LỰA CHỌN CỦA ANH KHÔI
Năm 1955 – 1958.
Quan hệ giữa bố tôi và anh Khôi từ khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bề ngoài là yên bình và phải đạo, nhưng bên trong, dường như vẫn ẩn náu những sóng ngầm. Tôi biết bố tôi rất thương yêu anh, một thứ tình yêu nhẫn nại và thiên vị, không phải chỉ vì anh là con trai trưởng, là cháu đích tôn của dòng họ Nguyễn Hữu, vì thực tâm, bố tôi trân trọng dòng họ Đỗ Mai Lĩnh ở Xuân Mai, Phúc Yên bên mẹ tôi hơn. Cũng không phải anh Khôi luôn xuất sắc cả trong việc học hành lẫn quan hệ cộng đồng, vì riêng phần này, bố tôi không những không thích mà còn nhiều lo lắng về những biến động khôn lường. Lo lắng đấy, nhưng can ngăn thì không. Đối với những sơ sót của anh trong vụ lao động gây quỹ giúp bạn nghèo ở Phà Đen, vụ “cách mạng” chuồng xí ở Trần Nhật Duật, ông đều tỏ ra rộng lượng, mặc dù sau mỗi vụ, nỗi lo lắng về anh lại chồng chất cao hơn. Trong khi anh Khôi, có lẽ tin rằng mình đã rất hiểu bố nên không nghĩ tới những nỗi lo của bố. Khi sự lo lắng quá giới hạn thì sóng ngầm sẽ nổi lên thành bão.
Năm cuối cấp hai của anh Khôi, trường Chu Văn An của anh tổ chức cho học sinh đi lao động nhiều ngày ở nông trường An Khánh, Xuân Mai, Hòa Bình. Đây là nông trường của anh em bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc sau hiệp định Genève 1954, chia cắt hai miền Nam Bắc. Những ngày sống và làm việc ở đây, anh Khôi, với bản tính quảng giao, chan hòa, luôn thu hút những người quanh mình, đã kết thân được với nhiều người… Sau đợt lao động này, các anh ở nông trường, vào những dịp chiều thứ Bảy, Chủ nhật, kéo nhau về Hà Nội, tụ tập ở Câu lạc bộ Thống Nhất, nằm ở góc đường Lê Thái Tổ, Hàng Trống, nơi dành riêng cho những sinh hoạt, hội họp, của cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết, cách nhà tôi chưa đầy trăm mét. Các anh đều thích kéo nhau về nhà tôi, coi anh Khôi là em kết nghĩa, còn bố tôi thì các anh nhận là bố nuôi. Họ còn nói vui nhà tôi là Câu lạc bộ Thống Nhất 2.
Những năm tháng đó, Hà Nội được gọi là vùng từng bị địch tạm chiếm. Cán bộ quản lý thành phố các cấp, các ngành, hầu hết từ chiến khu về, thường xuyên được nhắc nhở phải tuyệt đối đề cao cảnh giác để không bị “ăn đạn bọc đường”. Còn học sinh từ lớp năm trở lên, mỗi đầu niên khóa đều phải khai lại lý lịch gia đình. Nhà nào có người làm việc hoặc dính líu ít nhiều đến chế độ cũ thì có cố giấu cũng không giấu được, còn nhà có người di cư vào Nam không ai biết thì sống để bụng, chết mang theo. Giờ, được sống giữa những người miền Nam thoải mái, phóng khoáng, nghĩ gì nói đó, kiểu một ngày sống bên nhau cũng là đồng hương, bố tôi như một người khác hẳn, tri âm gặp tri kỷ, ông cũng nghĩ gì nói đó, ôn lại những ngày tháng mình từng sống trong Nam, với các “đồng hương”. Gia đình tôi ảnh hưởng rất nhiều từ nếp sống khắc kỷ và phải đạo bên gia tộc Mai Lĩnh của mẹ tôi, với gam màu chủ đạo là trầm và ít sôi động, nên ngày nào bố tôi vui là cả nhà đều vui. Chính những ngày bố tôi cởi mở cùng các khách từ nông trường, tôi - thằng bé luôn nghe hóng chuyện người lớn - mới biết bố từng làm báo và xuất bản ở Sài Gòn thời mặt trận Bình Dân mấy năm 1936 – 1939; cụ ngoại là Đỗ Văn Phong, nhân sĩ chống Pháp, vượt ngục ở Guyana về, sống rồi mất tại Bạc Liêu năm 1931; cậu ruột Đỗ Hữu Bảo là rể Bến Tre, bộ đội Việt Minh, hy sinh trong kháng chiến chống Pháp 1947; dì ruột Đỗ Thị Doanh làm dâu ở Sài Gòn từ năm 1941… Trước đó tôi chỉ biết chuyện ông bà ngoại, gia đình dì Diệu, cùng gần nửa gia tộc Mai Lĩnh đã di cư vào Nam năm 1954 đang ở Sài Gòn, điều mà hiển nhiên là bố tôi đã dặn có chết cũng phải giấu.
Trong số các khách nông trường Xuân Mai có trung tá Huỳnh Văn Dương, tức Bảy Dương. Anh là dân Sài Gòn - Gia Định ra Bắc tập kết, là cấp phó phụ trách nông trường. Từ việc quý anh Khôi, đến việc biết bố tôi, hai bên trò chuyện mới vỡ ra bố anh cũng là dân làm báo ở Sài Gòn. Sau, anh Bảy được điều về Hà Nội, công tác tại Ban Tổ chức Trung ương, thường xuyên qua lại nhà tôi như người trong gia đình.
Một buổi tối, anh Bảy đến nhà gặp bố tôi. Sau đó, bố tôi gọi anh Khôi ra phòng khách.
- Những ngày qua, bố có nhờ anh Bảy lo một việc hệ trọng về tương lai của con. Vì không biết việc có thành hay không, nên bố vẫn giấu, không cho con biết. Nay việc đã xong, bố mới gọi con để báo tin mừng.
Anh Khôi nhìn anh Bảy:
- Chuyện gì thế ạ?
Bố tôi bảo anh Bảy:
- Con cho em biết đi.
Anh Bảy nói:
- Anh đã thu xếp xong các thủ tục để em nằm trong số một trăm học sinh Việt Nam xuất sắc được cử sang Liên Xô học vào tháng Sáu này. Đây là lứa được Trung ương chủ trương đưa đi đào tạo làm lực lượng kế thừa trong tương lai…
Anh Khôi:
- Thật là quá bất ngờ. Được đến quê hương cách mạng tháng Mười, cái nôi của cách mạng vô sản thế giới, thiên đường của chủ nghĩa xã hội, là mơ ước của bao nhiêu người.
- Như vậy, tháng Sáu này sẽ đi. Tức là ngay từ bây giờ, phải lo các thủ tục giấy tờ ở trường Chu Văn An, rồi cắt chuyển hộ khẩu, làm hộ chiếu xuất cảnh…
Anh Khôi đắn đo:
- Em biết phải rất thương em, anh mới dành được cho em cơ hội đi học này, nhưng em có ý kiến được không?
- Em cứ nói.
- Được đi học em rất mừng, nên để mất cơ hội này, em sẽ rất tiếc. Tuy nhiên, em đang là một Đoàn viên Thanh niên Cứu quốc. Đất nước tuy hòa bình, nhưng vẫn hai miền chia cắt, kẻ thù Mỹ - Diệm vẫn ở bên kia bờ Bến Hải, trong khi miền Bắc đang vô vàn khó khăn về mọi mặt… nên em muốn nhường xuất đi này cho bạn khác… Em sẽ học vào lúc khác… Lúc đất nước cần tuổi trẻ hy sinh và cống hiến, mình lại không có mặt thì em không thể.
Bố tôi quá bất ngờ, gắt:
- Con tưởng đây là chuyện đùa chắc?
Anh Bảy vội xuê xoa:
- Con xin bố bình tĩnh. - Rồi anh tiếp tục nói với anh Khôi. - Em nói về hiện tại của đất nước thì rất đúng và anh càng quý em hơn. Nhưng tương lai thì sao? Nếu ngay từ bây giờ, chúng ta không chuẩn bị lực lượng cho tương lai, khi thống nhất đất nước mới lo thì Việt Nam sẽ tụt hậu so với thế giới.
Anh Khôi:
- Thiếu em thì vẫn có hàng vạn bạn khác giỏi hơn… Riêng phần em, em đang muốn phấn đấu để có những thứ mình đang thiếu.
- Thứ gì?
- Đó là “thép đã tôi trong lửa đỏ và nước lạnh”.
Anh Bảy hơi lặng đi. Còn bàn tay đang đặt trên bàn của bố tôi run lên. Hai mắt ông tối lại.
Anh Bảy vẫn giữ giọng nhẫn nại:
- Anh cũng đọc Thép đã tôi thế đấy và cũng từng sống theo gương Paven. Anh cũng rút ra, mỗi người trẻ chúng ta cần phải sống với cuộc sống thực mà mình đang sống, chứ không phải sống như những khuôn mẫu trong các tiểu thuyết.
Anh Khôi giải thích:
- Em rất hiểu lời khuyên của anh, nhưng vì… vì đầu tháng trước, em đã lên Trung ương Đoàn ghi tên tham gia Đoàn Thanh niên Xung phong Hà Nội lên mở đường trên Lào Cai. - Thấy bố tôi và anh Bảy cùng sững sờ, anh Khôi nói tiếp. - Như vậy, ngoài ý định phấn đấu, em còn đứng trước vấn đề danh dự.
Mặt bố tôi bừng bừng, nhưng ông không to tiếng:
- Sao chuyện lớn này, con không hỏi ý kiến bố?
- Vì con biết bố sẽ không đồng ý.
Anh Bảy khẽ lắc đầu:
- Sao em vội thế? Làm đường thì tìm đâu cũng ra hàng ngàn, thậm chí, hàng vạn người, nhưng những trí thức xuất sắc thì hàng vạn, thậm chí, hàng triệu người mới có một người.
Bố tôi không nén được tức giận:
- Ngay ngày mai, con phải lên Trung ương Đoàn xin rút tên.
Dứt lời, bố tôi đùng đùng bỏ ra ngoài sân. Trước khi ra khỏi phòng, ông còn quay lại chỉ mặt anh Khôi:
- Suốt thời gian qua, bố đã để cho con tự do vì nghĩ đó là thứ tự do hiểu biết, không ngờ lại là thứ tự do mù quáng.
Anh Bảy nói với anh Khôi:
- Bố em tức giận là đúng. Chuyện lớn này, dù biết bố không đồng tình cũng vẫn cứ phải trao đổi.
Anh Khôi ngậm ngùi:
- Em sẽ xin lỗi bố… Và em cũng xin lỗi vì đã từ chối nhiệt tình của anh. - Anh Khôi nghẹn ngào. - Thực ra, em cũng chưa ghi tên đi Thanh niên Xung phong ở Trung ương Đoàn… Trên tất cả, chỉ là em muốn đứng và đi trên đôi chân của mình, không phải dựa vào bất cứ ai.
Anh Bảy hơi ngẩn ra, rồi nói:
- Anh hiểu rồi. Chuyện này, anh sẽ nói chuyện riêng với em sau, để chúng ta cùng tìm ra mẫu số chung.
Rồi anh đi nhanh theo bố tôi ra sân. Không rõ hai người nói với nhau những chuyện gì, một lúc lâu sau bố quay vào, nét mặt bố tôi cũng dịu đi. Anh Khôi vẫn ngồi im ở bàn nước. Có lẽ cố ý chờ bố tôi vào để chịu trận.
Bố tôi ngồi xuống chiếc ghế đối diện:
- Lúc nãy, con nói con hiểu bố là hiểu thế nào?
- Bố là một tấm gương về sự hiểu biết và nhân cách, chúng con cần phải học tập rất nhiều.
Bố tôi cố dịu giọng:
- Thế là con biết một mà không biết mười. Con có biết tại sao năm 1955, tỉnh Phúc Yên có công văn mời bố về nhận lại ruộng đất ở Lập Chí từng bị Pháp chiếm làm vành đai trắng, nhưng bố đã làm văn bản hiến hết cho chính quyền, dù đó là đất ba đời nhà mình lập ấp làm nên, phải đổ bao nhiêu mồ hôi, sôi bao nhiêu nước mắt mới có không?
- Chuyện này con không biết.
- Nhưng con biết chuyện năm 1956 bố bán nhà ở Trần Nhật Duật để đi ở nhà thuê, trả môn bài kinh doanh tạp hóa của cô, trong khi thời buổi kinh tế ngày một khó khăn và đó là nguồn sống rất quan trọng của gia đình đông con như nhà mình không?
- Thưa, con biết.
- Nhưng chắc chắn con không biết tại sao. Bố không nói, làm sao con biết. Giờ bố nói để con rõ. Hồi ở chiến khu Việt Bắc những năm 1947 - 1949, bố ở Cục Quân dược, phụ trách việc thu mua và nhập dược liệu từ Quảng Tây, Vân Nam về cho xưởng chế biến thuốc của Bộ Quốc phòng, nên nhiều lần sang Trung Quốc, thời điểm Đảng Cộng sản Trung Quốc đang thắng thế trước Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch. Bố đã sớm thấy tấn bi kịch nặng nề về sự kỳ thị tầng lớp tư hữu tài sản.
Anh Khôi đã phần nào trấn tĩnh trước sự mềm mỏng của bố:
- Con nghe các anh tuyên huấn nói, ở Việt Nam, nếu có ảnh hưởng cũng chỉ nhất thời.
- Nhất thời là bao lâu? Cải cách ruộng đất, và bây giờ đang bắt đầu cải tạo tư sản... Chắc chắn cái nhất thời đó không chỉ diễn ra một ngày hay một tháng. Nhưng nếu chỉ một ngày, mà ngày ấy rơi trúng nhà mình thì sao?
Anh Khôi ngồi im.
- Bên Trung Quốc, con cái các gia đình không thuộc thành phần công, nông, cán bộ, đều không được vào đại học, mà lùa hết đến các vùng nông thôn, các công, nông trường để cải tạo lao động, nên nhìn vào tương lai các con, bố phải lo cứu từng đứa. Chị Tâm sắp tốt nghiệp Đại học Sư phạm, xấu nhất thì khi ra trường chỉ bị điều đi tỉnh xa, có thể khổ một chút, nhưng cũng coi như thoát. Còn con, được anh Bảy giúp qua Liên Xô, cũng coi là thoát thêm một đứa… Phải ba năm nữa mới đến thằng Tuấn, nhưng với điều kiện bố vẫn được an toàn. Con đừng quên vụ bố bỏ chiến khu về vùng địch vì gia đình đông con, nếu cho qua thì là chuyện nhỏ, nhưng cố ý tính tội, bố không phải là vô tội.
Anh Khôi tiếp tục ngồi im, nhưng nước mắt đầm đìa.
Không khí trong nhà tôi từ hôm đó hết sức nặng nề. Nhưng cũng từ hôm đó, chuyện anh đi Thanh niên Xung phong chỉ có anh bàn với bố, thỉnh thoảng có thêm chị Tâm và anh Bảy Dương, không diễn ra trước mặt trẻ con, nên tôi không biết thế nào. Chỉ biết cuối cùng anh Khôi vẫn đi.
Anh lên đường ở trụ sở Trung ương Đoàn Thanh niên Cứu quốc, 64 Bà Triệu, chỉ có chị Tâm, anh Bảy Dương và phút cuối cùng, người không ai ngờ là anh Bích cán bộ Ban Cải tạo Công Thương nghiệp thành phố, cán bộ miền Nam tập kết, cựu thành viên nông trường Xuân Mai, rất thân với bố tôi, đến tiễn. Tôi với thằng Vinh quá nhỏ để nhận thức đúng về giá trị cũng như có cảm xúc về sự ra đi của anh mình. Chỉ thấy anh rất kiên định về cuộc ra đi giàu sức mạnh lý tưởng, thì mình cũng ngầm đồng tình theo sinh khí của tâm lý thời thế. Chỉ đến năm tôi tốt nghiệp lớp mười, đến lượt tôi ra vùng mỏ Quảng Ninh, rồi Vinh vào Quảng Bình, kế Vinh là Hiển (con lớn của mẹ kế) vào Nghệ Tĩnh, đều là những nơi máy bay Mỹ ném bom ác liệt, hàng chục vạn tuổi trẻ cả nước thành “thép đã tôi trong lửa đỏ và nước lạnh”, mới thấy thương anh vô hạn.
Đến năm 1962, khi tôi đang học lớp chín, còn Vinh học lớp tám, cùng trường Chu Văn An 3A, những linh cảm có tính dự báo của bố tôi về tai họa có thể đến với mình đã xảy ra, khi nhà in T&X, nơi ông đang làm việc, bị quốc hữu hóa bằng vụ án được dàn dựng một cách thô lậu. Năm đó, nhân dịp Tổng thống Indonesia Sukarno sang thăm Việt Nam, nhà in được Bộ Văn hóa đặt in vài trăm ngàn ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng thống Sukarno khổ lớn. Hà Nội năm đó, chỉ có hai nhà in có máy in tự động và offset, trong đó có T&X. Một kẻ giấu mặt trong nhà in, nhân người thợ trực máy đi chỗ khác, đã ném tàn thuốc lá vào li-tô cán màu, khiến vài trăm tấm ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh in ở thời điểm bị ném, nhòe một mắt. Do những tấm tiếp sau không sao, nên việc kiểm tra thành phẩm trước khi giao hàng, theo xác suất, lại không trúng những bức bị nhòe. Lúc ảnh phát hành ra thị trường mới bị phát hiện, thế là thành vụ án phản động. Bốn thợ máy chính, phụ, thuộc hai ca trực in, bị bắt giam. Thợ máy tên Phát, kẻ giấu mặt ném tàn thuốc theo chỉ đạo của tên Định, trưởng xưởng đúc, xếp chữ, kiêm thư ký Công đoàn, không ngờ sự việc dẫn đến hậu quả tệ hại cho đồng nghiệp, trong đó có anh vợ mình nên sau đó đã phát điên, phải đưa vào bệnh viện tâm thần Châu Quỳ, ở cho đến lúc chết. Bố tôi và ông Kình, nhân vật số một và số hai của T&X đương nhiên bị liên đới trách nhiệm. Ông Kình cũng bị bắt. Còn bố tôi, nhờ có thời gian tham gia kháng chiến, chỉ bị bàn giao chức giám đốc cho Định, xuống làm thợ đóng sách, chờ ý kiến chỉ đạo của cấp trên về phương án xử lý chính thức. Tuy nhiên, một lệnh khám nhà vẫn ban ra. Hàng ngàn cuốn sách của nhà xuất bản Mai Lĩnh thời kỳ hoàng kim những năm từ 1936 đến 1943, ông ngoại tôi di cư vào Nam không đưa đi được, bố tôi lưu giữ suốt nhiều năm như báu vật đã bị lôi ra. Đó là sách của các nhà văn: Vũ Trọng Phụng, Phạm Cao Củng, Đào Trinh Nhất, Lê Văn Trương…, các tác phẩm như Tắt đèn, Bước đường cùng, Vang bóng một thời… của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, các nhà văn công thần tham gia kháng chiến, đang sống sờ sờ ở Hà Nội, nhưng là sách in trong thời Pháp thuộc, đều bị bỏ chung một rọ là “văn hóa đồi trụy của chế độ cũ”, và bị tịch thu. Đến gần sáu chục năm sau, khi vụ án bị quên đi, nhà xuất bản Mai Lĩnh được lịch sử văn hóa Việt Nam tôn vinh là một trong những địa chỉ vàng đầu tiên của ngành xuất bản Việt Nam, với khuynh hướng yêu nước tiến bộ, chuyên in tác phẩm của các nhà văn cũng yêu nước và tiến bộ, nhưng thời điểm đó, bố tôi, với mọi cố gắng để chứng tỏ mình chỉ là người làm thuê, vẫn tránh trời không khỏi nắng.
Còn tôi, tốt nghiệp lớp mười năm 1963, chỉ có con đường duy nhất gia nhập Đoàn Thanh niên Xung phong tháng Tám Thủ đô, chìm nổi trong nghề ô tô lâm nghiệp, khắp các tỉnh núi rừng miền Bắc, từ Quảng Ninh, Lạng Sơn, Sơn La, đến Quảng Bình, Quảng Trị, suốt thời kỳ chiến tranh chống Mỹ. Và dù không muốn theo bước anh Khôi, tôi cũng thành “thép đã tôi trong lửa đỏ và nước lạnh”.