà thương Phủ Doãn,bơ vơ, trơ trọi, không có ai thân thích, họ hàng. Trong buổi lâm chung, cô không dặn dò gì lại; người khán hộ được mục kích khi cô tắt thở có thuật rằng, bên giường bệnh cô, lúc ấy, chả có người nào.

Thế thì câu chuyện của tôi, nó mọc cánh từ đâu mà bay ra nhỉ?

Hôm ấy, tôi thấy trong người bải hoải, buồn, không biết làm gi. Viết được một bài tiểu thuyết vừa xong, tâm thần tôi như quá bị xúc động, cần phải nghỉ ngơi tỉnh dưỡng. Tôi tự nghĩ không có cách gì tốt hơn là đi hút thuốc phiện, vì bên cạnh khay đèn êm tĩnh, tôi sẽ được dịu dàng hưởng thú thảnh thơi. Tôi vội mặc quần áo đi lên tiệm hút.

Vừa ngả lưng nằm xuống phản, tôi chưa hết bàng hoàng vơ vẩn, một cái bóng đen đã từ đâu, chạy lại giường tôi, Một người thiếu phụ. Tôi ngờ ngợ một chốc, nhìn người đàn bà ấy chòng chọc để giúp cho trí nhớ nhận được ai. Chị ả trông còn trẻ lắm, chỉ độ hai ba,hai mươi bốn tuổi. Người rong rỏng cao, mặc áo quần màu đen bới tóc theo kiểu Huế, đeo kiềng vàng. Trong một chốn âm u như tiệm hút, nhan sắc người đàn bà đó có một vẻ dị kỳ. Màu thuần đen nàng đã chọn làm nổi hẳn khuôn mặt trắng sanh, bự phấn, và cái kiềng vàng lóng lánh chiếu ánh đèn mờ, Tôi vừa nhận được mặt nàng, chưa kịp hỏi, thiếu phụ đã ngồi bên cạnh đùi tôi, nghiêng mình xuống cho sát mặt tôi, hỏi;

- Anh! anh mà cũng đến đây à! Đã lâu lắm em không được gặp. Bây giờ anh ở đâu, làm gì, lấy vợ có con chưa?

- Tôi ở phố nhà Rượu, vẫn làm báo. Mới lấy vợ được vài tháng; chưa có con. Còn em? Gió nào bạt em tới đây? Em làm gì ở Hà Thành?

- Còn làm gì nữa! Còn nghề gì nữa mà làm!

‘‘Em ra đây lận đận đã nửa năm rồi, sống kham khổ chẳng có tương lai gì cả. Lại vừa bị nhân tình bỏ, thành ra trơ trọi, bơ vơ. Em rồi cũng đến chết thảm thương như chị Ngọc...’’

- Chị Ngọc nào?

- Chị Lệ Ngọc mà anh không biết? Chị Ngọc hồi tháng trước, chết trong nhà thương Phủ Doãn ấy mà! Chị Ngọc mà tự tử cùng một lượt với ông Phán Lân, anh không biết ư?

- Có có. Anh có biết cô Lệ Ngọc. Nhưng làm sao em lại cho là cô ấy chết thảm thương? Vì cớ gì cô Ngọc chết, nào có ai hiểu!

- Thế mà em hiểu. Em biết rất đích xác, bởi lẽ nguyên nhân xui chị ấy chết, tự mồm chị ấy kể ra.

‘‘Nào có gì lạ đâu! Hôm chị ấy quyên sinh, em tình cờ vào nhà thương Phủ Doãn. Nhân gặp người ta khiêng xác Ngọc vào, em nghĩ tình bè bạn,vội lại thăm chị ấy, dẫu rằng em chỉ quen chị ấy rất sơ sài. Nhưng cũng là dịp may cho em được gần chị ta trong lúc chị hồi tỉnh lại. Chị bèn kể lại tâm sự cho em nghe ; thành ra chỉ một mình em được hân hạnh hiểu vì sao chị và ông Phán Lân cùng tự tử. Khi em đi khỏi, Ngọc lại đâm ra mê sảng, được non một ngày, chị ấy tắt hơi. Em từ bấy giờ thương chị ấy quá, chị cũng chung số phận với em, hóa nên em nghĩ đến chị, không thể không rơi nước mắt. Em vẫn chôn chặt tâm sự của Ngọc dưới đáy tấm hồn, chưa kể lại cho ai nghe cả. Hôm nay nghĩ buồn duyên tủi phận, em lên đây để may ra giãi được nỗi sầu. Vì chỉ có thuốc phiện là chóng tiêu tán hết thương tâm, em phải mượn nó để tránh ý muốn quyên sinh ghê gớm... May sao lại được gặp anh, em mừng quá!

- Em lại nằm đây nói chuyện, ta cùng hút thuốc với nhau. Hôm nay anh cũng đương buồn, và lại muốn có một đầu đề tiểu thuyết. Tốt gì bằng em vừa hút vừa kể lại anh nghe câu chuyện cô Ngọc và ông phán Lân; khi kể xong, anh sẽ thưởng công cho em bằng một cái quà đáng giá. Em có nhận lời không?

- Xin ký cả hai tay. Kìa! Anh cho lấy thuốc đi, em xin tiêm hầu anh một buổi.

Bên cạnh, ngọn đèn mờ tỏ, Marie Tâm, thiếu phụ vận hàng đen, vừa giơ bàn tay búp măng nỏn nà lăn thuốc trên mặt tẩu, vừa thong thả bằng một giọng oanh thỏ thẻ, kể tôi nghe những lời cuối cùng mà Lê Ngọc trối trăng lại lúc lâm chung.

Ông phán Nguyễn quang Lân, là một viên chức rất thực thà, mẩn cán. Ông 36 tuổi. Hồi còn nhỏ, ông được học chữ tây khi lên 10; đến năm 18, ông xin vào tập sự trong sở Tòa Án Hàng Tre. Sống lâu lên lão làng, sau 18 năm làm việc siêng năng, đứng đắn, ông được thăng thư ký hạng nhất. Thân sinh ông thủa trước làm quan đến chức kinh lịch sắp được ra Hậu bổ thì không may lâm bệnh từ trần. Thân mẫu ông cố thủ tiết thờ chồng, và chăm nom nuôi nấng ông cho thành một người có chức phận.

Năm ông 20 tuổi, bà cụ lấy vợ cho ông. Khốn nỗi người vợ ấy lại nhà quê và hết sức ngu đần, nên, dù chị ta cũng dễ coi, ông không lấy gì làm thuận lắm, chỉ chiều lòng bà mẹ mà thôi: Ông Phán Lân vốn là người trung hậu, trong bụng tuy chê vợ, nhưng không hề nói ra để thân mẫu phải ưu phiền. Ông đành ngậm miệng, nhắm mắt, mãi tới ngày bà cụ trăm tuổi, tám năm sau khi ông ăn ở cùng vợ ông. Bà vợ ấy, đã xấu, đã nhà quê, lại còn có một tội lớn nữa là trong tám năm hương lửa, không cho ông được đứa con nào, Ông dẫu muốn dung nữa cũng không sao được, huống hồ trong buổi lâm chung, mẫu thân ông còn dặn ông phải mua hầu, mua thiếp, để giữ lấy dòng dõi về mai hậu.

Vậy nên, sau khi chu tất xong ma chay cho mẹ, ông buộc lòng phải tống vợ về quê, cho giấy để nàng cải giá. Rồi ông sống một thân cô độc, tự coi lấy việc gia đình, Đáng nhẽ cứ thế mãi cũng xong, nếu ống không thấy tâm hồn khao khát thú yêu đương, ân ái. Từ ngày nhớn lên, ông chỉ mãi mê làm việc cho tròn bổn phận và thờ mẹ cho tròn hiếu nghĩa, không còn thì giờ đâu nghĩ đến ái tình Mãi tới năm hai mươi tám tuổi đầu

khi mẹ đã chết, vợ đã về, chức phận cũng có bề vững vàng, chắc chắn, bấy giờ ông phán Lâu mời thèm mến, thèm yêu. Ông mơ tưởng lấy được một người vợ không giàu nhưng không xấu, biết chăm nom chiều chuộng ông, cùng ông gây nên một cảnh gia đình êm vui, đằm thắm. Ông không còn trẻ măng gì nữa, không dám ước ao gì những thú quá ư mới mẻ, cao xa ; ông chỉ cần có một người vợ lịch sự, dễ coi, để trong những lúc ngồi đọc báo, đi xe giờ, xem chớp bóng, ông có hạnh phúc được luôn luôn kề bên mình một người thiếu phụ ông tin cậy và thương yêu. Ông chỉ ước mơ có thế. Và lại cầu nguyện rằng vợ ông sau này sẽ là người biết trả lại tình âu yếm cho ông, nghĩa là đối với ông chung thủy cũng như ông đối với vợ một niềm quí mến không bao giờ xao nhãng đơn sai.

Nghĩ thế nào, được thế ấy. Tìm kiếm chả bao lâu trong đám phụ nữ con nhà tử tế, luồng nhỡn tuyến và chí quyết định của ông sa ngay vào một thiếu nữ rất xinh tươi, buôn bán ở Hàng Đường. Thìếu nữ con nhà thi lễ; ngoài nhan sắc thanh tao diễm lệ, những cách cử chỉ đoan trang, nề nếp, càng tăng vẻ con người óng ả, dễ coi. Chả thế mà ông phán Lân vào mua hàng chỉ có một lần, tâm thần ông đã bị thiếu nữ làm cho rối loạn. Về đến nhà, ông Phán đâm ra mê mẫn, ngày đêm chỉ mơ ước được cô kia làm bạn trăm năm. Ổng bèn mượn mối lài phân minh, xin hỏi cô về làm vợ. Họ nhà gái rất là kẻ biết điều, lịch thiệp ; sau khi rõ lai lịch, niên kỷ và thân thế ông, bằng lòng ngay cho thiếu nữ cùng ông gá nghĩa.

Mọi lễ đủ xong xuôi, cô Loan, con gái Hàng Đường, đã hóa ra mợ Phán. Mợ Phán người nhu mì, ngoan ngoãn, từ bộ đi về đứng, từ tiếng nói câu cười, không một cử chỉ nào ra ngoài qui củ của những gia đình nề nếp. Đến sự ăn ở cùng chồng, cô Loan càng khéo chìu, khéo chuộng, khéo cả nỉ non tình tự, khiến ông Phán không ngồi ở sở phút nào mà không nghĩ tới vợ hiền.Tan sở, ông lại vội vã về nhà, chẳng mất phút nào vô ích. Từ khi ông được vừa lòng đẹp ý, ông Phán yêu và hết lòng; trong gia đình êm thắm của ông không bao giờ xen vào một tí bất bình gì nho nhỏ. Đôi uyên ương hình như sinh ra để bay với nhau song song trong gầm hạnh phúc, chồnghòa, vợ thuận, tưởng chừng đến bách niên đôi lứa ấy vẫn yêu nhau.

Ông Phán không chơi bời, không rượu chè, cờ bạc, không thuốc phiện, cô đầu ; bao nhiêu nết xấu của những thiếu niên trạc tuổi như ông, ông đều không có cả. Ông bao giờ cũng làm ăn chăm chỉ, đến đúng giờ, về đúng khắc: ông như một cái đồng hồ. Trong cửa trong nhà, ông không làm một sự gì khác với những hành tung thường nhật; đi làm về hai buổi thì đối diện cùng vợ ăn cơm vui vẻ, ăn cơm xong lại cùng ngủ trưa, hay ngồi đọc báo với nhau. Một tuần lễ, hai vợ chồng đi xem chớp bóng Tàu hay đi xem Quảng Lạc độ một lượt; ngoài ra, lại ở nhà hú hí chuyện trò. Trong những giờ nhàn rỗi tiếp với buổi cơm tối, vợ ngồi khâu vá, đan áo, hay làm các việc vặt như bóc hạt xen, nấu mứt dứa, quấn thuốc lá quả cầu, trong khi chồng nằm khểnh ngâm Kiều hoặc đọc và giảng những câu chuyện Liêu Trai hay Tình Sử.

Đời ông Phán Lân nó đi đều như làn nước một con sông không bao giờ bị phong ba, bão táp, nó êm đềm vui vẻ lạ thường. Đối với ông, như thế nghĩa là vui vẻ. Đối với vợ ông, như thế cũng là sung sướng; cho nên, trong mấy năm cùng ông chăn gối, vợ ông vẫn hết lòng làm cho qnãng đời ấy được êm ả, dịu dàng, nghĩa là không khi nào có chút đổi thay gì nữa. Hai vợ chồng ông Phán Lân tựa như đã đồng ý với nhau đặt ra một trương trình thứ tự và tươm tất,để hai vợ chồng cứ việc theo mãi mãi đến già.

Nhưng … than ôi! Đàn bà bao giờ cũng là kẻ yếu linh hồn hơn hết! Ông Phán Lân có đủ can đảm sống cuộc đời không sóng gió của ông cho đến chết, song vợ ông theo chương trình được dăm năm thì đã thấy chán nản lắm rồi! Nói là dăm năm cũng còn là nói rộng rãi mà chơi: thực ra, cô Loan thấy khó chịu sau khi về làm vợ ông Lân được hai năm vài tháng. Cô tự thấy không thể dằn lòng sinh hoạt mãi trong một cảnh không chút gì là đặc sắc, chỉ loanh quanh có những thú tẻ, buồn. Vì những thú ấy ngày nào cũng vậy. Rồi chuỗi giờ cô đếm, chúng nó hóa ra nặng nề, đằng đẳng, chúng nó mài mòn tuổi xanh của cô giữa một thời cô phải sống cho đầy đủ, say sưa.

Cô Loan, ai ngờ đâu, bị tiêm nhiễm những tư tưởng mới tự khi nào không rõ. Cho nên vợ ông Phán, trước ông, đã phá tan hạnh phúc của gia đình. Cho nên chương trình ông đặt, ông tưởng theo nó tới khi hưu trí, mà hóa ra, giữa đường, ông phải bỏ nó chơ vơ. Cho nên ông đã chết trong tay một người đàn bà không phải cô Loan, mà lại chính là Lệ Ngọc.

Ai cũng biết ông Phán Lân là kẻ siêng năng mẫn cán, ưa sống một cuộc đời trưởng giả êm, vui.

Ai cũng biết ông Phán Lân là người đứng đắn không bao giờ có cử chỉ gì điên đảo ra ngoài vòng đạo lý, luân thường. Thế mà sao bỗng, giờ đây, ông hóa ra một khách ăn chơi đàng điếm? Không tối nào ông không rượu chè be bét, mon men lên tửu quán, trà đình. Không tối nào ông không hút thuốc phiện hoặc đi cô đầu, mà nếu không thế; ông lại vùi thân trong một sòng phán thán hay xóc dĩa. Ban ngày, ông ngủ gà ngủ gật trong sở, không bì với những giờ, năm xưa, ông cặm cụi cạo giấy suốt cả buổi, chẳng khi nào trái bổn phận mình. Cách vài tháng trước gần đây, ông còn đi làm đúng giờ, tịnh chưa phải để quan trên quở trách một câu nào cả. Thế sao ngày nay ông bỗng nhiên sinh đốn: đi làm chậm đến một giờ, và chưa đến lúc ra về, ông đã ngồi đứng không yên, chỉ lăm le tếch ra ngoài cho sớm. Anh em đồng sự với ông lấy làm lạ lắm, không hiểu tại sao con người đắn đo mực thước như thế, phút chốc, hóa ngay ra một dân bợm bãi, ngang tàng! Ông Phán Lân ăn mặc trước kia bao giờ cũng gọn ghẽ, diễm dắn; lúc tính tình ông thay đổi, cách ăn mặc của ông cũng theo tính nết, đổi thay. Đương ăn mặc ta, ông vận quần áo tây, và nhất đán, đem cho cả bao nhiêu quần áo ông vẫn dùng khi trước. Ông đâm ra ăn tiêu hoang rộng một cách không ai lường được. Xưa kia, ông chỉ hơi hỏi bạn một câu là tiền trăm họ cũng không ngại, đưa ngay ông mượn; đến bây giờ ông muốn cần một đồng, Hỏi ai họ cũng chối từ. Vì thế, ông trông đời bằng mắt bi quan, và có nhiều tư tưởng yếm thế.

Từ đâu xảy ra câu chuyện nực cười như vậy, câu chuyện ông Phán Lân mà cả sở Tòa án Hàng Tre bàn tán mãi không ngừng? Thiên hạ dị nghị, là bởi chỉ trông thấy bề ngoài của ông Phán mà thôi; nếu ai đã được đi sâu vào tâm hồn tan nát rối loạn của ông, người ấy chắc không lấy gì làm lạ.

Thì ra ông Phán bị thất tình, thất vọng. Vợ ông, cô Loan, đã phụ ông, để ông trơ trọi một mình!

Từ ngày còn bé cho tới khi 28 tuổi đầu, ông Phán Lân chưa từng biết yêu ai. Lúc ông lấy cô Loan, ông chỉ biết có yêu Loan. Nhưng ông yêu Loan theo ý ông, ông đã đưa Loan vào một cõi hạnh phúc êm đềm, đầm thấm. Ông tưởng rằng đã làm cho Loan được hết sức hài lòng. Mấy năm đầu, còn bỡ ngỡ thơ ngây, Loan cũng chịu khó cúi đầu, tuân theo luật lệ của ông chồng đã đặt. Nhưng dần dà, nàng thấy đời nàng chán, tẻ, không có thú gì đáng gọi là có ý nghĩa sâu xa. Nàng vẫn đinh ninh rằng ái tình dệt bằng những thời khắc mơ mộng, say sưa, có ngờ đâu kiện trạng, càng kinh nghiệm, càng để lại cho nàng một dư vị buồn rầu, chua chát, Nàng đọc tiểu thuyết thấy tả cảnh những thú vui đằm thắm, vẫn tưởng tượng trong hồn chồng nàng sẽ yêu nàng cũng như những anh chồng giàu tình cảm hiện trên các trang sách nàng xem. Nàng cho là ông Phán Lâu cũng đủ tư cách làm chồng, mà những giờ ân ái nồng nàn, khắng khít, nàng thường ao ước, thế nào nó cũng sẽ tới. Rồi nàng đợi, nàng đợi... Thời-gian bay đem đến cho nàng nhiều thất vọng chua cay.

Đã trót thành vợ thành chồng, Loan đành chôn hẳn những mơ mộng viển vông để yên sống trong hạnh phúc gia đình êm ả. Nhưng hạnh phúc đó, đối với nàng nào đâu phải là hạnh phúc ; sao đời nàng buồn tẻ quá như vầy? Nàng sẽ cố sức chịu hy sinh tuổi xuân xanh cho nghĩa vụ thiêng liêng của một người vợ ; nếu ông Phán sớm cho nàng được một đứa con tươi tốt, khiến nàng có thể cam lòng xóa bỏ hết các thị dục của tuổi thanh niên bồng bột, gượng vui cùng mụn con thơ. Khốn nỗi ông Phán Lân không đúc nổi được một đứa con nào, trong bảy năm hương lửa, âm thầm, Loan cứ phải một thân vò vỏ. Lấy chồng được hai năm, nàng đã thấy đời làm vợ một nhà cạo giấy cần mẫn, đúng mực, là một đời vô vị ; nàng đã hơi hơi chán nản, buồn rầu. Song nàng cũng cố chìu chồng vì đã trót thương chồng, không muốn để cho chồng khổ sở. Nàng hết lòng kiên nhẫn mới chịu được năm năm nữa. Nhưng hỡi ơi! đằng đẵng bảy năm trời bó buộc, đã đem đến cho nàng biết bao là hận, tủi, oán, sầu! Thoạt bước chân về nhà chồng, Loan vui vẻ đem quả tâm non rắp hiến cho người biết yêu nàng tận tụy. Trong hai năm đầu tiên, bởi thế, nàng đối với chồng ấu yếm biết dường nào! Khốn nỗi mối tình ông Phán trả lại cho nàng là một mối tình tẻ lạnh, hững hờ, khiến càng chung đụng với ông nàng càng thấy xa ông dần dần trong bể ái.

Rồi một ngày kia, sau khi đã chịu nhịn mãi, buồn mãi, vò võ mãi một mình một bóng, sống chán nản mãi bên một người không hiểu tâm hồn và ý chí mình, Loan không thể đừng được nữa, cô quá bị cám dỗ bởi tiếng gọi của con tâm suốt đêm ngày tha thiết, cô quyết lòng cắt đứt những dây bó buộc, lẹ làng xách hành lý ra đi. Cô ra đi sau khi đã xin lỗi ông và từ giã ông bằng một bức thư dài, cắt nghĩa rõ cho ông hiểu: hai người đã không hiểu được nhau thì không nên làm hại đời nhau vì những sự câu nệ và nhất là vì những phút giằn lòng nhẫn nại. Phải nên đoạn tuyệt với lòng giả dối, phải nên quyết liệt với những thói ngại ngừng. Cô xin ông nên tìm một người bạn trăm năm hợp với tư tưởng ông. Cô tự xét mình không được hạnh phúc và hân hạnh làm người bạn trăm năm đó, Vì thế cô ra đi. Cô ra đi để tự gây cho cô một cuộc đời hợp với ý chí của cô, vì cô không muốn gần ông, cô phải tiêu hết chuỗi ngày xanh mà, thiệt thòi, cô đã hi sinh cho ông quá nửa.

Đọc xong bức thư vĩnh quyết, ông Phán Lân ngã ngửa người ra. Ông mê man bất tỉnh. Ông chết ngất. Khi ông hồi tỉnh dậy, ông ôm đầu khóc lóc suốt nửa ngày. Rồi từ đấy, ông không thiết gì nữa cả. Vợ ông là kẻ xưa nay ông yêu quí nhất, bây giờ nỡ phụ bạc ông. Thế thì còn ai ở đời này ăn ở cùng ông chung thủy nữa? Vợ ông là nhẽ khiến ông vui để sống, để làm ăn chăm chỉ, để mong một ngày kia có chút danh vọng trong đời. Ông, độ bảy năm nữa, thế nào chả được Bắc đẩu bội tinh, nhưng cái danh dự đó, bây giờ còn làm gì nữa? Vợ đã phụ thì còn có sự gì đáng thiết, nhất là người vợ yêu quí kia lại là ái tình duy nhất của đời ông?

Ông Phán Lân hết sức phẫn chí. Chả mấy chốc ông thành ra như người mất vía, mất hồn. Bạn đồng nghiệp tưởng là ông mới có máu điên, vì thấy ông đương ngồi yên lặng bỗng rúc cười lên sằng sặc, rồi phút sau lại gắt gỏng om xòm. Nhưng không phải ông điên đâu mà sợ, ông chỉ đổi tính đấy thôi. Vì nếu ông điên, cớ sao ông biết uống rượu, đi cô đầu, đi đánh bạc?

Ông đánh bạc to lắm; có canh ông được ngót nghìn, cũng có canh ông thua sạt nghiệp. Bao nhiêu tiền ki cóp được trong 18 năm làm việc, ông đem ra nướng hết trong vài ngày. Rồi ông sống lần hồi một cách rất hồn nhiên, lãng mạn. Sự chơi bời không giờ, không nếp tựa như, một đôi khi, khuây khỏa được lòng ông. Từ lúc vợ ông đi, ông không khi nào nghĩ tới nàng nữa. Ông quên, quên hết. quên hẳn quãng đời đã trải. Sống làm trai phải cho đáng mặt trai, phải biết đủ mọi mùi mới được. Ông Phán Lân đã trải đủ mọi mùi. Ông lấy những khoái lạc vật chất để đè nén nỗi thương tâm ấy. Nổi thương tâm ấy, dần dà, cũng thấy phai đi.

Ông Phán sống một đời mới mẻ. Tuy cuộc đời mới này nó phiêu linh, bê tha và phóng đãng, những thú vui nó cho ông đuợc hưởng, làm cho ông vẫn trông đời bằng đôi mắt lạc quan. Nếu ông không gặp một cảnh ngộ gì nữa quá ư đau khổ, nhục nhằn, thì ông cứ mãi mãi vui lòng sống nổi chìm trong cuộc đời túi bụi đó. Ông sẽ thành ra một khách làng choi đàng điếm cho tới khi ông lóa mắt bạc đầu. Ông sẽ hóa ra một lãng tử già, có lấy gì làm lạ. Đời, ông vẫn cho nó vui, nó thú, nó đáng sống không biết chừng nào. Ông mới chỉ là một kẻ thất tình, nào đâu đã là người tuyệt vọng? Vì thế, ông vẫn điềm nhiên đeo vết thương đi thẳng thắn trên con đường trần gai góc, ông không hề phẫn chí bao giờ.

Ổng Phán là ngườican đảm.

Bởi lẽ vị tình cay đắng, ông Nguyễn quang Lân đã phá tan hạnh phúc gia đình, một thứ hạnh phúc ông cho là tuyệt diệu. Bởi lẽ tình trường lầm lội, ông Phán Lân đã thành một khách hào hoa. Nhưng tuy chơi thì cứ việc chơi, bao giờ tâm hồn ông cũng bị một nỗi đau đớn gì cắn rứt. Trong ngót mười tháng, ông đã cố chống cự cùng nỗi đau đớn ấy, làm cho vết thương trong lòng ông nó hàn gắn dần dần. Ai ngờ vết thương kia càng ngày càng thấy loang lo, rỉ máu đỏ luôn luôn không ngớt. Mối sầu, ông tưởng nó theo thời gian mà tiêu tán, biết đâu màn quên không phủ kín nó, khiến hồn ông nhớ mãi cảnh thương tâm? Ông kiên gan chịu đựng mãi nỗi ưu phiền, ông ngậm miệng cố vuốt nó xuôi đi cho thoát nợ. Nhưng ông không đủ sức đuổi hẳn nó ra ngoài cõi linh hồn, ông chỉ đủ sức dìm được nó vào cõi quên trong chốc lát.

Ông như một con vật còn mạnh mẽ bị một vết đạn xuyên sâu vào thớ thịt. Những lúc hăng máu, con vật kia tựa hồ không biết mình bị thương nữa; song những ngày trở giời độc đất, vết đau kia lại nhoi nhói, cắn rứt, làm cho con vật đó muốn yên thân không được, phải cuồng khấu lên hòng quên sự cắn rứt ấy đi.

Trong những lúc ‘‘phùng trường tác hí’’ ông Phán Lân, cũng như con vật hăng máu, quên rằng mình đeo một vết thương đau. Nhưng một buổi chiều kia, có lẽ là hôm ấy dở giời dở đất, ông Phán thấy trong lòng buồn quá, buồn hơn hết cả mọi ngày. Ông không thể nào giải được nỗi sầu, phải mặc áo đi lang thang ngoài phố. Mọi hôm có tiền ông có thể mua vui bằng thú cô đầu hay đánh bạc; chiều hôm nay, ông tức mình vì nỗi cả cửa nhà chỉ còn có dăm hào. Đi hút thuốc phiện khiến cho trong lúc say mơ, hồn càng thấm thía thấy đau; vậy tốt hơn là ông uống rượu nhiều cho mất hết trí khôn, họa chăng thoát khỏi lúc cõi lòng u uất. Ông Phán Lân bèn vào tiệm rượu, ông cho gọi một món thực phẩm ngon có tiếng rồi mua một chai rượu cúc uống dần dà. Khi ông ra khỏi cao lâu, gió mát tạt vào mặt ông làm cho ông thấy trong người phấn khởi. Ông lững thững đi dạo mát hết phố này sang phố khác, vừa đi vừa thỉnh thoáng ngã gúi ra đằng trước hay ôm lấy một cột đèn. Loạng choạng ra đến Bờ Hồ, gân cất chân ông không thể mang ông được nữa. Ông đụng phải một cây liễu lớn mà ông cho là một người bạn cố tri ; ông ôm chặt lấy cây liễu rồi ngã vật xuống gốc cây, xuýt nữa lăn xuống nước. Người ông mềm như bún. Quần áo ông lếch tha lếch thếch, ông không còn biết trời đất là gì.

Ông say quá nên không đễý đến ai; có biết đâu, gần chỗ ông ngã, trên bờ hồ, một người thiếu phụ đương để tâm săn sóc đến ông. Lúc ấy đã mười hai giờ đêm ba khắc. Thiếu phụ đứng vẩn vơ nhìn ra hồ đã ngót một giờ rồi nàng hình như chờ đợi ai, hay một mình ra hóng gió mát lúc đêm khuya thì không rõ. Chỉ biết nàng đi lại trên vỉa đường cũng đã khá lâu, vừa đi vừa ngậm một ý tưởng gì tha thiết. Thiếu phụ còn trẻ lắm, vào khoảng hai mươi ba, hai mươi bốn tuổi là cùng. Nàng rong rỏng cao, vận một bộ áo quần lụa mỏng, quần trắng và áo hàng sặc sỡ. Trông vẻ nàng ăn mặc và đi đứng, ta có thể đoán được nàng là một gái ăn chơi. Vì thiếu nữ con nhà lương đàn, không khi nào lại đứng một mình trong lúc khuya khoắt, vắng người như thế.

Mắt thiếu phụ rất đen và sáng, thỉnh thoảng đôi mắt ấy lại dăm dăm nhìn làn nước phẳng lặng như muốn đi sâu vào đáy nước để tìm kiếm một sự gì. Khi nàng thấy ông Phán Lân loạng choạng mãi rồi ngã gục xuống bờ cỏ bên hồ, sắp lăn xuống nước, nàng giật mình trông kỹ, thoăn thoắt đi lại phía ông ta để đỡ ông lên. Song ông Lân vừa nặng vừa mềm ; thiếu phụ biết ông ta say rượu nên không gọi làm gì cho mỏi

miệng. Nàng nhanh trí khôn, cho gọi một cái xe kéo, sai cu ly xốc nổi ông Phán dậy, khiêng ông để lên xe, kéo theo nàng đến một tòa nhà. Nàng vào nhà trước hồi lâu rồi thấy hai người đàn ông ra vác ông Phán lên lên gác.

Thì ra chốn ấy là một nhà xăm, ô ten Đổng Lạc; mà thiếu phụ là một cô ‘‘giăng há’’ vẩn vơ ra tìm khách ở ven hồ. Trông thấy người đàn ông, bề ngoài có vẻ phong lưu, cô nhân tiện cứu ông ta, rắp mong vì thế, sẽ được ông ta đền ơn cứu mạng.

Ông Phán Lân say lắm. Thiếu phụ ngồi bên cạnh ông biết là muốn cho ông tỉnh, chỉ có cách bắt ông nôn và cho ông uống một chút thuốc phiện là xong, Nàng bèn gọi bồi cho đi mua thuốc, cởi quần áo ông ra cho ông dễ thở và đặt ông nằm chéo trên gìường. Nàng ra ngoài kiếm một ít ‘‘mùn thớt’’ và một cái lông gà, rồi vào lấy thân thể ông Phán làm trường thí nghiệm. Quả nhiên, sau khi đã thổ ra hơn một lít rượu và uống nửa ‘’gam’’ thuốc phiện pha nước chè nóng, ông Phán Lân thấy trong người khoan khoái tỉnh dầ. Lúc bấy giờ ông mới bị thiếu phụ căn vặn hỏi ông những lẽ đã khiến ông xuýt nữa ngã trôi xuống nước,

Ông chưa trả lời vội. Thấy thiếu phụ vừa có duyên, vừa đẹp, ông gạn nàng cởi áo nằm bên cạnh ông thì ông mới kể chuyện cho nghe. Làm nghề chìu lòng khách đã quen, thiếu phụ không ngại ngùng gì cả. Dối đầu lên cánh tay ông Phán, nàng thuật lại ông nghe nàng đã cứu ông những thế nào. Ông vừa lấm tắc ngợi khen nàng, vừa đặt trên môi nàng một cái hôn còn nồng hơi rượu. Thế là, tình cờ, ông và thiếu phụ đã thành một đôi giai ngẫu.

Ông Phán Lân vốn có tính thực thà, chất phác. Ông không giấu giếm bạn gái ông một sự gì. Trong gian phòng vắng vẻ, giữa đêm trường tịch mịch, bên cạnh thiếu phụ mà một dịp tự nhiên đã cho được sum họp cùng ông, ông Phán, bằng một giọng buồn rầu thấm thía, tỉ mỉ kể lại quãng đời tình cay đắng của ông cho thiếu phụ nghe. Ông không hề bỏ sót một quãng nào, một tý gì ; nhất nhất ông kể lại rõ ràng, minh bạch. Nghe chuyện ông, thíếu nữ không nói một câu nào cả; ông tin rằng nàng ngủ, nhưng lúc ông quay xuống nhìn xem, thì thấy nàng hai má đầm đìa những lệ. Hai mắt nàng lóng lánh sáng quắc lên một cách dị thường. Nàng thương ông, lại tức giận cô Loan tệ bạc. Ông Phán Lân hết sức cảm động lúc thấy thiếu phụ xa lạ kia chân thành tưới trên vết thương đau của ông vài giọt lệ quý hóa, - dịu như thuốc Tiên Thánh, ngọt như nước Cam Lồ,- ông bồi hồi ngượng nghịu cúi đặt trên trán nàng một cái hôn trong trẻo, nhớ ơn, một cái hôn chỉ để riêng tặng cho những người thanh khiết. Thiếu phụ rùng mình, như cảm thấy quả tâm nàng, cùng quả tâm ông khách, chúng nó vỗ chung một dịp ái ân đằm thắm, não nùng.

Nàng cố nuốt một tiếng thổn thức xông lên đè nén cổ họng nàng. Hai dòng lệ trong suốt, trong mi mắt nàng, bỗng thấy trào ra, không ngớt.

Lệ Ngọc ôm chặt lấy ông Phán Lân vào ngực. Nàng tưới đẫm áo và má ông bằng những giọt lệ nồng nàn. Nàng tự nhiên thấy thương ông Phán một cách rất chân thành, cao thượng. Nàng cảm thấy nàng với ông cùng là một đôi nạn nhân bị luân lạc giữa trần ai.

Ông với nàng cùng là chung thuyền, chung hội. Nỗi tâm sự của ông, đau đớn, đã làm cho nàng sực nhớ đến tâm sự nàng, đau đớn bằng hai. Nàng đăm đăm con mắt, nhìn vào quãng không gian vô tận, như mò trong đấy quãng không gián ấy những hình ảnh cũ kỹ của một thời dĩ vãng tẻ buồn. Rồi, bên vai một kẻ cùng chung khổ ải như nàng, Lệ Ngọc bùi ngùi thổn thức kể lại ông Phán nghe những phút nhục nhằn cay đắng mà tuổi xanh mơn mởn của nàng đã chịu trải qua. Nàng muốn lấy thuơng tâm của nàng để an ủi một người thất vọng, để người ấy hiểu rằng mình còn sung sướng, rồi họạ may, giải được nỗi lòng. Nàng muốn cho ông Phán Lân, trong lúc trơ trọi bơ vơ, được vui vẻ vì có hân hạnh truyền được khổ tâm cho một bạn gái cũng như mình, mang một mối tình sầu thiên cổ.

Thế rồi Lệ Ngọc nói lảm nhảm như một người điên nói sảng; trong lúc nàng thuật lại quãng đời nàng đã sống, nàng hình như trông thấy trước mắt, trên một cuốn phim vô hình ảnh, tất cả những kỷ niệm ghi thời luân lạc của nàng. Nàng trông dáng điệu hùng hồn, hai mắt nàng sáng quắc lên như một tia lửa cháy. Nào là lúc thơ ấu mồ côi từ sáu tuổi, nào là lúc nhớn lên bị lừa đảo, nổi chìm. Nào là lúc kẻ kia bán nàng cho một mụ giàu ác nghiệt, vô luơng tâm, nào là lúc bị ép phải bán thân, chìu khách. Rồi một ngày kia nàng trốn thoát gông cùm hãm buộc, sau khi đã trải qua xiết bao là sự gian nan. Từ đấy, nàng rắp tâm sống một cuộc đời tử tế, sạch sẽ, cùng một người đàn ông thực bụng thương nàng. Ai ngờ đâu số má hồng còn nặng nợ đoạn trường, nàng lại bị lắm kẻ đối giả dối với nàng để chiếm thân thể và con tâm nàng trong chốc lát. Bị mấy lần trong tình trường đau đớn, nàng không còn thiết gì đến sống khổ, sống nhơ. Nàng cố đeo đuổi quãng đời thừa cho trọn nợ má đào, chờ một dịp may đưa nàng vào một gầm sinh hoạt êm vui đằm thắm.

- Nếu em có phúc phận được làm người để anh yêu, anh quí, có đời nào em nỡ lòng phụ bạc tình anh!

Lệ Ngọc trách cô Loan sao không nghĩ đến thủy chung và hạnh phúc mình đã gây nên, lại nhất đán dại dột phá tan cõi thiên đường trời đã dành riêng cho mình hưởng. Giận cô Loan bao nhiêu, bấy nhiêu nàng thương hại ông Phán, cảm cảnh thay cho ông và an-ủi ông cố quên những giờ đau đớn. Nhưng thương ông, nàng tại nghĩ tủi buồn thay số kiếp, tủi buồn thay cho cuộc đời nàng. Một đời nhem nhuốc xấu xa, không diễm phúc, không tương lai, đắm đuối trong đống bùn lầy, bụi bẩn. Một đời đầy dẫy những vị cay chua cùng hôi hám, không khi nào có thể giúp cho nàng mở mặt, mở mày. Nàng, rồi ra, sẽ phải chịu đeo mãi mãi mảnh thân tiều tụy và chút sắc phôi pha, để một ngày kia, chết chìm lấp trong một hốc tối đen ghê tởm.

Lệ Ngọc nghĩ đến đấy, tủi phận, ôm đầu nằm khóc. Ông Phán Lân cũng nức nở lên, thổn thức như nàng. Hai người thấy tâm sự nhau có nhiêu chỗ tương đương, càng thương mến nhau thêm nữa. Rồi tựa như trong cơn đau khổ, cả hai cùng hiểu nhau đến cực điểm, ông Phán và Lệ Ngọc ôm lấy nhau khóc sướt mướt không nguôi. Thương tâm và sự gặp gở tự nhiên đã khắng khít hợp hai người làm một.

Cảnh thất vọng của ông Phán lại như thêm vào cảnh nhục nhã của Lệ Ngọc mà tăng phần đau đớn; đôi bên đã truyền cho nhau những luồng điện nồng nàn, mạnh mẽ, khiến cả hai cùng thấy cảm động vô cùng. Sự buồn tủi, như tiếng cười, cũng là một bệnh, truyền nhiễm. Hai bên đã cùng tiêm cho nhau cái mầm phẫn chí, quyên sinh Hai người nằm ôm nhau thổn thức hồi lâu; sau cùng, ông Phán gạt nước mắt trước tiên, ghì đầu Lệ Ngọc vào ngực, hôn mái tóc nàng năm sáu lượt, rồi bằng một giọng run run, thấm thía, bảo nàng rằng:

- Hai con tâm chúng ta ngày nay đều trơ cứng cả rồi; anh bị tâm hồn tan nát mà em đau đớn đã nhiều, chúng ta khó lòng thương yêu nhau được nữa, dẫu rằng đôi ta, nếu gặp nhau sơm sớm, ắt sẽ thành một lứa uyên ương. Bây giờ đôi ta như én lạc chim chiều, không còn đủ can đảm xây nên một tổ hạnh phúc êm vui được nữa. Âu là khổ đã đến thế này anh em ta nên dứt bỏ hẳn cuộc đời đa lụỵ, cùng nhau ta đi tìm sung sướng trong cuộc thế giới bên kia. Chết đi em ạ. Chết đi là hơn cả. Ta cùng chết cho có đôi, có bạn; Sống làm gì phải mang mãi những nỗi thống khổ thiết tha? Thà rằng anh cùng em đeo thất tình cùng xuống Tuyền đài, may ra kiếp sau này ta sẽ trở thành đôi giai ngẫu. Tình ta đối với nhau thực là cao khiết, cho khác hẳn những dục tình nhơ bẩn của người đời.

Chết đi, em; em, có hiểu lòng anh nên theo anh phá bỏ hẳn kiếp sống thừa vô ích!

Marie Tâm nói tới đây, ngừng không nói nữa. Nàng tiêm xong điếu thuốc, trở đầu xe, hút một hơi thuốc rõ dài. Làn khói bay nghi ngút trong một gầm không khí nặng nề, nồng hắc. Thấy tôi nằm lơ mơ, không hỏi han gì cả, Marie lại tiếp nối vài lời:

- Em chắc rằng chị Ngọc cũng vui lòng theo ý ông Lân, cùng ông tự tử. Nhưng sở dĩ chị chết sau ông, là vì cốc thuốc phiện đầy, ông Phán tranh uống hết hai phần,chỉ để lại có một phần cho Ngọc uống. Anh nghe chuyện này tất phải lấy làm lạ, và, theo như lời em khi nãy, chắc phải cho rằng sự khổ buồn nó truyền nhiễm rất sâu xa. Nếu chị Ngọc không gặp ông Lân, chị còn đeo đẳng mãi quãng đời luân lạc. Mà nếu ông Phán không tình cờ gặp chị, vị tất ông đã phẫn chí muốn quyên sinh.

Vụ tự tử này nó có một vẻ đặc sắc là nó kết sức ngẫu nhiên, tưởng chừng như hai nhân vật trong chuyện đã đúng ngày tận số. Và nghiệp của họ, là phải cùng chết một lần, cùng chết trong tay nhau, Chả có thế sao lại có câu chuyện dị kỳ như vậy?

Anh là người xưa nay vẫn tự phụ giỏi về khoa tâm lý, anh thử giải phẫu những nguyên nhân vụ tự sát đó, nói cho em biết vụ này có hợp đúng tâm lý hay không? Hay là còn một nhẽ khác mà ta chưa biết?

Các bạn độc giả sẽ trả lời hộ tôi câu hỏi ấy.

(Août 1936)