← Quay lại trang sách

Chương 6 26

Chương 6

26

a không biết là mi đã bao giờ nghĩ đến cái điều lạ lùng này chưa, ấy là cái tôi. Ta càng quan sát nó, nó càng thay đổi, như khi nằm trong cỏ, bạn nhìn đăm đăm vào mây trên trời. Thoạt đầu nó giống như một con lạc đà, rồi một người đàn bà, cuối cùng hóa thành một cụ già râu dài. Nhưng không cái gì là cố định cả, vì trong nháy mắt chúng đã thay hình đổi dạng.

Thì nói chẳng hạn vào nhà vệ sinh ở một căn hộ cũ kỹ đi, ở đó các bức tường bị nước vấy bẩn, hàng ngày mi vào nhà vệ sinh, các vết nước lưu niên kia đều có sự thay đổi. Lúc đầu, mi thấy nó giống một mặt người, rồi một con chó chết, lòng ruột xổ tung ra. Lần sau, nó thành một cái cây có một đứa bé gái cưỡi một con ngựa gầy còm ở bên dưới. Mười hay mười lăm ngày sau, có thể nhiều tháng sau, một sáng nọ, thình lình mi phát hiện ra thấy những vệt nước kia lại mang hình một mặt người.

Nằm trên giường mi nhìn trần nhà. Do ánh đèn chiếu vào, cái trần nhà trắng cũng có thể xảy ra những biến hóa. Mi chỉ cần tập trung xem kỹ vào cái tôi của mi, mi sẽ thấy cái tôi này của mi nó đang đi xa dần ra khỏi cái hình dạng mà mi quen thuộc, nó sẽ mang nhiều bộ mặt khiến cho ta kinh dị. Thế cho nên ta sẽ không thể không hãi hùng, nếu như ta phải diễn tả tóm tắt bản chất chủ yếu của chính ta. Ta không hiểu trong nhiều bộ mặt của ta, cái nào nó tiêu biểu cho ta hơn cả, ta càng quan sát chúng, các biến hóa lại càng rõ rệt hơn lên.

Mi cũng có thể chờ, chờ cho các vệt nước trở lại hình thù ban đầu, một mặt người, và mi cũng có thể hy vọng, hy vọng một ngày nào đó nó sẽ sinh ra một hình thù nào đó. Nhưng kinh nghiệm cho ta thấy rằng thời gian càng trôi đi, hình ảnh kia càng ít biến hóa theo ý mi mà hoàn toàn trái lại, nó thường trở thành một cái quái thai mi không thể chấp nhận, nó bung ra mà xét cho cùng nó lại là thoát thai ra từ cái tôi của mi, mi không thể chấp nhận.

Một hôm, ta chú ý tới bức ảnh dán trên thẻ xe tháng của ta ở trên bàn. Mới đầu ta cảm thấy cái mỉm cười này là mong cầu cho mọi người vui vẻ nhưng sau lại thấy đúng ra là nó mỉa mai, hơi đắc ý, hơi lạnh, đẻ ra từ lòng tự yêu mình, tự thưởng thức, tự cho mình cao hơn hẳn mọi người. Kỳ thật lại có một thứ sầu não để lộ le lói ra nỗi cô đơn, rồi lại có một thứ sợ hãi bất an vụt lóe ra chứ không phải là vẻ một kẻ ưu đẳng thắng cuộc, một thứ chua chát nữa.Đương nhiên không có được nụ cười thông thường đẻ ra từ hạnh phúc hồn nhiên mà lại nghi ngờ hạnh phúc đó. Cái đó trở thành đáng sợ thậm chí vô dung, hư vô, một cảm giác rơi xuống mãi không tới đáy, thế là ta bèn chẳng thiết cả nhìn lại vào cái bức ảnh đó nữa.

Sau đó ta đi quan sát người khác, khi quan sát họ, ta phát hiện thấy cái tôi đáng ghét và ló mặt ra ở khắp nơi kia cũng đã lại xen cả vào đây rồi, nó không để cho một bộ mặt nào mà không bị nó can thiệp khi ta quan sát, cái này thật là ngán hết sức. Khi ta quan sát kẻ khác, ta vẫn tiếp tục quan sát bản thân ta. Ta tìm kiếm các bộ mặt ta yêu hay một biểu hiện mà ta chấp nhận được. Nếu một bộ mặt không khiến ta xúc động, nếu trong những người đi ngang qua trước mặt ta, ta không tìm được ra kẻ để ta nhận dạng ra chính ta thì ta sẽ quan sát họ mà chẳng hề thấy họ. Trong một phòng chờ xe, trong một toa xe lửa, trên một boong tàu, trong một quán cóc hay một công viên hay thậm chí trong lúc dạo chơi ngoài phố, ta đều chỉ có nắm bắt những bộ mặt hay những hình dạng tựa hồ đã gần gụi quen thuộc với ta, hoặc là, ta kiếm lấy ở đó một vài ám dụ có thể làm nổi lên lại một kỷ niệm đang vùi trong trí nhớ. Khi quan sát người khác, ta đều coi họ như những cái gương cho ta soi vào trong chính ta và sự quan sát này hoàn toàn lệ thuộc vào điều kiện tâm trí ta lúc đó. Ngay cả khi nhìn một cô gái, ta cũng dùng cảm quan của chính ta để nắm bắt cô, dùng kinh lịch bản thân ta, cộng thêm tưởng tượng, trước khi cho ra một phán đoán. Thật ra sự hiểu người khác, kể cả đàn bà, ở ta là hời hợt, võ đoán. Trong con mắt ta, đàn bà chẳng là cái gì ngoài những ảo tưởng ta tự tạo để mê hoặc bản thân ta. Đó là điều bi ai ở ta. Cho nên các quan hệ của ta với đàn bà đều thất bại. Ngược lại nếu ta lại là đàn bà thì chung sống với đàn ông ta cũng lại khổ đau như thế. Vấn đề là ở sự tỉnh ngộ trong nội tâm của ta, con quái vật dằn vặt khiến cho ta không thể yên tĩnh này. Lòng tự yêu mình, tự tàn hại mình, sự giữ gìn ý tứ, lòng đố kỵ và căm ghét đều bắt nguồn từ đó mà ra, cái ta thật sự là căn nguyên bất hạnh của loài người. Vậy thì phải giải quyết bất hạnh này chẳng phải là lại cần bóp chết đi cái mà nó tỉnh ngộ ra kia sao?

Cho nên Đức Phật dạy mọi hình ảnh đều giả, không hình ảnh cũng giả?

27

Nàng nói nàng thật lòng muống quay về tuổi thơ, cái thời nàng chẳng biết đến khổ não lẫn dằn vặt. Để đi học hằng ngày, bà ngoại nàng tết tóc cho nàng. Hai cái bím dài, sáng ánh, không quá chặt cũng chẳng quá lỏng. Ai cũng nói hai cái bím rất đẹp. Bà chết, nàng liền không tết bím nữa, cắt tóc đi, cố ý cắt rất ngắn, đến hai cái mẩu bàn chải be bé theo mốt. Hồng vệ binh nàng cũng không thể làm được là cốt để phản kháng. Lúc đó, bố nàng, đối tượng của một cuộc thẩm tra, đã bị đưa đi khỏi gia đình và bị giam trong tòa nhà lớn nơi ông công tác, không được về nhà, mẹ phải nửa tháng một lần mang quần áo thay đến cho bố nhưng không bao giờ mẹ muốn nàng đi. Sau đó, mẹ và nàng đều bị đuổi về nông thôn. Nàng chẳng có được cả tư cách làm Hồng vệ binh. Nàng nói thời kỳ sung sướng nhất của đời nàng là thời nàng mang hai bím tóc dài. Bà nàng giống như một con mèo già, luôn ngủ bên cạnh nàng, nàng cảm thẩy đặc biệt yên tâm. Nàng nói bây giờ, nàng đã già. tim cũng già, nàng chẳng còn cảm thấy dẽ bị các cái nho nhỏ làm cho khuấy động nữa. Ngày xưa nàng có thể khóc vô duyên, vô cớ. Nước mắt nàng nhiều giàn giụa, chúng chảy ra thẳng từ tim nàng chẳng cần phải cố sức gì, như thế đặc biệt dễ chịu.

Nàng nói nàng có một bạn gái tên là Linh Linh. Hai đứa là bạn thân từ bé tí. Nó rất đáng yêu, nó chỉ cần nhìn anh, nhìn anh, nhìn anh là hiện ra hai lõm đồng tiền trên má. Bây giờ Linh Linh đã là mẹ rồi, nói chuyện toàn một điệu kéo dài cái âm cuối cùng cho thật dài ra, cứ như là chưa tỉnh ngủ vậy. Khi còn nhỏ, tiếng Linh Linh chi chi cha cha không lúc nào ngừng nghe như một con sẻ. Liếng thoắng suốt ngày, không ngừng lúc nào, nói đi ra ngoài chơi, hễ cứ trời mưa là buồn, không hiểu tại sao, muốn bóp cổ và đúng thế bóp thật lực làm cho người ta phát ho.

Một tối hè, hai đứa ngồi ở bở hồ ngắm nhìn đêm. Nàng nói muốn nằm lên trên ngực Linh Linh, Linh Linh nói nàng muốn làm mẹ đấy thế rốt hai người bật phì cười, đẩy huých nhau, rồi trước khi trăng mọc, Linh Linh đã hỏi em liệu có hiểu không, đêm màu xám xanh và trăng lên, ôi, cái ánh sáng trong vắt chảy đến từ mặt trăng, nó hỏi em đã nhìn thấy cái phong cảnh như thế này bao giờ chưa, cái ánh sáng đang cuồn cuộn chảy và loang trên mặt đất, như một màn sương cuồn cuộn đến. Nàng nói hai người còn nghe thấy cả ánh trăng lao xao, cành cây như cỏ nước lượn lờ trong nước vậy, hai đứa thế là khóc. Nước mắt chảy ra như suối, như ánh trăng. Hai đứa cảm thấy hạnh phúc quá, tóc Linh Linh quệt vào mặt nàng, bây giờ nàng còn cảm thấy tóc ấy, mặt hai đứa áp vào nhau, mặt Linh Linh nóng ran. Có một loài sen nở ban đêm, không phải hoa súng cũng không phải hoa sen nó bé hơn hoa sen mà to hơn hoa súng. Nhụy của nó màu vàng rực tỏa sáng trong tối, cánh của nó bóng như bằng sắp, như đôi tai hồng hồng của Linh Linh khi còn bé nhưng mà ít lông tơ hơn, sáng bóng như móng ngón tay út Linh Linh, ôi! Thời ấy nàng nuôi móng ngón tay út nom như một con ốc, nhưng mà không phải, những cánh hoa mầu hồng kia không sáng bóng tí nào cả, chúng cũng dầy như một cái tai và run rẩy hé mở ra từ từ.

Mi nói mi cũng đã nhìn thấy như thế, mi đã nhìn thấy những cánh hoa ấy mở ra run rẩy và ở chính giữa một cái nhụy có lông vàng rực rờn rợn rung. Đúng đấy, nàng nói. Mi cầm tay nàng. Ô, đừng, nàng nói, nàng muốn mi tiếp tục nghe nàng nói. Nàng nói nàng đang nghiêm túc đấy, anh không thấy như thế sao? Có phải là anh không muốn thấy như thế phải không? Không muốn hiểu nàng phải không? Nàng nói cái sự nghiêm trang này nó giống nhạc thánh ca. Nàng đặc biệt yêu Đức Mẹ đồng trinh, hình ảnh Đức Mẹ với hài đồng, mi mắt hạ xuống, hai bàn tay mềm dịu với những ngón rất chi là tinh tế. Nàng nói nàng hy vọng làm một người mẹ, bế trong tay cục bảo bối nho nhỏ của nàng, cái sinh mạng ấm nóng, thuần khiết đang mút rít sữa từ vú của nàng kia. Đó là một tình cảm sáng trong, thuần khiết, anh có hiểu không? Mi nói mi tin là mi hiểu. Này, nếu anh không hiểu cái gì đó thì anh còn bất mịnh, thì anh thật sự là ngu ngốc đấy! Nàng nói.

Nàng nói về các bức rèm dày rủ xuống. Khi người ta đi vào giữa chúng, người ta có cảm giác trượt trôi. Vén nhè nhẹ các bức rèm nhung màu xanh lá cây thẫm ra, len lõi vào giữ chúng, người ta chẳng còn phải thấy một ai, chẳng một tiếng động, nhung hấp thụ hết mọi âm thanh, chỉ có một sợi âm nhạc, hoàn toàn thuần khiết, không tạp chất, nhờ các bức rèm đã hấp thụ, đã lọc đi, một sợi âm nhạc luôn chảy ra dìu dịu, đến từ một ngọn nguồn trong veo đầy trìu mến trong đêm tối, ở chỗ nó đi qua, một luồng ánh sáng yếu ớt hiện ra.

Nàng nói nàng có một bà cô rất đẹp thường đi lại trước mặt nàng ở trong nhà, mặc có độc một chiếc nịt vú tí xíu và cái quần bé tẻo teo. Nàng luôn thèm sờ vào những cái đùi trần sáng bóng của cô nhưng không bao giờ dám. Nàng nói thời ấy nàng còn là một đứa bé gái còm nhom. Nàng nghĩ nàng sẽ chẳng bao giờ trở nên đẹp được như bà cô là người có lắm bạn và thường nhận nhiều bức thư tình cùng một lúc. Bà cô là diễn viên, rất nhiều đàn ông theo đuổi cô. Cô luôn nói họ quấy cô dữ nhưng thật ra cô thích chuyện đó. Sau này, cô lấy một sĩ quan, ông này giám sát cô chặt chẽ. Cô về hơi muộn, ông lại tra hỏi và đôi khi đánh cô. Nàng nói thời đó nàng không hiểu tại sao bà cô không bỏ người chồng kia, lại cứ chịu đựng sự ức hiếp này.

Nàng còn nói nàng đã yêu một giáo sư, giáo sư toán của nàng, ồ, chỉ là tình cảm của một đứa con gái bé bỏng thôi. Nàng yêu tiếng nói của thầy ở trong lớp, toán là một môn học làm người ta ngán, khô khốc, vô vị nhưng nàng lại yêu tiếng thầy nói và nàng làm bài đặc biệt kỹ. Một hôm, nàng chỉ được tám mươi chín trên một trăm điểm trong một kỳ thi, nàng đã khóc mất bao nhiêu nước mắt. Đang giờ học, lúc trả bài thi, nhìn thấy bài của mình, nàng bật lên nức nở. Giáo sư lấy lại bài thi nói thầy sẽ xem lại, rồi thầy cho thêm vài điểm. Nàng nói nàng không muốn thế, không mà, nàng không muốn thế, rồi nàng vứt bài thi xuống đất. Trước tất cả các bạn trong lớp, nàng không sao ngăn được mình khóc. Nàng dĩ nhiên đã rất xấu hổ về cái chuyện này, nàng không để ý tới thầy giáo nữa, cũng không gọi thầy là giáo sư. Sau nghỉ hè, thầy thôi dạy ở lớp, nàng vẫn nhớ tới thầy, nàng yêu tiếng nói của thầy, cái tiếng nói đặc biệt hồn hậu, trầm trầm từ cổ họng kia.

28

Từ Thạch Cán và Giang Khẩu, giữa đường có chăng ra một dải băng đỏ. Một chiếc xe con chặn chiếc xe khách đường dài mà ta đang đi.Một người đàn ông và một người đàn bà băng đỏ ở tay leo lên. Chỉ cần đeo cái loại băng này vào, người ta liền có một thân phận đặc biệt và đều mang khí thế dữ dằn. Ta ngỡ truy lùng ai đó nhưng may sao chỉ là kiểm soát viên chịu trách nhiệm theo dõi các quốc lộ lên xem xét vé hành khách.

Sau khi cho xe chạy một ít, người lái đã soát vé ngay ở chặng dừng đầu tiên. Một nông dân muốn lủi đi nhưng cái bao của anh ta lại bị kẹt cửa xe do người lái kịp đóng chặt lại. Sau khi buộc phải thòi ra mười nguyên, anh ta đã được người lái ném trả cho cái bao. Bất chấp người nông dân chửi té tát, anh tài rồ ga nổ máy khiến cho anh nông dân phải nhào vội xuống hố ven đường. Ở vùng núi, xe có ít, việc cấm lái đã đặt người tài xế lên cao hơn mọi chúng sinh, cả xe đều ấp ủ một ác cảm rõ rệt với anh ta.

Ai hay người đàn ông và người đàn bà đeo băng đỏ lên xe còn thô bạo hơn anh tài. Người đàn ông giật lấy vé từ tay một hành khách, chỉ tay vào mặt anh tài nạt:

- Xuống! Xuống!

Người lái ngoan ngoãn xuống. Người đàn bà viết biên lai phạt anh ta ba trăm nguyên, tức là ba trăm lần giá cái vé mà cuống đã không bị xé đi, vật này khống chế vật kia, cái đó cũng là một phép tắc của nhân gian chứ không phải chỉ ở trong giới tự nhiên.

Lúc đầu, người tài xe giải thích. Anh ta nói cơ bản không biết người hành khách này, không thể nào bán lại được cái vé này và giọng cứ thế cao dần lên, cãi lại. Nhưng hai người kiểm soát viên không lung lay chút nào, mặt lạnh như tiền, có lẽ vì nhờ áp dụng chế độ khoán xe, lương người lái xe cao hơn lương của họ hoặc họ muốn tỏ uy lực của cái băng đỏ ở tay. Rầm rĩ một hồi, người lái xe bắt đầu lấy bộ mặt tội nghiệp ra van xin. Một giờ trôi đi chiếc xe vẫn không chạy tiếp được. Bên phạt và bên bị phạt quên mất rằng hành khách nhốt trong xe chịu nắng rán chín cũng là bị phạt. Ác cảm với người lái dần dần chuyển sang căm ghét cái băng đỏ. Hành khách đập vào thành xe kêu lên bất bình. Người đàn bà đeo băng đỏ lúc ấy nhận ra chị đang là mục tiêu của đám đông. Bèn vội xé tờ biên lai phạt nhét vào tay anh lái. Người kiểm soát viên kia vẩy vẩy một lá cờ nhỏ trong tay. Xe của họ lập tức đến, họ lên xe rồi biến mất về phía xa, để lại một trận bụi mù mịt.

Nhưng người lái xe đã ngồi xổm trên đất và từ chối đứng dậy. Đầu thò ta cửa xe, hành khách cố ngọt ngào an ủi anh ta, lại hơn một nữa giờ nữa, dần dần họ mất kiên nhẫn, bắt đầu chửi rủa. Anh tài mới miễn cưỡng leo lên xe.

Chiếc xe vừa đi một quãng, qua một cái làng thì dừng lại tuy chẳng có ai lên xuống. Cửa trước cửa sau mở rầm rầm rồi người lái nhảy khỏi ca bin tuyên bố:

- Tất cả xuống xe, xuống, không đi nữa, cần lấy xăng.

Và anh ta thế là bỏ đi. Hành khách ở lại trên xe sau một hồi chửi bới chẳng thấy ai bận nghe họ bèn chỉ còn cách cũng lần lượt xuống xe.

Bên đường, ngoài một hàng ăn, còn một hiệu tạp hóa, thuốc lá, rượu, trước đó căng một tấm bạt lên che nắng, có bàn trà.

Mặt trời đã xuống thấp nhưng dưới tấm vải che còn rất nóng. Ta uống liền hai bát trà lạnh, vẫn chưa thấy chiếc xe lấy xăng. Người lái thì mất tăm. Lạ lùng là hành khách tránh nắng dưới các bóng cây hay dưới tấm vải che cũng dần dà tản mác hết.

Ta vào cái hàng ăn tìm nhưng chỉ có những cái bàn vuông, những ghế băng trống không, người đi đâu cả, thật là không hiểu. Cuối cùng ta tìm ra anh tài xế ở trong bếp, trước mặt anh ta là hai đĩa xào và một chai rượu. Anh ta đang tán chuyện với người chủ ngồi cùng ở đó.

Ta nói với anh ta, giọng dĩ nhiên kém thân thiện:

- Bao giờ đi?

Hắn trở lời cũng giọng tương tự:

- Sáng mai, sáu giờ.

- Tại sao thế?

- Anh không thấy là tôi uống rượu rồi à?

- Không phải tôi phạt anh. Anh có cáu cũng không được gõ lại vào hành khách, thế nào mà cái ấy cũng không hiểu?

Ta cố giữ bình tĩnh.

- Uống rượu mà lái xe thì bị phạt, anh hiểu chứ?

Quả là hắn ta sặc mùi rượu và đang trương ra cái bộ mặt hoàn toàn trâng tráo. Nhìn đôi mắt ti hí dưới trán hắn nhăn lại khi hắn nhai thức ăn, ta nổi giận đến mức muốn đập luôn cái chai rượu vào đầu hắn. Ta vội ra khỏi hàng ăn.

Quay lại đường, trước cỗ xe trống không, ta ngộ ra rằng cõi đời vốn chẳng có đạo lý nào để nói, không lên cái xe này chẳng phải là ta đã tránh được các sự phiền toái sao? Sẽ không có tài xế, hành khách lẫn kiểm soát viên, phạt vạ nhưng vấn để bây giờ là kiếm lấy chỗ qua đêm.

Ta trở lại dưới tấm che, nơi người ta bán trà. Ta tìm thấy ở đó một hành khách.

- Cái xe phò này không đi nữa.

- Biết. Anh nói.

- Anh nghỉ đêm ở đâu?

- Tôi cũng đang tìm.

- Hành khách đi đâu cả rồi ấy nhỉ?

Anh bảo ta họ người quanh vùng cả thế nào họ cũng có nơi đến, họ chẳng thiết thì giờ, sớm một ngày, muộn một ngày chẳng hề gì với họ. Chỉ có anh từ sở thú Quí Dương, ở đấy nhận được một bức điện của huyện Ấn Giang báo là dân miền núi đã bắt được một con thú hoang không biết là con gì, ngay chiều nay anh phải đến huyện lỵ sáng mai phải vào núi, đến muộn thì sợ rằng con thú chết mất.

- Chết thì chịu thôi chứ! Có thể phạt anh à? Ta hỏi.

- Không, cái này anh không hiểu đâu.

Ta bảo trong cái đời này, không cách nào mà hiểu được cái gì?

Anh nói rằng anh nói đến con thú lạ chứ không nói cõi đời.

Ta hỏi anh liệu thật là có sự khác biệt lớn giữa cái đời và một con thú lạ không.

Anh bèn móc bức điện ra cho xem. Bức điện quả là viết: “Nông dân bản huyện bắt sống được con thú lạ, hỏa tốc cử người đến nhận dạng”. Còn kể sở thú của anh có lần nhận được điện thoại báo tin phát hiện một con kỳ nhông khổng lồ nặng hai mươi đến hai mươi lăm cân bị một con sông trên núi hất dạt lên bờ như thế nào, khi họ phái người đến, không những con kỳ nhông chết mà dân làng còn xẻ thịt chia cho nhau; không thể tái tạo lại được và chắc chắn là không thể nào giữ cho được một mẫu vật. Lần này, anh nhất định phải chờ trên đường mà chặn xe đi nhờ để đến kịp.

Ta đứng nói chuyện với anh một lúc. Nhiều cam nhông chạy qua. Anh giơ bức điện lên nhưng chẳng ai để ý tới anh. Ta không có nghĩa vụ cứu một thú rừng hay thế giới, hà tất đứng đây nuốt khói ư? Ta quyết định quay lại ăn ở hàng ăn.

Ta hỏi cô phục vụ là có ngủ lại đây được không. Cô ném cho ta một cái nhìn đầy hằn học, tựa như ta đã hỏi là cô có tiếp khách không.

- Ông không thấy à? Đây là hàng ăn.

Ta đã tự thề là không leo lên chiếc xe khách kia nữa, nhưng trước mặt còn lại cho ta một trăm cây số để thanh toán mà đi chân thì ít ra ta sẽ phải mất quãng hai ngày.

Khi ta trở lại bên đường, người ở sở thú không còn ở đấy nữa; không biết anh ta có xin đi nhờ xe được không.

Mặt trời sắp lặn. Dưới tấm che, nơi người ta uống trà, chiếc ghế băng đã được dọn dẹp. Bên dưới vệ đường nổi lên tiếng trống khua. Ta thầm hỏi là chuyện gì. Nhìn từ trên cao, ngôi làng chỉ là một dẫy kế tiếp những mái ngói và giữa các ngôi nhà là những sân lát đá. Xa hơn nữa, những tràn ruộng bậc thang, lúa sớm ở đó đã được thu hoạch. Một số thửa ruộng đã được cày, bùn đen lật ngửa.

Ta xuống dốc theo hướng tiếng trống khua. Một người nông dân từ dưới ruộng leo lên, quần xắn, bắp chân đen nhẻm bùn. Xa nữa, một đứa trẻ dắt trâu tới cái ao ở rìa làng. Trước cảnh khói bốc lên từ các mái nhà, một cảm giác yên bình xâm chiếm lòng người.

Ta dừng lại nghe tiếng trống. Không còn tay lái xe, không còn những kiểm soát viên đeo băng đỏ, không còn cái xe khách gây bực dọc, không còn điện hỏa tốc yêu cầu nhận dạng một con thú lạ, mọi vật bỗng quay trở về lại với tự nhiên. Ta nhớ đến những năm sống ở nông thôn, buộc phải tham gia lao động cải tạo. Nếu tình thế không tiến hóa, phải chăng ta cũng lại như họ thế kia, vẫn đang còn trồng trọt đất cát đấy ư? Cũng hết giờ làm việc, bắp chân đầy bùn, mệt đến chẳng thiết gì tắm rửa, nhưng thế thì ta lại không biết đến nỗi bồn chồn này. Cũng không phải tại sao phải vội vã đi đến dưới này. Chẳng có cái gì tự nhiên hơn khói bếp trong ánh hoàng hôn kia, những mái ngói kia, những hồi trống khua lúc xa lúc gần kia.

Những tiếng trống lặp đi lặp lại hình như tụng niệm râm ran một truyền thuyết không lời. Và chỉ còn lại duy nhất các mái nhà đang tối dần đi theo cùng với mầu của nước và ánh sáng của vòm trời biến hóa, các tấm đan xam xám phân biệt ra lờ mờ ở giữa các sân nhà, mặt bùn còn giữ hơi nóng ấm cảu nắng, hơi thở phả ra từ mõm trâu, những âm thanh cất lên từ các căn nhà như những lời cãi cọ, và cả gió chiều, lá cây rung rinh ở trên đầu ta nữa, mùi rơm rạ và mùi chuồng bò, tiếng lóc óc của nước bị người ta khuấy đảo, tiếng cánh cửa kẽo kẹt, có lẽ thế, hay tiếng nghiến rít của dây tời kéo nước ở một cái giếng, và tiếng một cặp chim cu gù đâu đó trong tổ, tiếng gọi lanh lảnh của đàn bà và trẻ con, mùi lá ngải và tiếng vo ve của côn trùng bay, lớp bùn dưới chân khô ở mặt ngoài nhũn ở bên trong, lòng ham muốn và nỗi khát khao hạnh phúc âm ỉ, cơn chấn động mà tiếng trống đang gọi dậy, cũng lại cả thèm đi chân đất, ngồi ở ngưỡng cửa bị người đi qua đi lại nhiều lần làm cho láng bóng, các cái đó trơn nhẵn, mềm mại diễn ra.

29

Một sứ giả của phù thủy ở Thiên Môn quan, Đèo Cổng trời, đã đến Mộc Tượng Binh, sân bãi của những người thợ mộc yêu cầu ông thợ điêu khắc già tạc đầu nữ thần Thiên La. Ông ta nói sẽ đích thân quay lại lấy tượng để dâng lên nữ thần ngày hai mươi bảy tháng Chạp trên bàn thờ tổ tiên. Sứ giả trả trước một phần tiền công bằng một con ngỗng sống và hứa rằng nếu công việc xong đúng hạn thì sẽ cho một hũ rượu trắng và một nửa đầu lợn: ông già có thể ăn Tết nguyên đán bằng các món đó được. Lúc ấy ông thợ điêu khắc già bèn thất kinh, thấy rằng mạng của ông thế là đã được đếm từng ngày. Đức Phật bà Quan âm là người cai quản đời sống chúng ta, Thiên La là nữ thần.

Những năm vừa qua, ngoài việc mộc ra, ông đã làm không ít tượng, ông đã tạc tượng Thần Tài, thần La Hán cười, hòa thượng Kiểm Túc, Nam Tào Bắc Đẩu trông nom sổ sách người sống và người chết, ông cũng gia công cho gánh hát nuo hàng loạt mặt nạ, những Trương Khai San nửa người nửa thần, những Mã Soái nửa người nửa vật, những súc sinh tiểu yêu nửa người nửa quỷ và cả những tượng hề của Tần Đồng nhăn nhở cho người ta vui. Ông lão cũng tạc tượng Quan Âm cho những người đến từ phía bên kia núi, nhug chưa có ai, thật thế, bảo ông tạc tượng nữ thần Thiên La, chúa tể hung tín cai quản mạng người; thế mà đấy, bây giờ bà đến đòi mạng ông. Làm sao ông lại có thể hồ đồ nhận lời dễ dàng như vậy được? Đó là vì tuổi già của ông, vì lòng tham to quá của ông. Chỉ cần người ta dạm với ông một vật có giá trị là ông tạc bất cứ cái gì ngay. Mọi người đồng thanh nói các bức tượng của ông lão đầy sức sống. Thoạt nhìn là người ta nhận ra ngay Thần Tài, hòa thượng Kiểm Túc, Nam Tào Bắc Đẩu cai quản sổ sống sổ chết, tướng Trương Khai San, một Mã Soái hay Quan Âm, ông chỉ biết đó là một bà mẹ phù hộ cho sự sinh nở con trẻ. Khi một người đàn bà đến từ bên kia núi mang lại cho ông hai tấc vải đỏ để nhờ làm một tượng Quan Âm, chị ta đã nghỉ đêm tại nhà ông. Sáng sau, chị ta lại lên đường, hết sức hài lòng, mang theo tượng Quan Âm mà chính đôi tay ông đã cho ra đời trong một đêm. Nhưng cả đời ông chưa bao giờ tạc tượng Thiên La, trước hết vì không ai nhờ ông việc đó, sau nữa là cái mặt hung dữ này chỉ có thể đem đặt ở trên bàn thờ của phù thủy. Ông không thể giữ được khỏi rùng mình. Người ông lạnh toát; ông biết thần Thiên La đã ở bên chờ lấy đi mạng sống của ông.

Ông leo lên đống gỗ để lấy một khúc gỗ phơi trên xà, khúc gỗ có những thớ thanh thoát, không thể biến dạng hay nứt nẻ. Ông đã cất nó vào đấy nhiều năm trước, không nỡ dùng nó vào một công dụng thông thường. Leo lên đến đống gỗ, khi ông với tay để lấy khúc gỗ thì ông bị trượt chân và cái đống gỗ sập xuống. Ông cả kinh nhưng ông biết cái gì đang xảy ra. Ôm chặt khúc gỗ trong tay, ông ra ngồi lên gốc cây phong vẫn dùng làm thớt. Với một việc bình thường, ông vạc vật liệu bằng vài nhát rìu, chẳng cần để tâm vào đó, rồi khắc tạc bằng đục, theo các phoi gỗ hất ra từ lưỡi đục dần dần hiện lên hình dáng. Đó là nề nếp quen. Nhưng chưa bao giờ ông tạc tượng thần Thiên La cho nên ông cứ ngồi đó, mụ mị đi, khúc gỗ trong tay. Khi cảm thấy khí lạnh nhập vào người, ông đặt khúc gỗ xuống đất. Ông vào trong nhà, ngồi lên một khúc cây đã bị khói bếp làm cho đen sì và vì nhiều người đã ngồi nên nó bóng lên. Ông đã tận số rồi. Ông nhận ra không qua được năm nay. Họ đặt ông tượng này cho ngày hai mươi bảy tháng Chạp, đúng sau ngày cúng Táo quân, chẳng cần chờ cả đến ngày rằm tháng Giêng, Hội Hoa đăng. Quyết không cho ông yên ổn qua Tết rồi.

Lão ấy đã gây nhiều tội ác, nàng nói.

Nữ thần Thiên La bảo như thế sao?

Đúng, nàng nói, lão ấy không tốt, không biết an phận.

Có thể.

Thâm tâm ông ta biết ông ta có bao nhiêu tội.

Ông ta đã quyến rũ người đàn bà trẻ đến cầu tự ư?

Chính người đàn bà ấy mới đáng khinh, chị ta hoàn toàn vui lòng mà.

Thế không coi là tội lỗi chứ?

Có thể.

Thế thì, tội lỗi của ông ấy, là…

Lão ấy đã làm hỏng đời một cô gái câm.

Ở nhà ông ta?

Ở nhà thì không dám, một hôm lão ấy ở nơi khác. Những thợ thủ công làm lụng xa nhà như lão ta thường ở một mình lâu ngày. Họ có chút ít tiền nong và lõi đời. Tìm ra đàn bà để ngủ không khó. Một số đàn bà làm cái đó vì lợi. Nhưng lẽ ra lão ta không được lạm dụng một cô gái câm chứ. Lão ta đã làm nhục, đã đùa rỡn rồi bỏ cô ấy.

Khi nữ thần Thiên La đến lấy mạng lão, lão có nhận ra rằng đó là tại cô gái câm không?

Chắc là phải nghĩ như thế rồi, cô câm ấy đã hiện ra với lão mà lão không thể xóa cô ấy đi được.

Vậy là một sự trả thù?

Đúng. Tất cả các cô gái hễ bị làm nhục đều hy vọng trả thù. Nếu cô ấy còn sống, nếu cô ấy tìm được ra lão, cô ấy sẽ móc mắt lão, cô ấy sẽ chửi ngập đầu lão lên với những câu nhục nhã nhất, cô ấy sẽ xin quỷ thần đem lão đến tận mười tám tầng âm phủ, cô ấy sẽ bắt lão chịu các thứ cực hình ghê gớm nhất! Nhưng cô gái này bị câm, không có cách nào cho người khác hiểu được; rồi đến khi bị chửa, cô ấy đã bị đuổi khỏi nhà, cô ấy bèn đi lang thang và làm điếm, ăn mày. Cô gái trở thành một đống thịt hư hỏng, ai cũng ghét. Ban đầu, cô ấy không phải không duyên dáng đâu và lẽ ra rất có thể lấy được một nông dân lương thiện, sống một cuộc đời vợ chồng bình thường. Cô gái lẽ ra đã có một mái ấm để tự che chở và cho những đứa con ra đời, rồi khi chết thì có cả một cỗ áo quan.

Lão ta không nghĩ đến cái đó, chỉ nghĩ đến lão ta.

Nhưng hai mắt của cô gái ấy trừng trừng nhìn lão không buông.

Mắt của nữ thần Thiên La.

Mắt của cô gái câm không nói được ấy.

Đôi mắt đầy kinh hoàng của cô gái khi lão chiếm đoạt cô gái?

Đôi mắt phục thù!

Đôi mắt van xin.

Cô ấy không thể van xin, cô ấy giật tóc bứt tóc mà khóc.

Cô ấy nhìn lão, đờ đẫn ra.

Không, cô ấy kêu…

Nhưng chẳng ai hiểu các tiếng kêu i i a a ấy là gì, mọi người thấy lại cười.

Và lão ta lẫn trong đám đông lão ta cũng cười.

Đến thế?

Đến quá chứ! Lúc ấy, lão vẫn chưa biết sợ và lão còn đắc chí. Lão nghĩ chẳng ai có thể tìm được ra lão.

Số phận biết phục thù.

Bà ấy đã đến, nữ thần Thiên La, khi lão ta đang cời than hồng, bà hiển hiện ra trong lửa và khói. Lão nhắm nghiền ngay mắt lại và nước mắt chảy ra.

Đừng có làm dáng cho lão đi anh!

Ai chẳng khóc khi mắt đầy khói. Lão đã xỉ mũi vào những ngón tay khô ráp như những que củi khô của lão. Lão tập tễnh ra sân, kéo lê đôi giày vải, lão lấy khúc gỗ, ngồi xổm gần gốc cây phong, lão vạc nó bằng rìu cho đến tận chiều tối. Rồi lão quay vào nhà, miếng gỗ trong tay. Ngồi bên lửa, lão kẹp nó vào giữa hai đùi và đưa bàn tay đầy chai lên vuốt ve nó. Lão biết đây là bức tượng cuối cùng lão làm trong đời và lão sợ không đủ thì giờ để tạc xong. Lão muốn thành công trước sớm mai vì lão biết vào lúc đó cái hình ảnh lào lưu giữ trong lòng sẽ biến mất, ở đầu các ngón tay lão là bóng hình cô gái, miệng cô gái, môi trên của cô gái mím chặt khi cô lắc đầu, dái tai cô gái mềm quá nhưng đặc biệt dầy dặn, thế này có lẽ tai cô phải đeo những đôi khuyên rất to mất; da căng nhưng mềm mịn, mặt nhẵn và thanh tú, mũi và cằm nhọn nhưng không sắc cạnh. Bàn tay lão trườn vào trong cổ áo ôm lẳn lấy cổ cô...

Buổi sáng dân làng đi chợ phiên Lạc Phượng Ba, Dốc Phượng Rơi, mua sắm Tết gọi lão nhưng lão không trả lời. Cửa mở toang và phảng phất có mùi chãy. Người ta vào nhà, phát hiện thấy lão ngã vật vào trong bếp lò. Lão đã chết. Có người nói lão là nạn nhân của tai biến tim mạch, có người nói lão bị chết cháy. Dưới chân lão, nằm chỏng chơ tượng nữ thần Thiên La gần xong, đầu đội một vòng mũ gai. Ở rìa mũ có chọc bốn cái lỗ. Từ mỗi cái lỗ thò ra một con rùa đen, đầu vươn thẳng, như một thú rừng rình mồi, nấp trong hang ổ. Mí mắt bức tượng cụp xuống như ngủ mà không ngủ, sống mũi thanh tú tiếp vào đôi lông mày cánh phượng cho cảm giác chúng hơi cau lại, môi mỏng và nhỏ thì mím chặt, có một thứ ý vị khinh miệt cuộc đời, hai đồng tử đen khó nhìn thấy tuy vậy vẫn phóng ra một ánh mắt lạnh băng. Lông mày, mắt, mũi, miệng, mặt, cằm, cần cổ thanh tú và dài của bức tượng, tất cả đều cho hiện ra nét tinh tế của một thiếu nữ; chỉ hai dái tai dầy và chắc là có những cái khuyên bằng những miếng đồng hình mũi dáo treo lủng lẳng ở đấy là chớm để lộ ra chút gợi dục mà thôi, cổ bức tượng bị bó chặt trong cổ dựng lên rất cao của bộ quần áo. Và nữ thần Thiên La về sau đã được dâng lên trên ban thờ của người pháp sư ở Thiên Môn Quan Đèo Cổng Trời.

30

Từ lâu ta đã nghe những truyền thuyết về con rắn kỳ nổi tiếng cùng nọc tuyệt độc của nó. Ở nông thôn, người ta thường gọi nó là Rồng Ngũ Bộ vì người ta cho rằng người hay con thú bị nó cắn sẽ chết trước khi đi được năm bước chân. Những người khác lại nói ít có cơ may thoát được nó nếu đi cách nó chưa tới năm bước. Chắc nó đã làm ra đời câu tục ngữ: "Con rồng mạnh nhất không thắng được con rắn trên mặt đất". Tất cả đồng thanh nói rằng nó khác hẳn với các con rắn độc khác. Ngay rắn hổ mang bành, nguy hiểm đến thế nào, cũng dễ dàng bị người làm cho sợ. Khi nó mổ, ta phải dướn đầu lên càng cao càng tốt rồi vươn thằng người mà hét to để khủng bố nó. Khi gặp nó, có thể rất dễ dàng tự bảo vệ bằng cách ném một cái gì vào cạnh nó. Nếu không có gì để ném thì chỉ cần quăng giầy hay mũ của mình rồi lỉnh đi vào lúc con rắn tấn công các thứ kia, ngỡ đang có chuyện với con mồi. Nhưng khi gặp rắn kỳ thì trong mười trường hợp đến tám hay chín là nó tấn công trước khi người có thì giờ trông thấy nó.

Trong các vùng núi miền nam An Huy, ta đã nghe những chuyện gần như huyền thoại về con rắn này. Nó có khả năng bài binh bố trận và đánh dấu lãnh thổ của nó bằng một cái sợi còn mảnh hơn tơ nhện. Nếu một con vật chạm vào đó, nó tấn công ngay, nhanh như chớp. Ở đâu có con rắn này thì sống ở đó lưu hành mọi loại thần chú. Nếu đọc thầm các thần chú này sẽ có một quyền lực che chở, nhưng người dân miền núi không truyền chúng cho người lạ. Khi đi chặt cây, họ quấn xà cạp hay mang giầy cao cổ làm bằng vải thô. Người dân ở huyện lỵ ít quen thuộc với núi non, đã kể cho ta những điều còn đáng sợ hơn nữa: những con rắn đó cắn được cả giầy da và họ khuyên ta mang theo thuốc chống nọc độc dù trong thực tế nó chẳng có mấy hiệu lực với rắn kỳ.

Trên đường từ Đồn Khê đến An Khánh, qua Thạch Đài, ta đã gặp trong quán ăn nhỏ gần trạm xa đường dài một nông dân bị cụt một bàn tay. Anh kể cho ta rằng chính anh đã chặt nó sau khi bị rắn kỳ cắn. Chắc anh là người duy nhất sống sót được với vết cắn này. Anh đội một cái mũ rơm mềm vành hẹp, theo hình mũ lễ hội, loại mũ mà nông dân đội bôn ba bến sông, đội thứ mũ này phần lớn là những người từng trải. Ta gọi một bát mì ống trong cái quán ăn mở dưới một tấm bạt trắng. Ngồi đúng trước mặt ta, anh cầm đũa bằng tay trái, hoa hoa không ngừng trước mặt ta cái mẩu cụt của cánh tay phải. Thắc mắc, ta nói chuyện với anh, nhìn rõ rằng anh có thể tán gẫu:

- Ông anh, anh có thấy phiền gì nếu kể cho tôi anh đã bị thương như thế nào không? Tôi trả tiền mì cho anh.

Anh kể anh vào núi tìm cây kỷ.

- Cây gì?

- Cây kỷ. Chữa được bệnh ghen. Mụ vợ tôi ghê gớm lắm. Hễ một người đàn bà nào chuyện với tôi là mụ sẵn sàng quăng cho luôn một cái bát vào mặt tôi ngay. Tôi muốn cho vợ tôi uống nước cây kỷ.

- Một thứ thuốc không nghiêm chỉnh ư?

- Không, anh cười phì nói. Dưới chiếc mũ rơm, mồm anh ngoác ra để lộ chiếc răng vàng. Anh pha trò đùa tôi.

Anh nói họ là cả một đoàn người đi đốn cây làm than củi. Hồi ấy thương nghiệp chưa được hưng thịnh như bây giờ, đốn cây lấy gỗ nhất định phải bán cho đội sản xuất, không thì phạm pháp, anh lại không muốn phạm pháp mà còn muốn kiếm tiền thế là đi làm than hoa. Nhưng cũng phải biết xoay xỏa. Đác biệt phải tìm cây thanh cương trắng vỏ vì than lấy từ cây này có một mầu xám bạc, khi ta gõ vào nó kêu vang lên tiếng trong. Một gánh than này ngang tiền hai gánh than thường. Ta để anh nói tùy thích, dẫu gì ta chỉ mất có tiền một bát mì.

Anh kể rằng anh đi đầu, mang búa rìu. Các bạn cùng đi còn ở đằng sau tán chuyện, hút thuốc. Anh vừa cúi xuống thì cảm thấy từ gan bàn chân bốc lên một luồng khí lạnh. Anh nghĩ hỏng to đến nơi rồi. Anh nói cái người này lúc ấy chẳng khác gì chó, một con chó lẻ ngửi thấy mùi báo hoa là không dám đi lên nữa mà chỉ cứ còn kêu tại chỗ như mèo. Lúc đó, hai cẳng anh đến mềm oặt theo. Gã trai tráng cứng rắn nhất gặp phải con rắn kỳ cũng chẳng có hy vọng. Huống chi anh lại chính mắt trông thấy con rắn cuộn tròn trên một tảng đá trong búi gai, đầu ngỏng lên, thân thì thu lại thành một khối thịt chắc nịch. Nói lâu, làm nhanh, anh vung rìu lên nhưng chỉ trong nháy mắt, anh cảm thấy nơi cổ tay lạnh buốt, một cơn run rẩy lan khắp người như khi bị điện giật. Một tấm màu đen ngòm lướt qua trước mặt anh. Mặt trời sầm tối, tim anh lạnh ngắt và anh thôi nghe thấy tiếng gió, tiếng chim, tiếng côn trùng, chẳng còn nghe thấy gì nữa. Bầu trời ảm đạm bỗng hóa sầm sì, mặt trời, cây cốt tất cả đều phóng ra toàn ánh sáng lạnh lẽo. Anh nhận thấy đầu óc vẫn còn hoạt động và anh phải làm nhanh, không được chết, anh còn một cơ may, thế là anh bèn lấy rìu chặt phăng luôn cổ tay. Đoạn anh lập tức ngồi sụp xuống, bấu chặt lấy mạch máu của cánh tay cụt. Máu vọt ra trên các tảng đá, chạm vào đá, máu nhạt ngay màu, biến thành những bọt bong bóng vàng nhạt. Sau đó bạn nghề đưa anh về làng, mang theo cả cái bàn tay đứt lìa, đen sạm, đầy những mảng tím bầm. Cánh tay còn lại cũng đen. Khi dùng cạn hết các thuốc thang của dược học Trung Hoa chống rắn độc cắn, mới coi là nóng lại được.

- Cái nhà anh này, anh thật là quyết đoán đấy.

Anh nói nếu anh do dự một chút thôi, hay vết cắn ở trên cao hơn một ít, anh đã chết.

- Mất một bàn tay đổi lấy cái sống, đáng lắm, đúng không? Ngay con bọ ngựa cũng có khả năng trút bỏ đôi càng khi nó không thể gỡ càng ra được cơ mà.

- Đấy là côn trùng.

- Thế nào? Con người lại không bằng côn trùng ư? Con cáo sa bẫy cũng có thể gặm đứt cẳng để thoát thân, con người không thể kém tinh khôn hơn con cáo.

Anh đặt một tờ mười nguyên lên bàn, từ chối tiền mì ta trả, nói bây giờ anh đã được buôn bán, chắc kiếm không ít hơn một người đọc sách như ta.

Trong suốt hành trình, ta đã điều tra về con rắn này, cuối cùng thì đã trông thấy nó trên đường đưa tới núi Phạn Tịnh. Chúng đang bị phơi khô, cuộn tròn trên mái trạm mua bán của thị trấn có cái tên là Mân Hiếu hay Thạch Trường. Nom chúng giống với lời mà Liễu Tông Nguyên, viên quan đời Đường miêu tả: "nền đen điểm trắng". Chúng là nguyên liệu quý cho y học Trung Hoa, làm ra một phương thuốc tốt để thư giãn gân cốt và hoạt huyết, khu trừ phong thấp, trị cảm lạnh. Đó là loại hàng đắt tiền thu mua với giá cao, nhiều người dũng cảm luôn liều mạng tìm bắt.

Liễu Tông Nguyên đã gọi con rắn này là “đáng sợ hơn hổ”. Đả kích chế độ hà khắc, ông nói nó còn khủng khiếp hơn hổ. Ông là quan thích sử, còn ta, ta là một người bình thường. Làm quan chắc ông phải bận tâm đầu tiên đến các sự bất hạnh trên thế gian. Ta đi trong cõi đời, ta chỉ bận tâm đến sự tồn tại của ta.

Chỉ nhìn những con rắn khô cuộn bó lại là chưa đủ với ta. Ta muốn tìm thấy một con sống, học cách nhận ra chúng để tự bảo vệ chống lại chúng.

Cuối cùng ta đã thấy hai con ở chân núi Phạn Tịnh, vương quốc rắn độc, tại một trạm kiểm soát của khu bảo tồn tự nhiên, thu hồi lại từ tay một người vào núi bắt trộm rắn, nhốt trong chuồng lưới sắt và ta đã có thể ngắm nhìn tường tận.

Tên khoa học của chúng là phúc xà nhọn môi. Hai mẫu vật này dài một mét, không to bằng cổ tay người, có một khấu đuôi rất nhỏ. Người chúng phủ đầy hoa văn tam giác nâu sẫm và xám xen nhau không rõ rệt lắm cho nên còn một tên gọi khác, “rắn bàn cờ”. Nhìn bề ngoài không thấy được tính hung ác của nó. Thu mọp thân hình lại ở trên một hòn đá trên núi, chúng nom giống như một hòn đất. Khi quan sát gần, cái đầu hình tam giác mầu nâu xỉn, cái mồm nhọn mọc thêm một mẩu vẫy giống lưỡi câu ở đầu cùng, đôi mắt thảm đạm đã đem lại cho chúng một vẻ hài hước mà lại tham tàn, cái vẻ không tránh khỏi cứ gợi đến một vai hề trong Kinh kịch. Chúng không trông vào thị giác để dò mồi. Giữa mồm và mắt chúng có một cái lỗ, đó là cơ quan nhạy cảm với nhiệt độ, đặc biệt với tia hồng ngoại, nhờ thế chúng có thể thấy được nhiệt độ thay đổi tới một phần hai mươi độ ở trong vòng ba mét chung quanh. Chỉ cần một con vật có thân nhiệt cao hơn thân nhiện chúng xuất hiện quanh quẩn là chúng liền có thể phát giác và tấn công. Các chi tiết này về sau một chuyên gia về rắn cắn ở khu bảo tồn tự nhiên mới tiết lộ với ta, khi ta vào dẫy núi Vũ Di.

Cũng con đường ta đi ấy, ở thượng lưu sông Thân, nhánh của sông Nguyên, nước sông Cẩm Giang không bị ô nhiễm mà chảy mạnh. Nước sông cứ trong vắt như vậy, đặc biệt trong. Trẻ trâu thả mình cho dòng nước cuốn dạt thẳng tới bãi sông dưới xuôi nữa vài trăm mét rồi mới dừng lại. Tiếng chúng truyền lại lanh lảnh.

Dưới vệ đường, một cô gái trẻ trần truồng tắm sông, thấy chiếc xe khách đi ngang qua, nàng đứng thẳng lên như một chiếc cò trắng, quay đầu lại rồi ngẩn mãi ra nhìn. Dưới nắng trưa cháy bỏng, ánh sáng phản quang trên nước chói lóa. Các cái đó dĩ nhiên chẳng dính dáng gì tới con rắn kỳ.

Người gõ: rinshou; o0AmI0o; yatrau; Lize; quang284; quyenthoai; picicrazy; xiaoquiao2711
Nguồn: e-thuvien
Được bạn: Mọt sách đưa lên
vào ngày: 5 tháng 12 năm 2011