← Quay lại trang sách

Chương 5 21

Chương 5

21

àng bảo nàng sợ chuột, tiếng chuột chạy trên sàn. Nàng cũng sợ rắn. Rắn ở khắp nơi trong núi, nàng sợ những con rắn hoa rơi từ trên xà nhà xuống, luồn chui vào chăn, nàng muốn mi ôm nàng chặt trong tay, nàng nói nàng sợ cô đơn.

Nàng nói nàng muốn nghe tiếng nói của mi, tiếng nói của mi làm nàng yên tâm. Nàng cũng muốn ngả vào đầu vai mi. Nàng muốn nghe mi nói, nói không ngừng, không thôi, nàng sẽ không cảm thấy lẻ loi nữa.

Nàng nói nàng thích nghe mi kể chuyện, nàng muốn biết tại sao Đệ nhị chúa công lại chiếm người con gái mà bọn cướp đã bắt cóc ngay trước cửa nhà nàng, làm sao cô ta lại khuất phục hắn và sau đó làm sao cái mạng sống của Đệ nhị chúa công lại kết thúc bằng chính tay cô ta.

Nàng nói nàng không muốn nghe chuyện cô gái đến từ thành phố rồi nhảy sông, rằng mi không được tả cái xác trương phềnh, trần truồng, nàng không muốn tự tử nữa, nàng không muốn nghe nữa chuyện những người đàn ông tự làm cho xương sườn bị gẫy trong múa rồng.

Máu thì nàng đã thấy quá nhiều ở phòng phẫu thuật ở bệnh viện. Nàng thèm nghe những chuyện vui nhộn, như chuyện người đàn bà hoa đỏ, nàng không muốn các chuyện dữ dội nữa.

Nàng hỏi mi có thế này với các cô gái khác không. Nàng không muốn biết cái mà mi làm với họ. Nàng muốn biết nàng có phải là người đầu tiên mi dụ vào trong núi như thế này không. Mi hỏi nàng nghĩ như thế nào về việc đó. Em chẳng biết nữa, nàng nói. Mi bảo nàng đoán xem. Nàng nói nàng không thể đoán và mi sẽ chớ nói chuyện đó ra với nàng dù cho nó đã xảy ra. Nàng không muốn biết nó, nàng chỉ biết nàng đến đây là theo ý thích của nàng, nếu nàng bị lừa thì đó là lỗi của nàng, nàng nói bây giờ nàng chỉ yêu cầu mi hiểu nàng, che chở nàng, trông nom nàng, bận tâm đến nàng.

Nàng nói, nàng nói lần đầu tiên khi một người đàn ông chiếm hữu nàng, hắn ta đã rất thô bạo, nàng nói rằng nàng không nói mi, nàng nói cái đứa kia, hắn không để ý gì tới nàng. Lúc đó, nàng hoàn toàn bị động, nàng chẳng có chút thèm muốn nào, nàng chẳng hề thấy kích động mảy may. Hắn vội vội vàng vàng tụt váy nàng ra, nàng trước sau cứ một chân đặt lên mặt đất cạnh giường. Hắn đặc biệt ích kỷ, đó là một con lợn, hắn chỉ muốn cưỡng hiếp nàng. Dĩ nhiên nàng bằng lòng nhưng nàng đã cảm thấy đau, hắn đã làm cho nàng bị rất đau. Nàng đã biết là có cơ bị đau và nàng đã làm chuyện đó như để cho xong một nhiệm vụ, để kích thích hắn yêu nàng, để hắn cưới nàng.

Nàng nói lúc ấy với hắn, nàng chẳng có một khoái cảm nào, nàng thấy tinh dịch hắn chảy trên đùi nàng liền nôn ngay. Sau đó, mỗi lần ngửi thấy cái mùi ấy lập tức lại giữ không nổi muốn nôn. Nàng nói nàng thuần túy là công cụ để hắn thỏa mãn cơn dục, chỉ cần nàng dính phải cái kia của hắn là nàng lại ác cảm với chính thể xác của nàng ngay.

Nàng nói đây là lần đầu tiên nàng buông thả mình, rằng đây là lần đầu tiên nàng dùng thân xác mình để yêu một người đàn ông. Không có nôn oẹ. Nàng biết ơn mi đã cho nàng khoái cảm kia. Nàng nói chính là nàng muốn trả thù hắn bằng cái cách này, trả thù tên bạn của nàng, nàng sẽ bảo hắn rằng nàng cũng đã ngủ với một người đàn ông khác. Một người nhiều tuổi hơn nàng nhiều, một người đã biết hưởng thụ nàng và đã biết cho nàng hưởng khoái.

Nàng nói nàng đã biết rồi nó sẽ phải ra như thế, rằng nàng đã biết nàng sẽ mở cửa cho mi vào, nàng biết rằng mọi sự thận trọng của nàng thật ra chỉ là một cách tự lừa mà thôi. Nhưng tại sao nàng lại muốn tự trừng phạt chứ? Tại sao nàng lại không thể hưởng thụ theo ý nàng? Nàng nói mi đã cho nàng cuộc sống và hy vọng, nàng muốn tiếp tục sống, nàng lại có ham muốn.

Nàng còn nói rằng khi còn bé, có một con chó con ở nhà nàng thích ươn ướt của nó đánh thức nàng, và đôi khi nhảy cả lên giường. Nàng thích ôm chặt con vật ở trong tay. Mẹ nàng nói, mẹ thật của nàng lúc này còn sống, nói chó có bọ cắn người. Sau đó cấm nuôi chó trong thành phố và một hôm nàng không ở nhà, một tốp thu bắt chó đã mang có chó của nàng đi và đánh chết nó, nàng đã khóc và không chịu ăn tối hôm đó. Lúc bấy giờ, nàng nói, nàng đặc biệt tốt. Nàng không hiểu tại sao thế giới con người lại xấu như thế. Tại sao trong quan hệ con người lại thiếu tình thương nhau. Nàng nói nàng không biết nữa tại sao nàng nói những cái đó.

Mi bảo nàng nói tiếp đi.

Nàng nói nàng có cảm tưởng nàng đang mở một cái máy nói, nàng nói, nói không dứt.

Mi nói nàng nói rất hay.

Nàng nói nàng thèm muốn vừa cứ còn bé lại vừa trưởng thành, nàng mong muốn được yêu, mong muốn thiên hạ nhìn nàng trong khi vẫn sợ cái nhìn của đàn ông luôn bẩn thỉu, rằng họ không nhìn bộ mặt xinh đẹp của đàn bà mà cứ nhìn cái khác.

Mi nói mi cũng là đàn ông.

Anh là ngoại lệ, nàng nói mi đã làm nàng yên ổn, nàng muốn ở trong tay mi.

Mi hỏi liệu nàng có thấy mi cũng bẩn thỉu không.

Anh đừng nói thế, nàng nói nàng không thấy, nàng yêu mi. Nàng thấy mọi cái ở mi đều hết sức thân thiết dịu dàng, nàng nói bây giờ nàng mới biết cuộc đời là gì. Nhưng nàng nói đôi khi nàng đặc biệt sợ, cảm thấy cuộc đời giống như một cái vực không đáy.

Nàng nói không ai yêu nàng thực tình, nàng tự hỏi trong thế giới này cuộc đời có nghĩa gì đây nếu như chẳng ai yêu nàng cả. Nàng nói nàng sợ cái đó. Tình yêu của đàn ông quá ích kỷ, họ chỉ nghĩ tới chiếm đoạt, họ cho cái gì để đổi lại nhỉ?

Họ cũng có cho, mi nói.

Chỉ khi nào họ muốn thế thôi.

Nhưng đàn bà cũng giống như thế, không thể lìa khỏi đàn ông, đúng không? Mi nói rằng đấy là ý trời, ông trời đã cho hai hòn đá mài nhẵn âm dương hòa vào nhau rồi, mi nói, rằng cái đó là ở trong bản tính người, nàng việc gì mà phải sợ.

Nàng nói chính mi đã đùn đẩy nàng.

Mi hỏi như thế có làm cho nàng thích không.

Không, miễn là mọi cái diễn ra đều tự nhiên, nàng nói.

Vậy thì nào lại đây, tiếp nhận cả ở hết thân xác lần tâm hồn nào. Mi khêu gợi nàng.

Ôi, nàng nói, em muốn hát.

Hát gì? Mi hỏi nàng.

Hát rằng, em đang ở với anh, nàng nói.

Thích gì em cứ hát. Mi khuyến khích nàng hát hết giọng.

Nàng muốn mi vuốt ve nàng.

Mi nói mi muốn nàng thư giãn.

Nàng muốn mi hôn đầu vú nàng...

Và mi hôn nàng.

Nàng nói nàng cũng yêu cả người mi, chẳng cái gì trên người mi còn làm cho nàng sợ nữa, nàng làm mọi cái gì mi muốn, ôi, nàng nói nàng muốn nhìn thấy người mi đang đi vào người nàng.

Mi nói nàng đã trở nên một người đàn bà thực thụ.

Vâng, nàng nói, một người đàn bà mà một người đàn ông đã chiếm đoạt, nàng nói nàng chẳng hiểu nàng nói gì nữa, nàng nói nàng chưa bao giờ lại thấy sung sướng thế này, nàng nói nàng đang bồng bềnh trên một con thuyền, nàng không biết nó sẽ bồng bềnh đến đâu, nàng không thuộc về nàng nữa. Nàng đang được ru trên mặt biển một mầu đen sơn then, nàng và mi, không, chỉ cần tự mình nàng, nàng thật chẳng sợ gì hết, chỉ thấy đặc biệt hư không mà thôi, nàng muốn chết, cái chết cũng quyến rũ nàng, nàng muốn ngã xuống biển để cho sóng đen ngòm dìm ngập nàng đi, nàng cần mi, hơi nóng người mi, sức đè của mi trên người nàng, cái đó có phải là một an ủi không nhỉ, nàng hỏi mi có biết cái đó không. Nàng đặc biệt cần cái đó.

Cần một người đàn ông hả? Mi dụ dỗ nàng.

Vâng, cần tình yêu của đàn ông, nàng có nhu cầu bị chiếm đoạt. Nàng nói rằng vâng, nàng muốn bị chiếm đoạt, nàng muốn phóng đãng, quên hết, ôi, nàng biết ơn mi, nàng nói lần đầu tiên nàng hơi sờ sợ, đúng, nàng nói nàng muốn, nàng biết nàng thèm nhưng nàng lại rất sợ, nàng không biết làm như thế nào, nàng muốn khóc, kêu lên, muốn bão táp xua nàng vào đồng quê vắng lặng, bão táp lột trụi nàng, cành cây cào rách da thịt nàng, nàng đau mà không thể gỡ, thú dữ xâu xé nàng! Nàng nói nàng đã nhìn thấy mụ ta, người đàn bà phóng đãng mặc đồ đen tự xoa nắn vú bằng hai bàn tay, mặt cười cợt, cách đi ngoáy mông của mụ ta, một con dâm phụ, nàng nói, anh không hiểu đâu, anh chắc chắn không hiểu cái đó đâu, anh không hiểu gì hết, anh đồ ngố này!

22

Ta rời vùng đi bằng xe khách ở giáp ranh hai tỉnh Vân Nam, Quý Châu; để tới Thuỷ Thành, ta phải chờ xe lửa mãi. Từ ga tới thủ phủ huyện còn một quãng đường dài. Cái vùng chẳng ra thành phố mà cũng chẳng ra nông thôn này đã khiến cho ta thấy lơ mơ đôi chút, nhất là khi nhìn thấy, ở rìa một cái giống như phố mà lại không phải phố hai câu đối dán song song trên lưới sắt cửa sổ một căn nhà cũ kỹ với những xà đen: “Trẻ chơi ngoài song, người lớn trong ngoài nhà đều yên”. Ta liền tựa hồ như không đi lên nữa mà là quay gót về tuổi thơ, phảng phất như ta chưa hề trải qua chiến tranh, cũng chẳng trải qua cách mạng, cũng chẳng qua đấu tranh rồi lại tái đấu tranh, phê phán rồi phản phê phán và giờ đây thì quay sang đổi mới; phảng phất như bố mẹ ta cũng chưa chết, bản thân ta cũng chưa nếm khổ nạn, cái nghiệp căn ta đâu có trưởng thành lớn lên và điều ấy khiến ta xúc động muốn khóc lấy đôi chút.

Ta đến ngồi lên một đống gỗ rỡ xuống cạnh đường xe lửa để nghĩ đôi chút về sự thể của ta. Một người đàn bà, trạc ba chục tuổi, mặt đau khổ đến gần. Bà ta muốn ta giúp bà mua một vé xe lửa. Bà chắc đã nghe thấy một lúc trước đây, ở quầy vé nhà ga, ta không nói tiếng địa phương này. Bà nói muốn đi Bắc Kinh để khiéu kiện nhưng không có tiền mua vé. Ta hỏi bà muốn khiếu kiện gì. Bà nói hoài cũng không sao rõ. Không ngoài việc chồng bà đã chết, bị một ai đó chỉnh cho chết trong một vụ án oan nào đó nhưng chẳng ai muốn nhận lỗi và bà chẳng nhận được trợ cấp nào. Ta cho bà một nguyên để thoát được bà, rồi đến ngồi bên bờ sông. Ta ngắm nhìn nhiều giờ sông núi trước mặt.

Chiều, quá tám giờ, cuối cùng coi như ta đã tới An Thuận. Ta để xắc vào nơi ký gửi, nó ngày càng nặng. Trong có một viên gạch hoa văn mà ta mang từ Hách Chương. Ở đấy, nông dân dùng gạch của các mộ đời Hán để xây các bãi thả lợn. Một ngọn đèn thắp sáng ở quầy ký gửi, nhưng không có ai. Ta gõ nhiều lần, một nữ nhân viên đi đến. Chị ta cầm tiền đưa, móc một cái nhãn vào xắc của ta rồi đặt nó lên một cái giá trống không trước khi quay gót. Phòng chờ rộng rãi vắng tanh, không giống chút nào với các phòng chờ thông thường chật ních người và ầm ĩ, ở đó mọi người ngồi xổm ngay cả lên thành cửa sổ, nằm lên ghế dài, ngồi trên hành lý, la cà không mục đích, nhào vào đủ mọi trò mua bán. Khi người ta ra khỏi nhà ga vắng lặng này, ta nghe thấy tiếng chân ta.

Những đám mây đen lao vun vút trên đầu, nhưng đêm sáng. Sương chiều hoà vào mây, rực lên nhiều sắc mầu. Ở tít đằng cuối bãi trải dài ra trước mắt, những quả núi cao tròn xoe dựng lên. Ngự trị bên trên cao nguyên, chúng nom giống như bầu vú đàn bà thành thục. Nhưng khi lại gần, chúng lại có vẻ đồ sộ và trở thành ra đè sụp. Ta không biết có phải là do các đám mây lông chạt trên đầu hay không nhưng ta cảm giác mặt đất thành nghiêng đi và ta đang chân cao chân thấp. Nhưng ta đâu có uống nhiều. Buổi tối ở An Thuận này để lại cho ta một cảm giác kỳ lạ.

Trước mặt nhà ga, ta tìm thấy một quán trọ nhỏ. Trong tranh tối tranh sáng, không nhận rõ căn phòng được ghép dựng như thế nào, đúng ra căn phòng bé như một ngăn nuôi bồ câu, đầu người có vẻ như sắp chạm vào trần. Chỉ có nằm được mà thôi.

Ta đi xuống phố, dọc đường các quán cơm nối tiếp nhau, bàn bày ra ngoài, dưới những ngọn đèn chói loà. Kỳ quặc là không có một khách ăn nào. Chiều tối nay, mọi cái đều dở, ta không thể không theo bản năng nghi ngại những cái quán ăn này. Xa nữa chỉ có hai người khác đang ngồi ở một cái bàn vuông. Ta đến ngồi xuống trước mặt họ, gọi một bát phở bò với hạt tiêu cay.

Đó là hai gã trai gầy, khô đét. Trước mặt một gã là chiếc bình toong thiếc đầy rượu, gã kia đặt một chân lên chiếc ghế dài. Mỗi gã cầm trong tay một chén gốm nho nhỏ, cũng chẳng thấy lên món nhắm. Hai người cầm lấy đũa, đầu đũa chỉ vào nhau. Cùng lúc, một người nói “tôm nõn”, người kia nói “đòn gánh”. Chẳng ai thắng ai, hai đầu đũa lại rời ra, cả hai cùng bắt đầu uống rượu. Hai người cũng im lặng tập trung tư tưởng, đầu đũa lại chạm vào nhau. Một người nói “đòn gánh”, người kia nói “chó”. Đòn gánh dĩ nhiên là đánh chó rồi, vậy thì người nói “chó” thua. Người thắng bèn tháo nút bình toong đổ một ít rượu vào chén đối thủ. Người thua tợp một hơi cạn và hai chiếc đũa lại được đặt châu vào nhau. Sự thanh thản và tinh tế của họ làm cho ta không thể không nghĩ họ là hai ông tiên. Nhưng quan sát gần hơn nữa ta thất mặt mũi họ vẫn bình thường. Chẳng qua là ta hình dung tiên phải uống rượu theo cách của họ mà thôi.

Ăn xong phở bò, ta đứng lên đi, vẫn còn nghe thấy hai người dâng rượu cho nhau, tiếng họ đặc biệt vang trong cái phố vắng này.

Ta đến một phố cổ. Hai bên chỉ là những ngôi nhà lở loét sắp rã sụp với những mái chìa ra giữa đường. Ta càng đi, phố càng hẹp lại. Các mái nhà gần như sắp chạm nhau và có vẻ cũng sắp sụp xệ. Trước mỗi cái cửa là một quầy hàng hoá: vài chai rượu, bưởi, hoa quả khô. Cả quần áo, đung đưa trước gió như hồn ma những kẻ treo cổ. Phố dài vô tận ngỡ như không tới tận đầu cùng thế giới. Bà ngoại ta, nay đã chết, từng dắt ta qua đây, ta nhớ bà dắt đi mua một con quay. Con quay mà đứa con hàng xóm làm cho quay tít đã khiến ta rất thèm, nhưng người ta chỉ có thể mua loại đồ chơi này vào dịp Tết, Xuân tiết. Lúc thường các quầy hàng đặc biệt của cửa hàng bách hoá cũng không bán quay. Hai bà cháu đã phải đi đến miếu thành hoàng ở nam thành phố. Ở đấy có thể tìm thấy quay, ở đấy có diễn xiếc khỉ, múa võ và người ta bán cả cao da chó. Ta nhớ rằng qua miếu thành hoàng mua quay mới đi vào cái phố này; đã lâu rồi, ta không chơi với cái món xoàng xĩnh ấy nữa, thức đồ chơi càng ngày càng quay tít lên khi người ta càng quất dây vào nó. Nhưng trong cái phố này, không ai bán quay. Trong các giá hang hoá bày toàn những mặt hàng giống nhau, càng nhìn càng chỉ mất hứng. Ta thầm hỏi rút cục thì ai mua ở các cửa hiệu bách hoá này? Những thương nhân này là thật hay giả? Hoặc là họ có một công việc chính nào khác nữa? Y như kiểu vào năm trước, người ta dán lên cửa nhà những lời trích dẫn của Mao Chủ tịch để cho mặt tiền nhà mình có chút tư thế, thì nay bày ra các giá hàng cũng là như vậy.

Sau đó rẽ như thế nào không rõ, ta lại ra một phố to. Lần này các cửa hàng thương nghiệp quốc doanh ngược lại đều đóng cửa tất cả trong khi thương nhân thật sự vẫn mở cửa hàng và người vẫn đi lại ở trong phố. Dĩ nhiên, người ta để ý trước tiên đến các cô gái, môi son và giầy da cao gót dõ lốp cốp trên vỉa hè. họ mặc những bộ đồ bó sát người, màu sặc sỡ, hở vai và cổ. chúng được nhập vào từ Hồng Kông, nhờ vài sự buôn bán hay thậm trí buôn lậu. Có thể không phải tất cả các cô gái đều đi đến các hộp đêm, nhưng đều có vẻ như đến một cuộc hẹn.

Ở ngã tư, người còn đông hơn, tất cả thành phố hình như đổ ra đây. Họ đàng hoàng đi ở chính giữa đường phố bị xe cộ làm cho vắng tanh, tựa hồ cái đại lộ này đã được xây cất duy nhất giành cho họ. Nhìn không gian bị cái ngã tư này chiếm giữ và dáng dấp các căn nhà, ta tự hỏi phải chẳng ta đi tới Ngã Tư Lớn. Trung tâm các thành phố vùng cao nguyên thường được gọi như thế. Tuy vậy, do tương phản với cái phố buôn bán chật hẹp sáng choang ánh đèn, tủng tâm ngã tư có vẻ như chìm trong bóng tối. Mất điện hay người ta coi việc hạ cầu giao điện quên hạ lúc thay ca? Không thể biết. Để nhìn biển tên phố, ta phải đến gần một căn nhà có ánh sáng lọt ra.

Quả đúng đây là Ngã Tư Lớn, quảng trường trung tâm thành phố, nơi diễn ra cá lễ hội chính thức và các cuộc tuần hành.

Ta nghe thấy trong bóng tối vỉa hè tiếng người ta i i a a, tò mò đến gần thì phát hiện nhiều người đang ngồi chen sát nhau ở chân tường. Cúi xuống xem kỹ, ta nhận ta đó toàn là người già. Có đến cả trăm và không nhận ra đó toàn là người già. Có đến cả trăm và không có vẻ gì là đang tiến hành một cuộc biểu tình ngồi. Không chỉ cười nói mà còn hát. Một người cầm một cây nhị, dây lên sai, tiếng khàn đục. Vị nhạc sĩ già này trông giống một lão thợ đóng giầy đang đóng lại đế. Cạnh ông, một ông già dựa tường hát một bài nho nhỏ “Ngày năm canh”. Bài hát của một người đàn bà yêu say đắm chờ đợi người tình bội bạc. Hay là ở chỗ không chỉ có ông già mà còn cả các bà già, những cái bóng co vai rụt cổ. Tiếng các cụ bà ho vang to hơn. Tiếng ho như đi ra từ các hình nhân nho nhỏ hàng mà dùng trong tang lễ. Một số nhỏ nhẹ, u ở như nói mớ hay đúng hơn như chỉ cốt nói cho riêng họ thôi. Tuy vậy, những tiếng cười vẫn rộ lên theo. Lắng nghe, ta hiểu rằng một ông già đang tán một bà già: “Anh đang nhặt được bao nhiều củi trong núi, anh ơi?” “ Em ởi, chính bàn tay em đây đã thêu được bao nhiêu chiếc giầy hoa?” Họ hỏi đáp nhau như trong các bài hát đối miền núi. Chắc hộ tranh thủ bóng đêm để biến cái Ngã Tư Lớn này thành một sân hát giống như những cái sân họ thưỡng vẫn lui tới lúc trẻ. Cũng có thể họ đã tỏ tình với nhau ở tại đây. Không chỉ đôi ba người già hát tình ca, người chuyện gẫu cười đùa cang nhiều hơn. Ta không hiểu họ nói gì và có cái gì mà họ vui như thế? Tiếng huýt gió phát ra từ hai hàng lợi móm mém của họ chỉ có thể hiểu được ở giữa họ với nhau. Ta ngỡ mơ nhưng ta quan sát thì những người quanh ta ở đây đều đang thật sự sống rõ ràng. Ta tự cấu đùi qua quần, vẫn là cái đau quen thuộc. Tất cả là thực tại: ta đến vùng cao nguyên này, chỵa xuống phương Nam và mai sẽ đáp chuyến xe đường dài đầu tiên của buổi sáng mai để xuống Hoàng Quả Thụ ở dưới phái nam. Ở dưới ấy, trong các thác nước, ta sẽ rửa sạch khỏi người ta các ấn tượng kỳ lạ này, cái hoàn cảnh này và bản thân ra, tất cả đều là thực tại, không thể nào hồ nghi được.

Trên đường tới các thác nước ở Hoàng Quả Thụ, ta qua trước hết Long Quan. Một du thuyền nho nhỏ sơn nhiều màu sắc trôi trên mặt nước phẳng như một tấm gương mà chiều sâu thì không thể dò nổi. Chẳng nghĩ ngợi, hành khách giành nhau hang nằm ở bên vách đá dựng đứng u tối. Khi con thuyền đến gần đó, mặt nước nhẫn mịn bắt đầu gầm rú chảy xuống không tài nào cưỡng lại được, chỉ có vòng tới chỗ ra cửa cảnh nước hú rít ở dưới chân núi này thì mới hiểu được là nguy hiểm đến thế nào. Đôi khi con thuyền lại gần cái hang có ba bốn mét, như là cho một lần du hí cuối cùng trước khi nàho vào một bất hạnh đã định. Tất cả diến ra dưới ánh mặt trời. Khi ngồi trên thuyền, ta không thể ngăn ta nghi ngờ thực tại này.

Dọc đường, con thác phồng nở hung dữ cuộn đi những dòng nước ngầu bọt, những quả núi tròn và bầu trời rực rỡ thì chói loá, những mái nhà bằng đá phẳng bẹt lấp lánh trong nắng, các đường viền hiện rõ như một loạt tranh tô màu xẽ bằng những nét bút thành tao. Ngồi trong xe xa lắc lư hết tốc độ trên đường, ta nhận thấy một cảm giác không trong lượng, toàn bộ cơ thể ta như đang lượn. Ta không biết rồi ta sẽ trôi lượng đến đâu? Cũng không biết ta đang kiếm tìm gì?

23

Mi nói vi vừa mới mơ xong. Nàng nói đúng thế, mới đây thôi, nàng còn nói với mi, mi có vẻ như chưa ngủ hẳn mà, nàng nói nàng vuốt ve mi và trong khí mi nằm mơ, nàng đã sờ mạch mi, chỉ mới một chút đây thôi. Mi nói đúng đấy, tất cả còn rõ mà, mi cảm thấy vú nàng êm dịu, bụng nàng thở. Nàng nói nàng ôm mi, nàng đã sờ mạch mi. Mi nói mi đã thấy bề mặt đen ngòm của biển dâng cao, cái bề mặt hoàn toàn phẳng lặng đã từ từ nâng lên, không sao cưỡng lại được. Bị ép lại, đường chân trời biến mất và cái bề mặt đen ngòm đã chiếm đi hết tất cả không gian, Nàng nói mi đã ngủ, dính vào ngực nàng. Mi nói mi đã thấy vú nàng trương lên, như một thuỷ triều đen ngòm, con nước trào dâng giống như một dục vọng đang phồng nở ngày một mạnh; nó sắp nuốt chửng mi, mi nói mi đã cảm thấy như mộ thứ lo âu. Nàng nói mi đã ở trên ngực nàng như một đứa bé ngoan, chỉ có mạch của mi đập gấp lên thôi. Mi nói mi đã cảm thấy một kiểu đè nến, cơn thuỷ triều dâng lên và lan rộng không thể nào ngăn giữ kia đã trở thành một bề mặt phẳng mênh mông đổ kăn về mi, không một gợn sóng, nhẵn và trơn tuột như dải lụa đen xoà vô tân, nó chảy loang, không có gì để giữ nó lại rồi nó lại biến thành một thác nước đen rơi từ một điểm vô hình ở rất cao xuống một cái vực không thể dò thấy đáy, tuyệt không một lồi lõm nhỏ nhặt nào trên đường nó chảy đi. Nàng nói: anh thật là ngố, để cho em ve vuốt anh nào. Mi nói mi đã thấy cái đại dương đen ngoàm với những cơn sóng lăn đổ áo ào của nói kia, cái bề mặt tự nhấc lên để chiếm lấy tất cả không gian và không chịu dừng lại kia. Anh đang ở trên ngực em, nàng nói, em đang ôm anh vào tay đây mà, với mùi thơm dìu dịu này ở em đây. Mi nói không phải. Nàng nói có phải, thì em đang ôm anh đây, đang sờ mạch của anh đây, mạch mỗi lúc một đập mạnh đây. Mi nói rằng trong các con sóng đen tung toé kia, một con lươn ẩm ướt và trơn như ánh chớp đang bơi, nhưng ngay lập tức nó đã bị con sóng đen ngòm nuốt chửng. Nàng nói nàng có thấy con lươn ấy, nàng đã cảm thấy nó. Sau đó, khi con sóng đi qua, chỉ còn lại bãi đá không giới hạn, bề mặt phẳng tràn những hạt cát thuỷ triều rút rồi, chỉ còn lại những bọt thì mi đã thấy nhưng thân người đen đủi, quỳ gối, bò trườn, vặn vẹo, quấn xoắn lấy nhau, đảy nhau ra rồi lại cuộn níu lại với nhau, đối đầu nhau im lặng tuyệt đối trên bãi biển mênh mông, cũng không tiếng gió, họ trộn lẫn vào nhau, ngóc lên, ngã xuống, đầu và cẳng, tay và chân hào lộn vào nhau không thể phân biệt được, Người ta sẽ bảo là những voi biển, nhưng hoàn toàn không như thể, họ lăn lộn, ngóc lên, ngã xuống, lại lăn, lại ngóc lên, lại ngã xuống. Nàng nói rằng nàng cảm thấy mi, sau một phen thon thót đập dữ dội, mạch lại đã dịu đi, lại dội đập lại, nàng đều cảm thấy. Mi nói mi đã thấy những thú biểm mang dáng người hay những thân người mang dáng thú biển, những thân đen sì, nhẵn, hơi sang sáng, như một miếng lụa đen, như một lớp lông dầy bóng nhẫy, chúng quẳn quại và lại ngã xuống ngay sau khi vừa đứng lại lên, lăn lộn không ngừng, cuộn quấn vào nhau không thể gỡ tách, không thể rõ là đánh nhau hay giết nhau, không một tiếng động, không một âm vang, mi đã nhìn rõ trên bãi đá vắng tanh này, không một gợn gió, đằng xa những thân hình ấy đang lăn lộn, đang uốn éo trong im lặng tuyệt đối. Nàng nói đó là mạch của mi. Sau nhiều lần thon thót đập dữ dội, nó đã dịu lại rồi đập mạnh hơn và lại dịu lại. Mi nói mi đã nhìn thấy các thân hình nhặn và đen của giống vật biển mang dáng vẻ người kia hay những thân người mang dáng dấp giống vật kia, sáng lên một ánh sáng nho nhỏ, như lạu đen, như lớp lông dầy và bóng nhãy, chúng vặn vẹo, lăn lộn, cuộn quấn vào nhau không thể gỡ tách, chẳng hề bao giờ ngừng, thong thả, bình thản, đánh nhau hay giết lẫn nhau, mi đã nhìn thấy chúng rất rõ trên bãi đá bất động xa xa, ma đã nhìn thầy chũng lăn lộn rất rõ. Nang nói mi đặt đầu mi lên người nàng, như một đứa bé ngoan, người mi đầy mồ hôi. Mi nói mi vừa mới mơ xong, nằm trên nàng. Nàng nói mới đã nhìn thấy biển, mi cũng nhìn thấy mặt biển đen ngòm nâng lên rồi chảy đi từ từ, không thể cưỡng lại, mi cảm thấy một thứ lo sợ. Nàng nói mi là một đứa bé ngớ ngẩn, mi chẳng hiểu cái gì hết. Nhưng mi nói mi đã nhìn thấy tất cả rất rõ, rành mạch, nó trào lăn đi như thế này, nó chiếm hết không gian, cái con sóng đen dũng mãnh, không giới hạn trào lăn đi không thể ngăn giữ lại, không một tiếng độngm nhẵn như lụa đén xoà mở, nó chảy như một thác nước, cũng màu đen, chẳng có một tí lồi lõm nào, chẳng có sóng bọt ngầu, nhào vào trong một cái vực không thể dò thấy đáy, mi đã nhìn thấy tất cả. Nàng nói nàng ôm mi vào ngực, lưng mi đầy mồ hôi. Bức tường đen dựng đứng và trơn kia tuôn chảy đã làm cho mi lo sợ, mi miễn cưỡng nhắm mắt lại, mi tiếp tục cảm thấy sự hiện diện của nó, nhưng mi cứ để cho nó tuôn chảy không thể kìm được nó, mi đã thấy tất cả, nhưng mi chẳng thấy cái gì, cái biển trành nghiêng kia, mi chìm, mi lại nổi lên mặt nước, những con vật đen sì, đánh nhau hay giết nhau, vặn vẹo không ngừng trên bãi đã vắng tanh và không có gió. Nàng đã để đầu mi vào ngực nàng, mi giư các chi tiết cỏn con kia hằn khắc vào trí nhớ mi nhưng mi không thể nhắc lại được chúng. Nàng nói lại muốn sờ mạch mi, nàng muốn thế, nàng cũng muốn cả các con thú mang mặt người đang vặn vẹo kia, trận đấu im lìm kia, như một cuộc giết chóc, quấn quít vào nhau không thể nào gỡ tách ra, chúng di chuyển trên bãi biển phẳng tràn, những hạt cát tí xíu, chỉ còn lại nhưng bọt bong bóng, nàng muốn cái ấy, nàng còn muốn cái ấy nữa. Khi con nước triều đen kia đã rút đi rồi, trên bãi biển còn lại cái gì đây?

24

Đó là chiếc mặt nạ trổ vào gỗ của con vật mang mặt người, ở bên hai cái sừng trên đỉnh đầu còn có hai cái sừng nhọn nhỏ hơn. Vậy thì không thể là thể hiện bò hay cừu gia súc. Chắc phải là một thú dữ vì cái mặt kỳ lạ và ma quái này không có vẻ dịu hiền của một con hươu. Ở chỗ mắt, hai cái hố tròn trống hoác có một đường gờ nổi viền quanh. Dưới mỗi lông mày, một hõm sâu. Trấn nhọn, những hoạ tiết chạm trổ trên lông mày làm nổi rõ hai hố mắt. Con mắt liền đe doạ đối phương ngay giống như mắt thú dữ lúc xông vào con người.

Trong hố mắt lồi đen ngòm, đồng tử của kẻ mang mặt nạ này chắc phải phóng ra những ánh chớp như cái nhìn của một thú dữ. Hai hình lưỡi liềm, nhọn hai đầu, khớt rỗng dưới hai con mắt, cho thêm vẻ tàn ác vào cái nhìn. Mũi miệng, gò má, và quai hàm dưới được vẽ hoàn hảo, một cái miệng móm mém của ông già, cái lõm ở chính giữa cằm cũng không bị bỏ quên. Da khô quắt, gò má nhỏ. Nét khắc rõ khoẻ. Đó không chỉ là mặt một ông già mà còn toát ra một thứ tinh thần cương nghị. Ở hai khoé mép trổ nổi hai răng nanh sắc nhọn cong ngược mãi lên hai cánh mũi. Hai lỗ mũi tẹt, mang một ý vị chế nhạo và khinh bỉ. Răng đều rụng không phải vì già mà vì người ta đã thay vào chỗ của chúng những cái nanh. Ở góc hai môi mím lại, hai lỗ nho nhỏ đã được khoát chắc là để cho râu cọp thòi ở đấy ra. Bộ mặt người này đã thông minh đồng thời cũng mang đậm dấu ấn mông muội của thú vật.

Quan sát cánh mũi, khoé miệng, môi, gò má, trán, ấn đường cho thấy người thợ ạc đã phải hiểu biết tường tận hình thái học của xương và các cơ mặt người. Duy nhất hai hố mắt và sừng trên đầu là được cường điệu còn nét vẽ các cơ bắp của mặt đã tạo nên một thứ căng thẳng. Không cắm râu cọp, đây có thể là mặt của người nguyên thuỷ xăm hình mà sự nhận hiểu bản thân và tự nhiên đều được chưa đựng hoàn toàn trong các lỗ đen ngòm của những hố mắt tròn xoe của nó. Hai lỗ ở khoé môi thể hiện sự miệt thị của tự nhiên đối với con người đồng thời cà sự kính nể của con người đối với tự nhiên. Bộ mặt này cũng phản ánh hoàn hảo nỗi sợ của con người đối với cái tính thú vật với đồng loại và của bản thân hắn.

Con người hết cách gạt bỏ cái mặt nạ này. Nó là phòng chiếu của nhục thể và linh hồn của con người. Con người sẽ không gỡ xuống được ở chính mặt mình cái mặt nạ đã mọc lên y như là da thịt này và vậy là hắn toàn sống trong kinh ngạc, tựa hồ không tin cái này lại là của chính hắn mà nó lại thật sự là chính bản thân hắn. Không có cách nào gỡ đi cái mặt nạ này, hắn đau khổ hết chịu nổi. Nhưng cái làm nên mặt của hắn, một khi hiện ra thì càng không thể xoá sạch, vì nó vốn dĩ ỷ vào hắn, nó không có ý chí của nó hoặc giả nó mong có ý chí mà không có cách mưu cầu thực hiện thì ngược lại cũng bằng là không có ý chí, nó bèn để lại cho hắn cái bộ mặt vĩnh viễn ngạc nhiên quan sát hắn này.

Đây thực sự là một kiệt tác. Ta đã tìm thấy nó trong đống triển lãm phẩm ở bảo tàng tại Quý Dương. Lúc đó, nhà bảo tàng đang đóng cửa để tu sửa. Nhờ bạn bè giúp ta lấy giấy giới thiệu rồi lại phiền người quen gọi điện thoại mượn lý do này lý do kia vì ta, ta đã làm kinh động đến viện phó nhà bảo tàng, một người tốt bụng, béo ú, luôn có tách trà trong tay. Ta nghĩ chắc nay ông đã cáo lão về hưu rồi. Ông đã cho mở hai gian lưu trữ và cho phép ta đi dạo giữa các giá để đầy những đồ đồng, vũ khí và mọi loại gốm. Dĩ nhiên là tuyệt đẹp rồi nhưng ra không tìm được ra ở đấy một thứ gì có thể lưu lại ở ta một kỉ niệm bất diệt. Tranh thủ lòng độ lượng của ông, ta đã quay trở lại đó. Ông thổ lộ với ta rằng hai gian lưu trữ của ông đã quá tại và thực tế ông không hiểu lắm rằng ta muốn xem cái gì. Tốt hơn cả là ông để cho ta một bảng liệt kê trong đó mỗi vật ở bảo tàng đều có kèm theo một bức ảnh. Cuối cùng ta đã tìm thấy chiếc mặt nạ nuo[16] trong các đồ vật tôn giáo mê tín được xếp hạng này. Ông giải thích cho ta rằng cá thứ này vẫn luôn cất kín, chưa từng bao giờ trưng bày, rằng ta thật tình muốn xem chúng thì trước hết ta phải làm một số thủ tục. Khi ta trở lại lần thứ ba, người bảo tồn tốt bụng đã sai đưa lên một hòm lớn cho ta. Khi ông lần lượt lấy ra từng chiếc mặt nạ một, ta đã đứng há hốc miệng.

Tổng cộng có khoảng hai chục mặt nạ bị công an tịch thu đầu những năm năm mươi như là đồ vật mê tín. Ta thầm hỏi ai đã làm được cái việc tốt lành như thế, bởi vì như vậy chúng ta đã không bị lấy làm củi đun mà cháy sạch sành sanh cả rồi, trái lại được đưa vào nhà bảo tàng, ẩn tr ánh được qua sự cướp phá của cách mạng văn hoá. Theo wocs đoán cảu nhà khảo cổ ở nhà bảo tàng này, đây là những chế tác cuối đời Thanh. Màu sắc trên mặt nạ đã bong gần hết, những vệt sơn then còn sót đã say xỉn đen lại, mất đi độ nhẵn bóng. Trên các phích có ghi nơi đến của chúng: huyện Hoàng Bình và Thiên Trụ ở thượng lưu sông Vũ Thuỷ và Thanh Thuỷ, một vùng đất người Hán, người Mèo, người Đồng, người Thổ gia cùng tạp cư. Thế là sau đó ta đi đến các nơi này.

25

Trong ánh sáng vàng da cam của buổi sáng, các mầu sắc cảu núi non thuần khiết và tươi tắn, khong khí trong lành, quang quẻ, mi không có vẻ như đã thức trắng một đêm, mi ghì chặt bờ vai mêm dịu, đầu nàng tựa vào mi. Mi không biết nàng có phải là cô gái mi đã mê thấy đêm qua không, mi không phân biệt được các cô gái nào thực tại hơn trong hai cô. Lúc này mi chỉ biết nàng có đi theo mi ngoan ngoãn, chẳng thể hề bận tâm xem rút cục mi muốn đi đến đâu nữa.

Thuận theo con đường núi này, tới đỉnh dốc, mi không ngờ lại đến một bình nguyên, tầng tầng ruộng bậc thang tiếp nhau trải đến vô tận. Hai cây cột đá dựng lên ở giữa các thửa ruộng chắc là một cái cổng đá từ ngày xưa. Những mảnh vỡ của sư tử đá, trống đá nằm rải rác hai bên. Mi nói ngày xưa một dòng họ có tên tuổi lớn sống ở đây. Một khi qua cổng sẽ thấy những cái sân nối tiếp những cái sân. Toà dinh cơ phải dài đến một dặm nhưng bây giờ đều là ruộng.

Tất cả đã bị đốt cháy hết khi quân Thái Bình thiên quốc nổi lên rồi kéo đến thị trấn Ô Y phải không? Nàng hỏi.

Mi nói vụ hoả hoạn xảy ra muộn hơn sau này. Ngày xưa, lão nhị gia, cháu nội của người con trai cả của dòng họ này là một ông quan to trong triều. Được bổ làm thượng thư bộ Hình, ông đã dính líu vào một vụ buôn muối. Trong thực tế, đúng ra thì đừng khẳng định rằng ông đã vi phạm pháp luật vì ăn hối lộ, mà nói chính xác ra là Hoàng đế, trong sự xuẩn ngốc của mình, đã tin vào những lời buộc tội sai cảu các hoạn quan. Hoàng đế nghi ông đã nhúng vào một âm mưu được họ hàng Hoàng hậu ngấm ngầm bố trí để chiếm ngôi vua; tiếp theo đó là tịch thu toàn bộ tài sản của ông, chặt đầu toàn thể các thành viên của dòng họ ông. Trong ba trăm người sống ở cơ ngời mênh mông này, tất cả đàn ông, đến cả trẻ con, dưới một tuổi đều bị giết, đàn bà thì bị đem cho làm tôi tớ. Thật sự cái mà người ta gọi là tiệt giống là như thế. Làm sao mà cái dinh cơ này lại không bị san bằng chứ nhỉ?

Mi cũng có thể kẻ khác đi câu chuyện. Xem con rùa đá đen, vỡ một nửa nhô lên khỏ đất kia, những cái cổng kia, những trống và sư tử đá kia như một quần thể kiến trúc thì chỗ này ngày xưa không phải một dinh cơ mà đúgn hơn phải là một ngôi mộ. Rõ ràng với lối đi dài một dặm của nó, ngôi mộ này phải đã từng rất oai vệ bề thế nhưng cái đó bây giờ khó mà khảo chứng được. Tấm bia dựng trên lưng con rùa lúc cải cách ruộng đất đã bị một nông dân mang đi biến nó thành cái cối xay, các bệ đế khác thì một là trọng lượng của chúng không cho phép người ta tha đi đến chỗ cần dùng, hai là việc tha đi đòi hỏi quá nhiều nhân công di chuyển do chúng vẫn bị vùi sâu. Nói đến cái mộ này thì rõ ràng một người dân thường không thể được vào chôn ở đây, ngay cả hào lý sở tại cũng đâu dám tự ý dành lấy một sự sang trọng đến thế này cho dù hắn sở hữu bao nhiều ruộng đất. Trừ phi là vương công đại thần.

Đúng thế, người mà mi nói đến chính là một khai quốc công thần từng theo cuộc nổi dậy của Chu Nguyên Chương đánh đuổi bọn Tác-ta, nhưng công thần giành được thiên hạ phần lớn lại thường không được hưởng cái chết tử tế. Chỉ những ai bản lĩnh phi thường mới có thể chết ở trên giường mà vẫn hương tang lễ hậu. Rõ ràng người chủ tương lai của ngôi mộ này đã chứng kiến các lão tướng bên người Hoằng đế lần lượt theo nhau bị giết. Thế là nỗi sợ dày vò sáng tối, cuối cùng ông đã dâng lên Hoàng đế biểu từ qun. “Ngày nay đất nước đã hoà bình, dân chúng đã yên vui, ông viết, ân lộc của hoàng Thượng với tôi là mênh mông, văn thần vũ tướng chen vai thích cánh đầy triều hiện nay, còn vị thần bất tài, tuổi lại quá nửa trăm, ở nhà mẹ già cô quả một đời, lao lực sinh bệnh, thần trước mặt không còn được bao năm nữa cho nên cúi xin được troe mũ mũ về quê hầu hạ mẹ già”. Khi bức biểu từ quan đến tay Hoàng Thượng, ông đã ra khỏi kinh thành. Không thể không một phen luyến tiếc, Hoàng thượng dĩ nhiên đã ban thưởng cho ông rất hậu. Ngoài ra, Hoàng thượng còn hạ cố tự tay phê một chiếu thư cho ông được quyền chôn trong một ngôi mộ lớn sau khi chết để cho hậu thế đời đời xưng tụng công đức của ông.

Câu chuyện này còn có một cách kể khác xa với những gì ghi trong các sách sử mà gần hơn với bút ký, tiểu thuyết. Theo cách này thì khi người chủ mộ thấy Hoàng Thượng lấy danh nghĩa “ chỉnh đốn triều chính” loại bỏ các bậc nguyên lão, ông đã nại cớ chịu tang bố để rời bỏ nhiệm sở trốn về quê. Sau đó, ông còn giả điên giả dại, không gặp ai nữa. Hoàng thượng ngờ. Ngài phái cẩm y vệ vượt núi băng rừng đến nhà ông, chỉ thấy cửa đóng, bèn mượn thế tuyên độc chiếu chỉ mà đột nhập vào nhà. Nào hay ông chủ từ nhà trong bò ra sủa như chó? Sứ giả chưa tin, bèn nhân danh Hoàng thượng lệnh cho ông mặc quần vào hồi kinh. Ông ta lại đến hít hít đống cứt chó ở góc tường rồi vừa nuốt chửng cứt chó vừa gật gật đầu. Cẩm y vệ chỉ còn cách về triều tâu sự tình lên Hoàng Thượng, các mối nghi ngờ của Ngài lập tức tiêu tan. Sau khi người kia chết, Hoàng thượng cho ông được hậu táng. Thật ra đống cứt chó là do người hầu gái sủng ái của ông làm bằng đường trộn với vừng. Nhưng làm sao mà Hoàng thượng Ngài biết được việc đó?

Ở đây cũng có một nho sĩ làng quê một dạ mưu tìm công danh. Quá nửa đời chui rúc lều thi, vào tuổi năm mươi, trúng được bảng nhãn vi danh, ông nóng lòng chờ đợi từng ngày được bổ làm một chức quan. Ai có thể nghĩ rằng con gái ông chưa chồng lại đầu màu cuối mắt cới người anh rể nó rồi có chửa. Con bé ngu xuẩn đã tưởng ngưu hoàng có thể làm xảy được thai, thế là đau bụng kéo dài hai tháng, người gầy đi từng ngày trong khi bụng lại cứ dần dần to ra. Cuối cùng gia đình phát hiện, bố mẹ cô gái lập tức bấn loạn. Để cứu vớt thành danh, ông bố bắt chức phương pháp Hoàng Thượng dùng với các loạn thần nghịch tử bằng cách bức tử. Ông không ngần ngại giam con gái làm bại hoại gia phong vào trong một quan tài bằng ván. Vụ này lan truyền đi nhanh chóng và đến tận huyện lỵ. Luôn sợ bị mất cái mũ quna, huyển trưởng, người đã từng bị tai tiếng vì những việc làm kém chính thống phổ biến ở vùng này, bèn cho nêu một tấm gườn, đã chuyển đạt vụ này lên tổng đốc và chính tổng đốc nơi đó cũng chuyển đạt lên triều đình.

Ôm ấp ái phi, Hoàng Thượng từ lâu đã bỏ bễ công việc trong triều, nhưng một hôm buồn tưởng chết, nagì bèn tìm hiểu dân tình. Các bộ lúc đó bèn “báo cáo” câu chuyện gương mẫu này và ngài không tránh khỏi phải thở dài vì ngài là một người có lương tri. “Đây là một gia đình rất biết lễ tiết”, ngài phán. Những lời này lập tức trở thành chỉ dụ của hoàng thượng và được tống đạt đến dinh tổng đốc. Ở đây, quan tổng đốc đã phên thêm: chỉ dụ này phải được lập tức khắc lên một thẻ bài và loan báo không chậm trễ trong toàn thể dân chúng. Sau đó nó được hoả tốc truyền xuống lỵ sở cảu huyện. Viên tri huyện không do dự lên một cái kiệu có sai nha hộ tống, vừa gõ chiêng vừa hò hét để hai bên đường tránh xa. Rồi khi quỳ sụp để nhận chỉ dụ của hoàng Thượng ban xuống, viên nho sĩ gì thối nát kia lại không rơi được những giọt nước mắt biết ơn sao? Tri huyện đã căn dặn nghiêm khắc lão: “Chỉ dụ thiên tử ban xuống đáng giá hơn một nghìn lượng vàng. Hãy dựng ngay một cổng chào danh dự và cho khắc chỉ dụ này để không bao giờ quên nó. Sự kiện tuyệt vời này sẽ mang lại vẻ vang cho tổ tiên ông và làm cho đất trời cảm kích!” Ông già vay hàng chục nghìn cân gạo và thuê thợ đá và lão trông nom công việc đêm ngày. Hết sáu năm, cổng chào chạm trổ tỉ mỉ đã được hoàn thành trước ngày Đông chí. Để khánh thành nó, lão già mở một tiệc lớn mời tất cả dân bang láng giềng đến và cuối năm lão già tính sổ. Lão còn mắc nợ bốn mươi lượng bạc và một trăm sáu mươi đồng tiền vàng. Cuối sùng lão trúng cảm mạo và ngã bệnh. Lão không hồi phục được sức khoẻ nữa, chết trước vụ gieo cấy mùa xuân.

Cổng chào kỷ niệm vẫn dựng lên ở cửa đông làng, trẻ chăn trâu lười biếng toàn dùng nó để buộc trâu bò. Chỉ có điều dòng chữ chạy ngang giữa hai cột không hợp với chủ tịch Uỷ ban cách mạng huyện khi ông ta đến thị sát các vùng nông thôn này, ông đã ra lệnh cho bí thư của làng thay nó bằng khẩu hiệu “Nông nghiệp học tập Đại Trại”. Hai hàng câu đối của một cổng: “Trung thành, hiếu thảo truyền từ bố đến con dâu”. “Thi kinh, Thư Kinh kế tiếp trong thế gian bền” bèn thay bằng “Canh tác vì cách mạng, chí công vô tư”. Thời ấy, ai mà biết được môt hình Đại Trại sau lại hoá thành mô hình rỏm, ruộng đất lại được trở về tay nông dân? Bay giờ, cá nhân càng lao động càng giàu, chẳng còn ai hiểu được nghĩa các khẩu hiệu ngày xưa này nữa. Ngoài ra con cái nhà này tinh không khoẻ mạnh chạy đi buôn bán đều phát tài cả, còn người nào trong đám họ nhàn cái tâm mà trở về thay các châm ngôn kia đây?

Sau cổng chào, một bà già ngồi trước cửa văn nhà đầu tiên, cầm các chày nghiền cái gì đó trong một cái cối gỗ. Cạnh bè, con chó vàng hít hít đánh hơi khắp chung quanh. Bà già giơ chày lên hầm hầm chửi: “Cút đi, biến!”

Nhưng mi, đâu có phải là chó, cứ thế tiến lên hỏi bà lão:

- Bà lão ơi bà làm đậu phụ cay đấy phải không?

Chẳng ừ chẳng không, bà ta liếc mi một cái rồi lại cúi xuống nghiền ớt tươi.

- Cháu xin lỗi, ở đây có một nơi đến nào gọi là Linh Nham không bà?

Mi biết hỏi bà lão về một cái cao xa như Linh Sơn là uổng công, mi nói với bà lão rằng mi từ cái làng ở dưới kia, thấp hơn, làng họ Mộng đến đây, có người bảo mi về một làng Linh Nham nào đó ở đàng trước đây.

Lúc này bà ta mới ngừng việc, xem một cái, đặc biệt xem cô gái của mi trước hết, rồi quay lại hỏi mi:

- Anh chị đi cầu tự phải không? Hỏi rất tò mò.

Bà ta giơ tay lên kéo mi nhưng mi ngu lâu lại hỏi:

- Linh Nham với cầu tự thì có quan hệ gì?

- Sao lại không quan hệ? Bà lão the thé kêu lên.

Đều là đàn bà đến đấy. Không có con trai mới đến đấy thắp hương.

Bà ta bắt đầu cười lục cục, như có người cù.

- Thế nhà chị này muốn có con trai ư?

Lạnh lùng, bà lão xồng xộc đi đến phía nàng.

Mi nói với bà ta:

- Chúng tôi đi du lịch, đâu cũng muốn xem một ít.

- Nhà quê thì có cái gì hay mà xem? Mấy hôm vừa qua cũng thế, nhiều cặp từ thành phố đến lắm, làm chó của hay gà bay, nháo nhác cả cái làng này lên.

Mi không thể không hỏi:

- Họ đến làm gì?

- Xách một cái hộp điện, cứ oe oé như quỷ khóc, sói tru váng cả trong núi lên. Ôm nhau, vặn đít, ở tại sân phơi kia kìa, thật là xấu hổ.

- A, thế ra họ cũng tìm Linh Sơn?

Mi càng thấy quan tâm hơn.

- Cái Linh Sơn có ma có quỷ của nhà anh ấy! Tôi đã bảo anh đấy là nơi đàn bà muốn cầu tự thì đến thắp hương rồi mà lại.

- Tại sao đàn ông không đến được?

- Nêu không sợ xúi quẩy thì anh đến được đấy. Nhà chị này ngăn anh đi hả?

Bà ta lại giật giật tay mi nhưng mi vẫn không hiểu.

- Anh mà đến đấy thì sẽ bị máu nó vãi tung toé lên người anh đấy.

Mi không hiểu bà già mách mi hay rủa mi hãy cẩn thận.

- Bà lão bảo đàn ông đến đấy là kỵ.

Nàng muốn lui hộ cho mi.

- Em hãy bảo là chẳng có cấm có kỵ gì cả.

- Bà ấy nói máu tháng của phụ nữ đấy, nàng nói khẽ vào tai mi, nhắc mi mau bỏ đi.

- Máu tháng thì làm sao?

Mi nói máu cho mi cũng kệ.

- Cứ đi, đi xem cuối cùng Linh Nham ra thế nào.

Nàng nói thôi, thôi. Lại nói nàng không thích đi đến đấy. Mi hỏi nàng sợ cái gì, nàng nói sợ lời lẽ bà già.

- Sao lại lắm phép tắc như thế chứ? Nào đi! Mi bảo nàng.

Mi hỏi bà già đường đi.

- Không hay đâu, các người sẽ kéo ma kéo quỷ tìm tới đấy.

Bà già ở sau lưng mi. Lần này rõ là lời rủa.

Nàng nói nàng sợ, nàng như có linh cảm không hay. Mi có phải nàng sợ gặp phải một đồng cô không? Mi còn nói thêm rằng ở các làng miền núi này, các bà già đều là đồng cô, còn gần như con gái trẻ đều là hồ ly tinh.

- Như vậy là có cả em nữa? Nàng hỏi mi.

- Sao không chứ? Em chẳng phải là đàn bà sao?

- Thế thì anh, anh là ma quỷ! Nàng trả miếng.

- Trong mắt đàn bà, đàn ông đều là ma quỷ hết.

- Vậy là em đang ở với một ma quỷ đấy ử? Nàng ngửng đầu nhìn mi hỏi.

Ma quỷ dẫn yêu tinh đi, mi nói.

Nàng cười khanh khách. Nhưng lại van mi đừng đi đến đó.

- Đi thì xảy ra chuyện gì? Mi dừng lại hỏi. Sẽ gặp phải bất hạnh sao? Gặp phải tai hoạ à? Có gì mà sợ chứ nhỉ?

Nép vào mi nàng nói chỉ cần ở bên mi là nàng yên tâm nhưng mi quan sát thấy một bóng tối ở trong nàng. Mi cố xua tan nó đi, cố ý nói to lên với nàng.

--------------

[16] Đọc theo âm Việt nua, nghĩa là nặc, mặt nạ.

Người gõ: rinshou; o0AmI0o; yatrau; Lize; quang284; quyenthoai; picicrazy; xiaoquiao2711
Nguồn: e-thuvien
Được bạn: Mọt sách đưa lên
vào ngày: 5 tháng 12 năm 2011