CHÂN TƯỚNG
Tháng Bảy năm 2009.
Đúng sáu giờ, chiếc Innova do tay Năm lái xe, mà hiện chúng tôi đã biết tên là Năm Được, chở chiếc tiểu bằng gốm đựng hài cốt anh Khôi, vợ chồng tôi, vợ chồng Vinh, Tuấn Phúc và Tư Bông rời nghĩa trang, theo con đường đất vẫn ướt mưa ra đến đường nhựa lớn, dẫn vào trung tâm thành phố. Nhưng thay vì rẽ phải, chiếc xe lại rẽ trái, ai cũng biết nếu về nội thành thì như vậy là đi đường vòng.
Tôi hỏi:
- Tại sao?
Tư Bông nói:
- Xe mình chở hài cốt phải đi một đường, về một đường, để hồn không biết đường trở lại. - Dường như thấy lý do không thật thuyết phục, cô ta nói thêm. - Với lại giờ đã bắt đầu giờ cao điểm, mình chọn đường vắng tuy xa nhưng lại nhanh và an toàn hơn.
Đường từ nghĩa trang về bắt đầu có xe cộ hoạt động, nhưng vẫn còn rất vắng, vậy mà dường như Năm Được vẫn cố ý đi vào những đường nhỏ, quanh co. Về đến khách sạn, tôi nhìn đồng hồ, nói với Tư Bông:
- Đằng nào cũng ăn trưa ở Huế rồi mới đi, tôi muốn gọi điện thoại cho mấy người bạn cùng trung đoàn Mai Siu với anh Khôi, báo việc bốc hài cốt đã xong và mời các anh ấy đến quán, ăn bữa cơm chia tay cho có trước có sau.
- Thế cũng được. - Tư Bông dễ dãi tán thành, song lại đổi ý ngay tức khắc. - Nhưng cô chú vừa trả phòng, vừa chờ đón các chú ấy, lại còn ăn cơm, con sợ không kịp, vì xe chạy một mạch từ Huế ra Hà Nội, mình anh Năm đi không nổi, nên đến Ninh Bình, nghỉ ăn tối, còn đổi lái… Kéo trễ thêm một giờ ở Huế, con sợ không về kịp Sóc Sơn trước khi trời sáng… Giá nào mình cũng phải đặt bác Khôi vào huyệt nghĩa trang trước khi mặt trời mọc.
Chúng tôi không thể nào khác ý, vì chặng dài từ Huế ra Hà Nội bằng đường bộ chúng tôi mới trải nghiệm lần đầu, dù giàu trí tưởng tượng đến đâu, chúng tôi cũng không hình dung nổi. Thế là, về đến khách sạn, ai nấy vội vàng trả phòng. Vợ chồng tôi chia tay với Tuấn Phúc để cháu về Sài Gòn, còn vợ chồng Vinh bay trước về Hà Nội để báo cho chính quyền địa phương và họ hàng ở quê chuẩn bị đón hài cốt.
Vinh nói:
- Về phần hài cốt, có lọ Penicillin thì mình tin rồi, nhưng việc cô ta có ý tránh né chuyện đi đường, em vẫn đánh dấu hỏi.
Tôi nói:
- Đến bây giờ vẫn nghi nữa thì chẳng còn gì để tin. Mấy vụ tìm hài cốt bằng ngoại cảm, tuy không bị cấm nhưng vẫn không được công khai hợp pháp, nên việc họ tránh né có thể hiểu được.
Thế là chiếc Innova của Năm Được lầm lì, có Tư Bông ngồi cạnh, chở chiếc tiểu bọc lá cờ đỏ sao vàng đựng hài cốt anh Khôi trang trọng đặt ở băng ghế giữa, còn vợ chồng tôi ngồi băng ghế sau, rời khách sạn, tạm biệt thành phố Huế thẳng theo Quốc lộ 1 ra Bắc.
Trên đường đi, tôi gọi điện thoại cho Nguyễn Quang Hà và Quốc Toản báo vụ tìm hài cốt anh Khôi được tiến hành tốt đẹp. Lọ Penicillin có tên anh Khôi được tìm thấy trong mộ là bằng chứng tin cậy. Tôi cũng xin lỗi Hà và Toản, vì phải đi gấp ra Hà Nội kịp với giờ hẹn đón tiếp của họ hàng và chính quyền địa phương, nên không thể ghé gặp bạn bè nói lời cảm ơn. Nguyễn Quang Hà và Toản cùng chúc mừng vợ chồng tôi.
Trời về chiều dịu mát, xe chạy đến Thanh Hóa, vợ tôi nôn nao cảm xúc, nói với Tư Bông:
- Đây là nơi suốt một thời niên thiếu của tôi, nên mình ghé vào quán nào vừa ăn, vừa nghỉ chân, cho đỡ nhớ.
Tư Bông vui vẻ:
- Con cũng đói lắm rồi. Hóa ra cô quê Thanh Hóa, thế mà con cứ tưởng cô dân Sài Gòn… Thanh Hóa có nhiều chỗ ăn ngon. - Cô ta nói với Năm Được. - Anh vào hẳn trung tâm, thấy quán nào sang, ghé giùm em. - Nhưng xe đi được một đoạn, cô ta lại như sực nhớ. - À! Xin lỗi cô chú. Con quên là đã hẹn cậu lái xe đón con ở Ninh Bình để đổi lái cho anh Năm… Anh Năm à… Mình dừng ở Thanh Hóa có phiền không?
Lần đầu tiên, tôi thấy Năm Được mở miệng, làu bàu:
- Chỉ có cách gọi điện bảo thằng Ba nhảy xe đò từ Ninh Bình về đây.
Tư Bông thở dài:
- Nếu thế thì về đến Hà Nội quá trễ.
Tôi đưa mắt cho vợ, rồi nói với Tư Bông:
- Thôi, quên vụ ăn ở Thanh Hóa đi… Tất cả dồn cho việc đến đích Sóc Sơn đúng giờ.
Tư Bông quay lại nói với vợ tôi:
- Không phải con làm khó, nhưng xin cô thông cảm với con. Theo con, cô chú cứ đưa bác Khôi về Sóc Sơn đâu đấy, thừa thời gian thì cô chú trở lại Thanh Hóa, muốn chơi bao lâu cũng được.
Trời bắt đầu tối. Xe chạy hai chiều trên đường vãn dần, phải dùng đèn pha soi đường. Đi quá Thanh Hóa chừng hai chục cây số, đến một ngã ba. Đường rẽ trái có vẻ là tỉnh lộ men theo lườn đèo. Bên phải ngã ba là dải đất nâu khô cằn, dài, rộng chừng vài ngàn mét vuông, được hình thành có lẽ từ việc chặt phá dải rừng bạch đàn cằn cỗi phía sau, để mọc lên dãy hàng quán gồm mấy căn nửa nhà, nửa lán, mái tôn, mái tranh đan xen, tạm bợ, đèn điện tù mù, ôm dọc mặt tiền phía trước. Những căn rộng dùng làm nhà hàng. Còn lại là chỗ bơm sửa xe, quán giải khát… Trước cửa các hàng quán, một dãy những chiếc xe vận tải lớn, nhỏ và mấy người xe ôm đang tán gẫu, chờ khách. Không khí ngã ba lễnh loãng lọt giữa cảnh núi rừng ảm đạm khiến chúng tôi có cảm giác ngài ngại, nhưng đây dường như lại là chỗ quen thuộc của Năm Được và Tư Bông.
Chiếc Innova lượn vào đậu trước một cửa hàng ăn. Tư Bông nói:
- Giờ cô chú xuống đây, vào rửa mặt mũi, rồi ăn cơm. Thằng Ba đón xe này chạy tiếp, nhưng do chờ lâu quá lại chạy đi công chuyện, chắc hơn giờ nữa mới quay lại. Vậy cô chú ăn uống, nghỉ ngơi thư thả rồi mới đi cũng có cái tốt.
Tôi nói:
- Hai người cùng đi suốt từ Huế, giờ cùng ăn với chúng tôi cho vui đi.
- Con cảm ơn cô chú, nhưng xin cô chú cứ tự nhiên. Đi thế này, bọn con không mấy khi ăn chung, để khách được thoải mái. Với lại hôm nay, xe chở hài cốt, bọn con cùng phải ăn chay, nên đã mua bánh chay từ Huế. Quán ở đây tuy sơ sài nhưng vừa ngon, vừa rẻ, bọn con mới dừng, chứ quá lên chục cây là thị trấn, cũng có nhiều nhà hàng, giờ này toàn đồ nguội, nhân viên nghỉ hết, biết cô chú Sài Gòn ra, nó chém mắc, mình ăn vào còn đau bụng.
Tư Bông chỉ vào bãi đất trống tối om nằm phía sau dãy quán, kế với dải rừng bạch đàn:
- Xe bọn con vào đậu trong kia, cô chú cần gì cứ nhấn điện thoại là bọn con ra liền.
Dứt lời, Tư Bông vào xe, đóng sập cửa. Chiếc xe lập tức chuyển bánh chạy vòng vào bãi đất. Qua ánh quét của đèn pha chiếc Innova, chúng tôi mới nhận ra sức sống thật của ngã ba này, không ít xe hơi bốn chỗ, xe gắn máy đậu đỗ và người tụ tập nhiều hơn hẳn ngoài mặt tiền, nhưng khung cảnh vẫn âm thầm và thiếu sáng.
Thực sự, chúng tôi rất miễn cưỡng khi bỗng nhiên bị bỏ lại bơ vơ trong cái quán tạm bợ. Nhưng vừa mệt, vừa đói, nên đành kéo ghế ngồi và gọi đồ ăn. Cơm nguội, xào nguội và canh cũng nguội… Người phục vụ là một phụ nữ phốp pháp khoảng bốn mươi tuổi, mặt dữ như bà chằng.
Tôi chặc lưỡi bảo vợ:
- Đã trót vào đây rồi, cứ nhắm mắt mà ăn cho qua đi…
Đang ăn, trời bỗng đổ mưa nhẹ. Vợ tôi đứng dậy:
- Có khi anh Khôi bị lạnh, để em ra đắp thêm tấm mền cho anh ấy.
Vợ tôi chỉ đi chừng nửa phút, đã hớt hải quay lại. Tôi hỏi:
- Chuyện gì thế?
Vợ tôi nói:
- Quá sức bậy bạ. Chúng nó đang làm tình trên xe.
- Chúng nó là ai? Xe nào?
- Còn xe nào nữa. Thằng Năm Được và con Tư Bông… Xe lại đang chở hài cốt anh mình.
- Em có nhìn nhầm không?
Tôi đứng phắt dậy, định ra ngay chỗ xe đậu. Vợ tôi nói:
- Nó không đậu chỗ cũ mà đưa xe vào trong rừng bạch đàn.
- Em cứ ở đây. Mình anh đi được rồi.
Đứng từ trong quán nhìn thì tối, còn ra bãi đất, đầy mùi thức ăn rẻ tiền: mực nướng, lạc rang, trứng vịt lộn… với mênh mông đủ thứ đèn dầu, đèn pin, có nơi chỉ thắp bằng mấy cây nhang, từ các mẹt, thùng bán lẻ thuốc lá, đồ nhậu, đủ loại ánh sáng lập lòe như một rừng ma trơi. Người mua cũng như kẻ bán đều lặng lẽ như ở chợ âm phủ. Tôi không khó nhận ngay ra hai chiếc Innova đậu cạnh nhau trong rừng bạch đàn.
- Anh Hai tìm mái tơ hả? - Tôi định đi tới hai chiếc xe thì một gã thanh niên bất thần hiện ngay trước mặt như một bóng ma.
- Tôi ra xe của tôi.
- Việc gì anh Hai phải ra xe. Ở đây có bãi đáp xịn như khách sạn ngàn sao, giá cũng rẻ như bèo. Anh cứ theo em, tất cả đảm bảo an toàn như nhà anh.
Một cô gái trẻ mặc đồ bộ, tất cả đều thả lỏng, cũng từ bóng tối lả lơi bước ra, quàng cổ tôi:
- Anh theo em.
Tôi dứt khoát tránh cả hai bằng cách quay nhanh trở lại quán, mượn chiếc đèn pin, bật sáng, rồi cùng vợ đi ngang bãi đất, ra thẳng rừng bạch đàn. Cả dãy xe dài đủ loại đều đậu sâu trong hàng cây, cách nhau chừng một mét, đầu xe quay ra ngoài. Chúng tôi cùng đứng trước hai chiếc Innova. Tôi hỏi:
- Xe nào?
Vợ tôi lúng túng:
- Có lẽ xe này.
- Tại sao lại có lẽ?
- Vì còn cách mấy mét, vừa thấy chúng nó ở trong xe, ngay ghế Tư Bông ngồi cạnh lái xe, em về quán gọi anh ngay.
Hai chiếc Innova giống hệt nhau, đến tôi dân gốc trong nghề ô tô cũng không phân biệt được. Số xe của Năm Được, tôi không để ý từ đầu. Nhưng biển số xe Thành phố Hồ Chí Minh là năm mươi thì tôi biết. Tôi đi thẳng đến chiếc xe biển số 50B, soi đèn pin vào hàng ghế thứ hai, thấy chiếc tiểu phủ lụa đỏ đựng hài cốt anh Khôi vẫn nằm đúng chỗ, chiếc ghế phụ cạnh lái xe không có dấu hiệu thay đổi. Tôi nói với vợ:
- Em nhớ kỹ lại xem, lúc nãy ra đây, có một hay hai xe Innova?
Vợ tôi thiếu hẳn tự tin:
- Em không để ý một hay hai, nhưng rõ ràng em thấy tận mắt… Không lẽ lúc đó em bị ma ám?
- Không phải chuyện ma quỷ gì ở đây, mà là phải biết rõ, để không nghi oan cho họ.
- Thế thì có thể chuyện xảy ra ở chiếc xe bên cạnh, chứ không phải xe mình.
Tôi cũng thấy nhẹ lòng với cách giải thích thiên về tâm lý vì không muốn mối quan hệ với Tư Bông bị xấu đi.
Hai vợ chồng về lại quán cơm thì thấy Tư Bông đang ngồi ở bàn với một gã thanh niên gầy gò khoảng ngoài ba chục tuổi.
Tư Bông vội vui vẻ giới thiệu:
- Đây là chú Ba Đảo sẽ chạy tiếp cho mình về Hà Nội.
Tôi hỏi:
- Chú Năm đâu?
- Tiện có xe xuôi Sài Gòn, ảnh quá giang về luôn rồi.
Cũng như Năm Được, Ba Đảo lì lì, không chào không hỏi, không nói không rằng, lẳng lặng rời quán đi xuyên bãi đất về phía chiếc Innova đậu ở rặng bạch đàn, bật đèn kiểm tra, rồi nổ máy chạy lại đậu trước cửa quán.
Tư Bông nói:
- Mình đi được chưa ạ?
Vợ chồng tôi cùng lặng lẽ lên xe.
Lúc này đã quá nửa đêm, đường đầy sương lạnh và vắng. Ba Đảo cho xe chạy trên 100 km/giờ. Chỉ một lúc, Tư Bông đã thông thạo kéo chốt ngả lưng ghế, thoải mái duỗi người nằm thẳng cẳng, che tấm khăn lên mặt ngủ một cách say sưa.
Từ hàng ghế sau nhìn lên thấy chiếc ghế cạnh lái xe nay đã thành chiếc giường, với tư thế đang nằm ngửa của Tư Bông, rồi nhớ về nhận định ban đầu của tôi khi gặp ở Sài Gòn, rằng cô ta là kiểu người đàn bà không đàng hoàng, thì dù đã cố củng cố niềm tin ở một nhà ngoại cảm, tôi vẫn phải lăn tăn rằng rất có thể vợ tôi không nhìn nhầm vụ cô ta và Năm Được đã làm tình trên xe. Nếu đúng vậy thì chúng quá bậy bạ khi trên xe có hài cốt của anh tôi… Nhưng chuyện tìm thấy hài cốt của anh tôi là có thật. Không chỉ vợ chồng tôi mà cả vợ chồng Vinh cùng hết sức tỉnh táo cũng phải thừa nhận sự thật. Lọ Penicillin tìm thấy trong huyệt vẫn đang nằm trong túi áo ngực tôi. Hai xu hướng đánh giá về Tư Bông lặng lẽ giằng co trong đầu tôi, suốt dọc đường xuyên đêm… Rồi mệt quá, tôi cũng thiếp đi.
Khi nghe tiếng chuông điện thoại di động reo, tôi mới sực tỉnh. Thế Vinh gọi từ quê, chính xác là từ thôn Lập Chí, xã Minh Trí, huyện Sóc Sơn, Hà Nội (tên cũ là Kim Anh, Vĩnh Phúc).
- Xe ra đến đâu rồi?
Tôi đưa mắt nhìn quanh, thấy trời vẫn còn tối:
- Vừa qua khỏi cầu Thăng Long, sắp rẽ vào Phúc Yên. - Tôi nhìn đồng hồ, đã hơn năm giờ sáng. - Ở nhà thế nào rồi?
Vinh nói:
- Gia đình, họ hàng, đại diện chính quyền địa phương đã đông đủ từ bốn giờ ở khu mộ gia tộc. Anh bảo lái xe đi thẳng đến đấy. Chú Lương mời được cả hội các sư của chùa Đại Phúc đến tụng kinh gọi hồn.
Tôi nói:
- Ban đầu đã nhất trí để anh Khôi ở nghĩa trang liệt sĩ kia mà?
- Nhưng chú Lương và các cụ bàn đi tính lại, anh Khôi là đích tôn và trưởng dòng họ Nguyễn Hữu. Tham khảo thêm mấy ông thầy đều nói: “Để anh ấy ở nơi khác là hồn tiếp tục phiêu bạt, dòng họ sẽ gặp họa nhiều hơn phúc”, nên quyết định không đưa anh ấy về nghĩa trang liệt sĩ. Lễ hạ huyệt diễn ra lúc bảy giờ sáng.
Tôi hỏi Tư Bông:
- Hạ huyệt lúc bảy giờ được không?
Tư Bông:
- Con đã nói rồi. Hạ huyệt trước khi mặt trời mọc thì hồn mới yên, còn làm lễ lúc nào cũng được.
Khu mộ gia tộc Nguyễn Hữu thuộc họ nội nhà tôi nằm trên một dải đồi nhỏ ở bên hông, khúc giữa làng, mé trong kề với khu dân cư, mé ngoài trông lên dãy núi Thằn Lằn, Tam Đảo, đến thời điểm đưa anh Khôi về an táng là đời thứ tư. Đời thứ nhất là thời cụ nội tôi, cụ Tổng Định: Nguyễn Hữu Định, từ Bắc Hồng, Đông Anh, Hà Nội di dân lên Phúc Yên với ước mơ lập ấp dân trí, giàu nghèo bình đẳng. Hồi đó, dải đồi làm nghĩa trang này có lẽ xa làng. Sau nhiều chục năm, dân số đông lên, xóm làng nảy nở, nghĩa trang giờ nằm gần sát ngã ba trung tâm. Bởi vậy, chiếc xe chở hài cốt đi dọc con đường làng láng bê tông, vừa rẽ trái đã thấy đám đông cả trăm người tụ tập ở khu mộ gia tộc.
Họ nội nhà tôi ở vùng trung du, đất đỏ đá ong, lâu đời mấy cũng chỉ tản rộng rồi lan xa chứ không quần tụ đông đúc, nên bình thường làng xóm vắng vẻ, nhưng hễ có dịp giỗ chạp, cưới xin, tang lễ, hội hè là đông kín đường làng, ngõ xóm. Gia đình tôi tuy sống ở Hà Nội từ đầu những năm 1930, khi bố tôi rời quê ra Hà Nội làm việc cho nhà xuất bản Mai Lĩnh của bên ngoại, nhưng tính trong gia tộc, bố tôi là con cả của ông cả, là đích tôn của dòng tộc, anh Khôi là con cả của bố tôi, là cháu đích tôn, giờ là liệt sĩ, hài cốt được rước từ miền Nam ra, cả họ hàng, gia tộc đều rất trân trọng.
Chính vì vậy, khi chiếc xe chở chúng tôi vừa xuất hiện ở đầu ngã ba, bà con họ hàng đã ùa tới vây quanh, khiến xe không sao đi tiếp… Những tiếng khóc, tiếng kêu tên anh Khôi huyên náo của vùng đồi:
- Khôi ơi là Khôi ơi! Sao hơn bốn mươi năm, bây giờ cháu mới về hả Khôi ơi là Khôi ơi!...
- Cháu tôi đâu! Cháu tôi đâu? Bao nhiêu năm nay, cháu tha phương mãi tận nơi nào, cháu ơi!
Do xe không đi tiếp được nên chiếc tiểu phủ quốc kỳ phải chuyển ra khỏi xe để bốn thanh niên mặc lễ phục quân đội khiêng dọc đường làng về khu mộ.
Vợ chồng tôi và Tư Bông đi theo phía sau chiếc tiểu.
Tư Bông thoáng sững lại khi thấy có bốn nhà sư mặc cà sa vàng đứng đón chiếc tiểu ở cổng nghĩa trang.
Tôi hỏi ông Lương, là ông chú kiêm quản lễ ở xã:
- Đặt hài cốt ở đâu?
Ông Lương chỉ vào chiếc bục gỗ mới đóng ở mảng sân chật phía trước các dãy mộ:
- Đặt ở đây, để các sư tụng kinh gọi hồn, rồi Ủy ban xã làm lễ tuyên dương liệt sĩ rồi mới đưa xuống huyệt.
Tôi nói:
- Nhưng cô thầy ngoại cảm bảo phải hạ huyệt lúc sáu giờ.
Ông Lương nhìn Tư Bông:
- Thầy là thầy ngoại cảm hả? Các sư ở đây xem giờ, nói bảy giờ mới hạ huyệt thì ai đúng? - Thấy Tư Bông lúng túng, ông Lương cũng không làm khó. - Nếu làm ngay sáu giờ, không biết có kịp không? Mời thầy ra đây để trao đổi với các sư.
Tư Bông vội nói:
- Không cần đâu ạ. Nếu các sư đã chọn giờ rồi thì cứ theo giờ của các sư… Giờ rất quan trọng, nhưng cái chính là ở tâm và lời nguyện, các sư ở đây chắc đã tính hết rồi.
Tư Bông lùi lại không đi theo chiếc tiểu nữa. Vợ chồng tôi cũng đứng lại theo. Tôi hỏi:
- Giờ chị phải làm gì nữa?
- Từ đây đến lúc xong lễ, các sư và xã làm hết rồi… Như vậy, việc của con đến đây là xong.
- Thế thì chị vào nhà ông chú tôi uống nước, nghỉ ngơi, ăn trưa với gia đình chúng tôi rồi hãy về.
Tư Bông thoái thác:
- Chắc cô chú cho con về luôn. Trên đường về chỉ có lái xe là mệt, chứ xe chạy một khúc là con ngủ ngay ấy mà. Con vẫn còn mấy cuộc hẹn…
Biết không thể giữ Tư Bông lại được, vợ tôi nói:
- Nếu chị quyết đi, tụi tôi cũng không giữ được. - Vợ tôi liền mở xách tay. - Giờ chúng tôi thanh toán cho chị… Phải nói là chúng tôi vô cùng cảm kích chị đã giúp chúng tôi tìm được hài cốt anh tôi.
Tư Bông nói:
- Thực ra, con làm việc này không phải kiếm lợi mà giúp mọi người là chính… Ông trời thương cho con khả năng ngoại cảm, thì con phải có trách nhiệm giúp đời… Nên con chỉ xin cô chú mười triệu.
Tôi hỏi lại:
- Bao nhiêu?
- Thưa! Mười triệu.
Về vụ tiền công, thật ra chúng tôi muốn hỏi Tư Bông ngay từ đầu một cách sòng phẳng, để vừa dự tính chi phí, vừa là thước đo thăm dò tâm lý, nhưng rồi, chúng tôi quyết định không hỏi vì tính tế nhị. Tuy nhiên, trong thâm tâm, chúng tôi cũng đã dự tính ít nhất cũng phải trả cô ta hai mươi triệu đồng. Vì thế, tôi buột miệng:
- Chị đi với chúng tôi gần một tuần mà.
Ánh mắt Tư Bông thoáng dao động như nhận ra sự hớ hênh của mình với con số mười triệu:
- Con lấy của người khác thế nào thì lấy của cô chú như vậy, nhưng nếu cô chú thương, cho thêm chút đỉnh, thì con cảm ơn.
Vợ tôi đưa thêm Tư Bông hai triệu đồng. Rồi cùng tôi chia tay Tư Bông, đi nhanh vào nghĩa trang.
Gặp Vinh ở trong nghĩa trang. Vinh hỏi:
- Sao Tư Bông không vào lo gọi hồn?
- Cô ta nói phần đó có các sư lo rồi, nên xin phép về sớm.
- Anh chị trả cô ta bao nhiêu?
- Cô ta đòi mười triệu đồng.
- Ở ngoài này, gọi hồn phải trên dưới hai chục triệu đồng. Tiền công thì thuận mua vừa bán, mình trả mười là xong rồi, nhưng tìm được hài cốt anh Khôi là vô giá, nên theo em, mình nên đưa cô ta thêm năm triệu đồng, tức là phần hồn, mình cũng hết nợ.
Vợ tôi thấy có lý, liền đi ngược ra chỗ chiếc Innova vẫn đỗ ở ngã ba. Nhưng chỉ một lúc, vợ tôi lại trở vào cùng với Tư Bông.
- Còn có chuyện gì nữa? - Tôi hỏi.
Tư Bông nói:
- Chuyện này, con định chờ cô chú về Sài Gòn mới nói, nhưng vừa rồi cô ra đưa con thêm năm triệu, con vô cùng cảm ơn, song cũng tiện vào nói luôn với cô chú.
- Chị cứ nói, đừng ngại.
- Nguyên vụ gọi hồn bác Khôi, từ Sài Gòn, ra Huế, con gọi và gặp bác ba lần. Nếu là người bình thường, vậy là xong rồi. Nhưng do cô chú quá tốt với con, nếu con giấu cô chú là con có tội, nên con phải nói sự thật là hồn bác Khôi ở cõi âm nhiều năm nay vẫn bị một con quái vật nó khiến. Lúc bình thường thì không có chuyện gì, nhưng lúc bị khiến, bác ấy sẽ quậy, gây cho cô chú rất nhiều tai họa. Cô chú thử nghĩ xem, mấy chục năm qua, nhà mình có bị tai họa không? Nếu không, thì có thể vong báo sai.
Tôi không thể nghĩ ngay về những tai họa, nhưng thoáng chột dạ:
- Chị cứ nói tiếp. Chuyện tai họa phải bình tĩnh mới nghĩ đúng được.
- Chính vì những tai họa này sẽ ám cô chú suốt đời, nên muốn xóa thì phải gọi hồn bác Khôi về thêm lần nữa để đuổi con quái vật đi.
- Gọi hồn thế nào?
- Con sẽ làm tại bàn thờ bác Khôi ở Sài Gòn. Sau khi đuổi được quái vật đi, con đảm bảo các ông bà và bác Khôi từ nay sẽ phù hộ cô chú và gia đình ăn nên làm ra, quan lộc thuận lợi, tiền vào như nước.
Tôi suy nghĩ rồi nói:
- Hài cốt anh tôi đã tìm thấy và đưa được về quê là xong rồi. Nay bỗng nhiên chị nói phát sinh chuyện khác, khiến chúng tôi phải cân nhắc, nhưng thấy chị quá nhiệt tình... mà có thờ có thiêng, có kiêng có lành, nên chị cứ gọi hồn thêm lần nữa đi.
- Nhưng lần này là gọi hồn đuổi tà, xua quỷ, khác với ba lần trước. Con quỷ này lại là quỷ dữ, mấy chục năm qua nó đã là ông chủ của bác Khôi, muốn đuổi nó, phải dùng loại ngải thiêng của thầy bùa tận Thái Lan nhập về, tính ra khá mắc.
Tôi hỏi:
- Mắc là bao nhiêu?
- Thưa! Cả tuần qua, cô chú đã quá tốt với con, nên về tiền công, cô chú cho bao nhiêu cũng được mà không cho cũng không sao, con chỉ xin đúng số tiền con nhập ngải từ Thái Lan về là năm nghìn đô-la.
Tôi nói:
- Năm nghìn đô tương đương hơn trăm triệu tiền Việt. Đây là con số chúng tôi phải cân nhắc đấy.
- Ngải Thái thứ thiệt, đúng giá phải hơn sáu nghìn, nhưng do con quen, họ chỉ lấy giá gốc.
Vợ tôi nói:
- Quá mắc như thế, chắc bọn tôi không theo đâu.
- Việc này tùy cô chú. Con chỉ nghĩ con đã đưa được vong bác Khôi về đến đây rồi mà không làm tiếp việc giải vong bác khỏi xiềng xích quỷ dữ, bác ấy về quậy, nhà mình sẽ phải chịu những tai họa không đáng có.
Thấy vợ tôi định phản ứng, tôi đưa mắt ra hiệu làm thinh, rồi nói với Tư Bông:
- Nếu chúng tôi đồng ý, chị giải quyết thế nào?
- Cô chú tạm ứng trước ba nghìn để con về Sài Gòn lấy ngải. Khi cô chú về đến Sài Gòn, con sẽ đến nhà làm lễ ngay… Vong đã không cúng thì thôi, mà đã cúng, lại không theo đến cùng, nó phản lại thì tệ hại hơn.
Vợ tôi sợ tôi dễ dãi, vội đưa mắt ra hiệu. Tôi biết ý, nói:
- Việc gọi hồn lần thứ tư mà chị vừa nói, nếu tạm ứng vài trăm đô, bọn tôi có sẵn, nhưng tới ba nghìn đô thì không thể có ngay.
- Uy tín lớn như cô chú không lẽ không vay tạm ai ở ngoài này?
- Quyết vay thì cũng có thể vay được, nhưng vụ gọi hồn tốn kém như thế, vừa nghe đã theo ngay là vội vàng, nên bây giờ đang bận an táng anh Khôi, chị để chúng tôi về Sài Gòn, bình tĩnh cân nhắc, rồi sẽ gọi cho chị trong thời gian sớm nhất.
Tư Bông hơi ngẩn mặt, nhưng rồi sớm nhận ra sự việc không thể tiến xa hơn, liền chấp nhận:
- Vậy con về Sài Gòn nhận tạm ứng cũng được… Thực ra, con muốn làm sớm cũng vì cô chú, vì bác Khôi… Chuyện gọi hồn thuộc thế giới người âm chỉ con biết, chứ người dương cứ nghĩ như người dương thì không bao giờ gặp nhau, có khi chỉ gặp họa. Vậy con đi nghe, cô chú.
Nhìn chiếc Innova đi khuất khỏi ngã ba đường làng, vợ tôi nói:
- Em nghi mình bị lừa. Lúc ra đưa thêm năm triệu, em thấy cô ta ngồi trên xe đang nói chuyện điện thoại với Năm Được về chuyện tiền nong và gọi hồn lần thứ tư… Lúc cô ta trở vào gặp anh, thấy anh có vẻ đồng tình, em lo quá.
Tôi nói:
- Lúc nghe đến năm nghìn đô, là một khoảng rất xa với mười triệu đồng, anh thấy ngay cô ta đã lộ ra là vừa tham vừa vụng, nhưng muốn sòng phẳng cũng phải khéo, mà cũng không nên đẩy sự việc đi quá xa vào lúc đông đảo cả họ và chính quyền địa phương đang tập trung vào lễ an táng…
Vợ tôi lo lắng:
- Nó gian vụ tiền nong, liệu có gian vụ hài cốt?
Tôi sững người như vừa bị điểm huyệt. Nếu vụ hài cốt bị lừa thì thật là kinh khủng, khi cả gia tộc lẫn chính quyền cùng bà con trong xã đang trân trọng, hết lòng cho buổi lễ đón rước và an táng… Đúng là từ khi gặp Tư Bông ở Sài Gòn đến suốt thời gian ở Huế, rồi buổi tối tại bãi xe giữa đường ở Ninh Bình, không ít lần trong chúng tôi đã có những nghi ngờ, nhưng rồi chính chúng tôi lại gạt những nghi ngờ đó đi. Tôi rùng mình lo sợ, không dám nghĩ đến đây là trò lừa… May sao, chính lúc đó, tôi sực nhớ ra lọ Penicillin trong túi áo ngực. Trong lọ rõ ràng có tờ giấy ghi tên, tuổi, quê quán, ngày mất của anh Khôi. Mọi chi tiết đều trùng với giấy báo tử. Không hẳn là thở phào, tôi nói với vợ:
- Anh nghĩ, cô ta thấy mình dễ dãi trong vụ thanh toán thì nảy lòng tham, chứ anh tin vụ hài cốt là thật.
Chúng tôi đi trở lại nghĩa trang gia tộc, nơi đang trang trọng diễn ra lễ cầu hồn anh Khôi do bốn nhà sư chùa Đại Phúc chủ trì. Và tuy đã tự trấn an với bằng chứng chắc chắn là lọ Penicillin, lòng dạ tôi vẫn ngổn ngang sự lo lắng. Nếu thật sự đúng là bị lừa thì sao? Tôi, một nhà văn, vợ tôi, một nhà báo, đều thuộc hàng bạc tóc trong nghề. Nguyễn Thế Vinh, một nhân vật thâm niên trong ngành xuất bản, thông thạo đủ loại sách đông tây kim cổ, trong đó không ít cuốn về tâm linh, ngoại cảm, còn Thu Hương, vợ Vinh, là kỹ sư hóa lâu năm tại nhà máy Cao su Sao Vàng nổi tiếng, mà sao cả tin một cách kỳ lạ như thể cùng bị ma dẫn lối, quỷ đưa đường?
Về đến Sài Gòn, tức giận đến ăn không ngon, ngủ không yên, tôi lần hồi nhớ lại từng chi tiết suốt thời gian gặp Tư Bông. Rồi mang lọ Penicillin ra ngắm nghía, nghiền ngẫm. Chiếc lọ đã được rửa sạch từ hôm ở Huế, chất liệu thủy tinh trong suốt thì dẫu chôn cả trăm năm cũng không thể biến màu. Tôi dốc mảnh giấy được cuộn tròn trong lọ, rồi trải phẳng ra. Loại giấy pơ-luya và cả mấy dòng chữ đều có dấu hiệu phai bạc một cách hợp lý theo thời gian, nhưng nó có hợp lý với bốn chục năm hay không, thì tôi không thể biết, và bốn chục năm trong lọ, tờ giấy có mủn hay giòn ra ở mức nào, cũng ngoài hiểu biết của tôi. Còn dòng chữ trên tờ giấy: “Nguyễn Minh Khôi. Sinh năm 1942. Quê quán Lập Chí, Minh Trí, Kim Anh, Vĩnh Phú. Mất 13/2/1970…”, tất cả đều đúng như giấy báo tử. Tôi nhắm mắt hình dung... Sự sai lệch bắt đầu từ giấy báo tử ghi anh Khôi hy sinh ở Mặt trận miền Đông Nam Bộ, trong khi Tư Bông khẳng định anh Khôi hy sinh ở Huế, khiến tôi gọi điện thoại ra Huế hỏi Nguyễn Quang Hà. Rồi từ Quang Hà, ra Quốc Toản và một số đồng đội cùng trung đoàn đóng ở Mai Siu, Hà Bắc với anh Khôi trước khi vào chiến trường miền Nam. Thông tin từ Quang Hà và Quốc Toản không thể sai vì chính tôi đã đến Mai Siu thăm anh Khôi trước ngày anh lên đường. Nếu vậy, Tư Bông nói anh Khôi ở Huế là đúng?
Tôi bần thần ngắm lại tờ giấy ghi tên anh Khôi lấy từ lọ Penicillin… Hai chữ “Vĩnh Phú” trên tờ giấy bỗng gợi cho tôi sự phân vân… và rồi tôi giật nảy người như bị điện giật. Tỉnh Vĩnh Phú nguyên từ ba tỉnh nhỏ sáp nhập lại. Ban đầu là Phúc Yên, sáp nhập với Vĩnh Yên, thành Vĩnh Phúc, sau này, Vĩnh Phúc sáp nhập tiếp với Phú Thọ thành Vĩnh Phú. Năm 1966, khi anh Khôi nhập ngũ, Vĩnh Phúc chưa nhập vào Phú Thọ, nên thế hệ anh Khôi khi khai quê quán đều ghi “Vĩnh Phúc”. Còn khi viết thông tin về anh, đưa Tư Bông, tại sân bay Tân Sơn Nhất, tôi tiện tay ghi “Vĩnh Phú” là viết theo hiện tại. Tư Bông cũng “hồn nhiên” lặp lại đúng như vậy trong tờ giấy bỏ trong lọ Penicillin. Thế là rõ. Tôi choáng váng. Mình đã bị lừa từ đầu tới cuối!
Chúng tôi về Sài Gòn chiều tối hôm trước, thì sáng sớm hôm sau, Tư Bông đã gọi điện thoại:
- Cô chú về Sài Gòn ổn chứ ạ?
- Nói chung là ổn.
- Con phải gọi sớm vì như con nói, phần hồn bác Khôi có điều chưa ổn, nên con lo trên đường về, cô chú gặp tai họa. Giờ nghe chú nói, con cũng mừng… Còn việc cầu hồn trừ tà quái vật cho bác Khôi, con đã chuẩn bị đầy đủ, sáng nay, con đến nhà cô chú luôn nhé?
Đúng ra phải vạch trần chân tướng cô ta, nhưng lòng tôi lúc đó rối như tơ vò, vì rõ ràng hài cốt anh tôi an táng tại nghĩa trang gia tộc ở quê là hài cốt giả, nhưng sẽ phải giải quyết thế nào? Nếu chỉ là đất không với mấy chiếc quần áo cũ, nhất định phải trình bày với chính quyền địa phương và thanh minh với dòng họ, nhưng sẽ nói bằng cách nào cho đỡ ê chề? Chưa biết chừng vẫn phải “tử tế” với Tư Bông cho đến khi hóa giải xong “sự cố” này. Tôi quyết định chọn phương án chưa “lộ bài”.
- Thế này chị ạ! Chúng tôi rất cảm ơn về nhiệt tình của chị, nhưng về đây, tôi có trao đổi với mấy ông thầy quen biết từ lâu, họ nói cúng giải tà thì họ có thể cúng được, nên chúng tôi đã mời họ luôn, chị thông cảm nhé.
Giọng Tư Bông hơi hẫng:
- Cái đó tùy cô chú. Thầy quen có thể chi phí rẻ, nhưng tà độc như trường hợp bác Khôi, phải có ngải độc trị, không phải thầy nào cũng cúng được. Mà cúng không thành, tà nó phản, nhiều khi hại chết thảm cả nhà… Nhưng con chúc cô chú thuận lợi. Nếu có gì trục trặc, chú cứ gọi cho con, con sẽ đến liền.
- Nếu trục trặc, nhất định tôi sẽ gọi.
Tưởng chuyện đến đây chấm dứt, không ngờ sáng hôm sau, Tư Bông lại gọi:
- Ông thầy của chú đã đến chưa ạ?
- Ông ấy hẹn chúng tôi ngày mai.
- Trời! Sao lại ngày mai? Tuổi bác Khôi cúng hôm nay, lúc chín giờ là đẹp nhất, bất cứ giờ nào ngày mai vẫn là ngày, giờ kỵ… Sao ông thầy này kỳ vậy?
- Tôi sẽ hỏi lại ông thầy về chuyện này. Đây là ông thầy rất nổi tiếng…
- Con cũng quen biết nhiều ông thầy nổi tiếng, phần lớn họ suy luận thế giới tâm linh theo lối cổ, bây giờ đều sai hết, vì cõi âm bây giờ khác cõi âm ngày trước rất xa, chỉ thế hệ chúng con mới cập nhật được. Nếu từ chối kịp, con khuyên chú hãy từ chối… Vì mấy ngày đi với cô chú ra Huế, rồi ra Hà Nội, con được cô chú cư xử rất đẹp, lại thấy cô chú ăn ở phúc đức, rất chí tình với bác Khôi, nên con mới hết lòng vì cô chú, chứ cô chú đã chọn thầy khác thì việc của con coi như xong rồi.
- Muốn gì, tôi cũng phải trao đổi với ông thầy đang giúp tôi đã.
- Thưa! Chú cứ gặp ông ấy. Nếu chú không thay đổi quyết định, cũng không sao. Được nói hết những điều tình nghĩa và cảnh báo tai họa với chú là con không còn gì phải áy náy… À! Xin lỗi! Suýt nữa con quên. Cái bùa ngải mua từ mối của người Thái nhập về, nhờ con năn nỉ cô chú là chỗ tình nghĩa, họ hạ từ năm nghìn đô-la xuống bốn nghìn rưỡi, như vậy là quá rẻ…
- Rồi. Sau khi trao đổi xong với ông thầy, tôi sẽ gọi ngay cho chị.
Đương nhiên, không có chuyện tôi gọi điện lại cho Tư Bông. Còn cô ta có gọi cho tôi vài lần nữa, nhưng thấy số điện thoại quen, tôi tắt luôn máy. Dần dần cô ta hiểu ý, không gọi nữa. Mối quan hệ hai bên coi như không còn.