MÃI LÀ BA TRONG MỘT
Năm 2015.
Nghĩa trang liệt sĩ Phước Long, kể từ mười lăm tháng Giêng năm 2010 đã thành nơi quen thuộc với gia đình tôi. Mỗi lần đi thăm, quan điểm của tôi là chỉ ngày giỗ hai mươi ba tháng Năm và ngày Thương binh Liệt sĩ hai mươi bảy tháng Bảy thì sắm đủ lễ, còn các ngày khác, nhang, nến thì thắp đủ, các thứ khác như trái cây, vàng mã, bia, rượu chỉ tượng trưng. Nhưng vợ tôi nhất định đã lên mộ là phải đầy đủ:
- Mình đơn giản còn nhà khác người ta chu đáo thì anh Khôi sẽ tủi thân.
Có một lời dặn của thầy Lư mà chúng tôi ghi âm lại: “Mỗi lần thăm mộ, đã khấn bác Khôi phải nhớ khấn vợ bác ấy là y tá Minh, và mỗi lần đốt vàng mã, gửi đủ đồ cho bác Khôi, phải nhớ gửi cho bác Minh mớ bồ kết để gội đầu, một bộ đồ đẹp, đôi dép cao gót. Hôm trước, thay vì gửi đôi giày bata lại gửi nhầm dép cao gót, nhưng bác ấy lại thích, vì bây giờ hết chiến tranh, bác ấy đi gặp gỡ bạn bè, hội ngộ nhiều hơn hành quân”.
Đã tin rồi thì thầy Lư bảo gửi thứ gì, chúng tôi gửi thứ ấy, nhưng vẫn không hết băn khoăn. Thực tế, anh Khôi chưa từng có vợ. Chuyện thương binh có thể cưới y tá tại bệnh xá đang sơ tán trong rừng giữa lúc hai bên giao tranh ác liệt, tất cả các cựu binh từng tham chiến ở Svay Rieng năm 1970, khi được chúng tôi hỏi, đều trả lời không thể. Có người còn khôi hài: “Nếu có, chỉ ở trong tiểu thuyết và phim truyền hình nhiều tập”. Về chuyện này, tôi cũng tham khảo một số người ít nhiều hiểu biết về thế giới tâm linh, trong đó có Thanh Vân.
Vân nói:
- Việc đốt vàng mã, gửi đồ cho người âm thực ra rất thoáng. Mình gửi vàng, đô-la, tiền Việt, tiền âm phủ, gửi cả nhà lầu, ô tô, máy bay, điện thoại di động hay máy vi tính… đều được, vì người này không dùng sẽ nhường người khác, chẳng ai dùng thì để đấy, cũng không sợ chật âm phủ hay thiên đường. Nhưng khấn chính xác đã gửi những đồ này, đồ kia, cho người này, người nọ mà không gửi hoặc không trúng, lại là chuyện nghiêm trọng, vì vong rất hay buồn và tự ái. Để vong buồn và tự ái thì việc thờ cúng mất thiêng, hậu quả khôn lường.
Tôi nói:
- Nếu thầy Lư chỉ một lần nói đến người vợ tên Minh có thể là nhầm, nhưng cậu ta nói rất nhiều lần, chắc phải có cơ sở?
Vân bảo:
- Thế giới tâm linh thuộc cõi âm, còn thầy thuộc cõi dương, nếu có nhầm cũng là chuyện bình thường. Giờ chỉ có hai cách. Hoặc anh chị lại ra Hà Nam nhờ thầy Lư gọi hồn lần nữa. Hoặc mỗi lần đi Phước Long gặp anh Khôi, anh chị cứ gửi đồ cho chị Minh, nhưng nói là làm theo lời thầy dặn. Với lại, tại sao anh chị cứ nhất định nghĩ họ lấy nhau ở bệnh xá trong rừng? Nhỡ anh chị ấy làm lễ cưới ở cõi âm thì sao? Đã có tình yêu không biên giới, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, thì hoàn toàn có thể có tình yêu không phân biệt âm dương.
Chúng tôi cùng bật cười cho rằng “Vân bói” chỉ tán cho vui. Nhưng nếu anh Khôi có vợ tên Minh đúng như thầy Lư nói, lại không hề cưới nhau ở cõi dương, thì việc họ cưới nhau ở cõi âm như Thanh Vân nói không phải chuyện đùa.
Từ ngày tìm được mộ anh Khôi, và chuyện thờ cúng anh được chăm chút, việc làm ăn của vợ chồng tôi và các con có nhiều thuận buồm xuôi gió, nên mọi vướng mắc về tâm linh, trong đó có vụ người vợ tên Minh, ngày càng bớt đi những nghi ngại, cho đến lúc mọi nghi ngại không còn được ai nhắc đến. Tức mặc nhiên chúng tôi tin anh đã có một gia đình ở cõi âm.
Một hôm, vào ngày giỗ anh Khôi hai mươi ba tháng Năm, cả nhà, gồm vợ chồng tôi, ba cháu Thuận Ánh, Minh Trí, Tuấn Phúc, hai con rể Việt Hưng, Vĩnh Phúc, bốn cháu ngoại, vợ chồng Vân, Dật, cậu Hùng, thêm anh Căn con bác Thụ, trưởng họ Đỗ Mai Lĩnh ở Sài Gòn, người cùng học với anh Khôi hồi tiểu học ở trường Đỗ Hữu Vị, Hà Nội, kéo nhau lên Phước Long. Những ngày lễ, ngày Tết, nghĩa trang thường rất đông, nhưng ngày thường nghĩa trang rất yên vắng.
Do chúng tôi đã quá quen thuộc nơi đây nên xe vừa vào cổng, ông Tư Quảng quản trang đã từ trong dãy nhà tiếp tân ra đón:
- Sao hôm nay nhà mình lên trễ thế?
Tôi nói:
- Tụi tôi đã cố ý đi sớm, nhưng đoạn xa lộ Đại Hàn bị tắc đường khá lâu.
Theo thông lệ, sau khi xuống xe, đoàn chúng tôi chia đôi. Đám trẻ xách đồ lễ đi thẳng đến mộ bác Khôi, còn đám già: vợ chồng tôi, vợ chồng Vân, Dật, cậu Hùng và bác Căn đến đặt lễ ở đài tưởng niệm. Chúng tôi làm lễ xong, rời đài tưởng niệm, đến mộ anh Khôi, cả nhà mới cùng làm giỗ. Khi chúng tôi đang bày lễ ở đài tưởng niệm thì điện thoại của tôi reo, là số của con gái tôi.
- A lô! Chuyện gì thế con?
Thuận Ánh báo:
- Có ai đã đặt lễ rất lớn trên mộ bác Khôi... Mình vẫn để nguyên hay dọn đi ạ?
Tôi ngạc nhiên, hỏi vợ:
- Mộ anh Khôi ở đây và ngày giỗ của anh hôm nay chỉ riêng nhà mình biết. Vậy ai nhỉ?
Chúng tôi cùng đưa mắt nhìn quanh khu nghĩa trang bao la đang nắng chói chang, vắng lặng, không một bóng người.
Cô Vân nói:
- Ông Tư Quảng nói ở nghĩa trang này có nhiều điều bí ẩn nên chỉ có thể giải thích đồ lễ ấy là do sự có mặt của các vong hồn.
Dật lắc đầu:
- Đó là vào ban đêm. Còn đây đang giữa ban ngày.
Chúng tôi lặng lẽ làm lễ nhanh ở đài tưởng niệm, rồi kéo nhau đến phần mộ của anh Khôi. Trên ngôi mộ ốp gạch men màu mận chín, cạnh bình sứ trắng cắm nhành hoa hồng đỏ bằng giấy như tất cả các mộ khác là một bình gốm mộc Bát Tràng, cắm bó hoa lay ơn lớn hai màu đỏ trắng, tươi nguyên. Lùi xuống dưới bình hoa là chiếc đĩa sứ lớn đặt chùm nhãn lồng Hưng Yên. Bó nhang lớn trên bát nhang vẫn đang cháy dở. Bốn chén nến đang cháy mới chỉ cạn chừng một phần ba. Chứng tỏ người đến viếng rời nghĩa trang chưa lâu. Mọi người cùng nín lặng trong một cảm xúc lạ lùng. Riêng tôi linh cảm thấy một sự quen thuộc mà tôi đã quên từ lâu... Bình gốm mộc không men, hoa lay ơn hai màu đỏ trắng và nhãn lồng Hưng Yên, là mối liên hệ không bao giờ phai mờ giữa Danh Huyền và anh Khôi, mặc dù Hưng Yên chính là nơi kết thúc mối tình. Nhưng Huyền đã theo bác Quỳnh sang Mỹ từ năm 1977. Hay Huyền vừa về nước? Dẫu đúng Huyền về nước, làm sao cô biết mộ anh Khôi ở đây nếu không tìm hỏi tôi? Tôi trình bày những nghi vấn này với vợ. Vợ tôi nói:
- Liệu có thể từ Mỹ, chị ấy nhờ dịch vụ trong nước đặt đồ lễ?
- Vấn đề là mộ anh Khôi ở đây chỉ có nhà mình biết.
Gia đình tôi cùng đứng lặng, không ai dám động vào những đồ lễ trên mộ. Đúng lúc đó, ông Tư Quảng từ ngoài cổng đi vào. Tôi hỏi:
- Bác có biết ai đã đặt đồ lễ lên mộ anh tôi sáng nay không?
Ông Tư Quảng ngạc nhiên:
- Tôi tưởng bà ấy là người nhà của các bác? Vào ngày giỗ bác Khôi năm trước bà ấy cũng đến đây, nhưng vào buổi chiều. Hôm đó, bà ấy cũng đặt hoa dơn 13* trắng đỏ trong bình gốm mộc, cũng đĩa nhãn lồng Hưng Yên. Thấy cái bình đẹp, tôi vẫn trưng ở phòng tiếp tân. Năm trước bà ấy đi một mình, còn năm nay bà ấy đi với hai cậu thanh niên.
13* Tên gọi khác của hoa lay ơn.
- Bà ấy đến đây bằng xe gì?
- Từ Sài Gòn lên đây, chắc bằng xe hơi. Những người đi quen thường tự ý đẩy cổng cho xe vào trong sân, còn người lạ vẫn đậu xe ngoài cổng, đi bộ vào. Cả hai lần, bà ấy đều để xe ở ngoài.
- Bác có nhớ hình dáng bà ấy thế nào?
- Tuổi chắc cũng trong ngoài bảy mươi, dáng đi còn khỏe, nhưng mặt mũi thì do nhìn xa nên tôi không thấy kỹ.
Tôi nói với mọi người:
- Chín mươi chín phẩy chín phần trăm là Danh Huyền rồi. Việc này kiểm tra cũng dễ thôi. - Tôi lấy điện thoại di động. - Gọi ra Hà Nội, nhờ Vinh đến thăm bác Quỳnh gái là ra ngay.
Cô Vân nói:
- Không phải chị Danh Huyền mà là vong chị Minh thì sao? Vong cũng biết thừa anh Khôi thích cái gì sẽ tặng cái đó. - Cô hỏi ông Tư Quảng. - Hôm trước, bác có kể ở đây vẫn có chuyện vong thắp nhang và tặng quà cho nhau?
Ông Tư Quảng đáp:
- Tôi nói ở đây có nhiều chuyện kỳ lạ, chỉ có thể giải thích là do vong hiển linh, chứ không nói đã nhìn thấy.
Tôi tạm dẹp ý định gọi điện thoại ra Hà Nội cho Vinh, nhưng lại gọi cho Thanh Vân, kể lại chuyện đồ lễ nghi của Danh Huyền và chuyện khó xử của chúng tôi.
Thanh Vân nói:
- Chị Vân nói đúng. Vong cũng có thể có sản phẩm giống trăm phần trăm với chị Danh Huyền. Đã không cúng thì thôi mà đã cúng thì tối kỵ sự nhầm lộn. Nếu em ở trên đó, chỉ nhìn là biết ngay đồ cúng của ai. Nhưng vì chuyện này mà giờ cúng bị sai lệch, bác Khôi cũng sẽ giận, nên theo em, trước hết cứ để nguyên đồ cúng đang có, anh chị thắp nhang thưa lại với bác Khôi mọi chuyện, xin phép được dọn lễ đi, rồi hãy làm lễ giỗ của mình. Một mặt ở Sài Gòn, em sẽ cùng lúc thắp nhang xin thần linh cho thấy các anh chị trên ấy, thuận thì thôi, nếu có gì sai sót, em sẽ báo.
Chúng tôi thực hiện theo đúng lời Thanh Vân và chuyện dọn lễ cũ thay lễ mới diễn ra êm thấm. Sau đó, do trời quá nóng, vụ dọn lễ diễn ra quá lâu, nên thay vì tổ chức ăn uống dưới bóng hàng cây sao, nâng ly cùng bác Khôi và đồng đội như mọi khi, chúng tôi quyết định kéo nhau về thành phố Đồng Xoài, vào một nhà hàng máy lạnh…
Chúng tôi ăn sắp xong thì có điện thoại của Thanh Vân:
- Anh chị còn ở nghĩa trang không?
- Vì ở đấy quá nóng, đoàn có mấy đứa trẻ con, nên anh chị kéo cả về Đồng Xoài. Ăn xong sẽ về thẳng Sài Gòn.
Thanh Vân nói:
- Khi anh chị khấn xin phép bác Khôi, có thấy hai ngọn nến đang cháy ở cạnh tấm bia bỗng nhiên tắt phụt?
- Lúc đó anh tưởng do gió.
- Vậy đúng là bác Khôi “Ok”. Còn bây giờ anh chị, nếu không mình anh cũng được, quay trở lại nghĩa trang Phước Long ngay.
- Để làm gì?
- Vì bác Khôi sắp có khách. Em nói chắc chắn đấy.
Tôi buột miệng:
- Em có biết là ai?
- Em không biết. Hai người. À… Chắc chắn là ba người.
Vợ tôi nhắc:
- Anh phải hỏi kỹ lại. Khách nào? Thân thiết đến đâu? Bây giờ trở lại Phước Long gần năm mươi kilômét, trong khi giờ này, anh và em cùng hết hơi rồi.
Tôi đáp cộc:
- Nếu vậy em về với mọi người, còn anh trở lại nghĩa trang. Chuyện tâm linh không được coi trọng thì hậu quả khôn lường.
Vợ chồng tôi mượn chiếc Toyota bốn chỗ của Dương Trọng Dật, quay trở lại nghĩa trang liệt sĩ Phước Long. Lúc này khoảng hơn ba giờ chiều, trời vẫn nắng gay gắt. Thấy cổng mở sẵn, xe chúng tôi chạy thẳng vào con đường nhựa lớn dẫn thẳng đến đài tưởng niệm. Nghĩa trang vẫn vắng lặng mênh mông nhưng phần nào bớt nóng. Ông Tư Quảng từ dãy nhà tiếp tân đi ra.
- Hai bác quên gì mà quay lại?
Tôi hỏi:
- Từ lúc chúng tôi đi, có ai đến viếng mộ anh tôi không?
- Không thấy ai cả. Nói chung, trừ Chủ nhật và ngày lễ là đông khách, còn ngày thường, chỉ có số ít thân nhân liệt sĩ đến vào ngày giỗ như các bác.
Vợ tôi nói với tôi:
- Anh gọi hỏi lại Thanh Vân xem?
Tôi đã định bấm điện thoại, nhưng lại phân vân:
- Lần thứ nhất, từ nghĩa trang anh đã gọi điện rồi. Còn lúc ở nhà hàng, Vân gọi điện cho anh. Nhưng đến đây không có khách, anh lại ngờ thuộc chuyện tâm linh. Biết đâu vong anh Khôi muốn thử lòng mình?
- Làm gì có chuyện vong biết gọi điện thoại?
Tôi lúng túng quay qua ông Tư Quảng:
- Nói thật với chú, trên đường về, có người gọi điện thoại nói có khách đến viếng anh Khôi nên chúng tôi mới quay lại. Hóa ra chẳng có ai. Dính vào mấy vụ tâm linh bây giờ sinh tẩu hỏa nhập ma, không rõ người hay ma gọi điện cho mình nữa.
Ông Tư Quảng sực nhớ:
- À… Cách đây chừng nửa giờ, có người gọi điện thoại hỏi thăm đường đến nghĩa trang. Ông ta nói, chừng một giờ nữa sẽ đến viếng người bạn là liệt sĩ, nên tôi mới mở sẵn cổng. Thế thì chắc chắn là người mà người gọi cho bác nói đến rồi.
Vợ tôi nói:
- Người nào thì mình cũng cứ vào thắp nhang xin anh Khôi phù hộ, để nếu khách có thật cũng không bị vong chỉ sai đường.
Vợ chồng tôi đi về phía mộ anh Khôi, đang chuẩn bị thắp nhang thì từ ngoài cổng, một chiếc siêu xe Mercedes đen bóng, chạy vào. Ba người, hai phụ nữ một già, một trẻ cùng thuộc loại mình dây, cao lêu nghêu, và một người đàn ông rời khỏi xe.
Ông Tư Quảng sốt sắng ra đón khách rồi chỉ về phía vợ chồng tôi đang đứng bên mộ anh Khôi.
Vợ tôi nheo mắt hướng về phía họ:
- Ai thế nhỉ?
Tôi cũng cố chống mắt lên nhìn:
- Hai phụ nữ có vẻ giới showbiz. - Rồi tôi lắc đầu. - Anh không quen.
Từ chỗ xe đậu vào chỗ chúng tôi đang đứng, cách xa chừng hai trăm mét và mắt chúng tôi đều là bốn con mắt người già. Khi họ xăm xăm tới gần, người đàn ông hét lên:
- Chào phóng viên báo Nhân dân kiêm kỹ sư trưởng cơ khí vùng mỏ Quảng Ninh.
Tôi suýt ngất xỉu khi nhận ra đó là anh Huy Lạc. Lần cuối cùng gặp anh là dịp Tết 1966, tôi đạp xe từ chỗ chị Tâm ở Hà Bắc về nhà anh ở khu tập thể Kim Liên, để hỏi anh về chuyện anh Khôi nhập ngũ. Từ đó đến nay, ngót nghét năm mươi năm anh em không gặp nhau. Phần vì hai người làm hai công việc quá khác nhau, phần vì tôi khó hòa hợp với tính cách ranh mãnh của anh và càng dị ứng với vụ anh bỏ Kim Hà để lấy Linh Xuân, con gái một thứ trưởng, nhằm thuận đường thăng tiến, khiến Kim Hà phẫn uất nhảy cầu Thê Húc ở Hồ Gươm tự tử. Tuy nhiên, những thông tin về anh đến tai tôi lại rất nhiều. Năm 1968, anh là Cục trưởng trẻ nhất ở Tổng cục Thủy lợi, đánh đùng một cái lại nhảy về Thanh Hóa làm Trưởng Ty Thủy lợi, rồi lên Phó Chủ tịch tỉnh. Đến khi được điều về làm Phó Chủ tịch Thành phố Hải Phòng, tương lai mà anh hình dung lờ mờ lúc trước giờ hiện ra rõ nét, thế là thư tố cáo, đơn kiện gửi các ngành, các cấp bỗng nhiên nhiều như bươm bướm. Một tờ báo làm hẳn phóng sự điều tra nhiều kỳ chuyện Kim Hà có thai với Lạc, tự tử ở cầu Thê Húc vì bị Lạc bỏ rơi để lấy cô vợ con thứ trưởng, rồi vụ lợi dụng uy tín tổng cục trưởng, đưa phóng viên báo Nhân dân giả lên Hưng Yên giải cứu nhân viên N.M.K “phạm tội” hiếp dâm gái vị thành niên, ở công an Hưng Yên. Tin động trời nhất là Lạc bị bắt và khởi tố, với khả năng sẽ bị tử hình, bởi tội danh nhận hối lộ hàng trăm tỉ để cố ý làm trái trong vụ nhượng hàng ngàn héc-ta đất quy hoạch nông nghiệp của tỉnh cho doanh nghiệp tư nhân trá hình nhà nước, khiến nhà nước thiệt hại hàng trăm tỉ. Sự ồn ào chỉ nguội đi khi vụ Lạc về Hải Phòng không thành, đồng thời với việc miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Bẵng đi một thời gian dài, từ năm 1986, khi đất nước khởi phát phong trào đổi mới, Huy Lạc lại được báo chí nhắc đến là một trong những doanh nghiệp tư nhân tiên phong đầu tiên của thời kỳ đổi mới, đầu tư các dự án đô thị hiện đại, khu du lịch và sân gôn ở nhiều tỉnh. Mấy năm nay, vợ chồng anh lại nổi tiếng là “vua từ thiện”, với mỗi đợt phát động quyên góp mỗi người đều góp riêng hàng chục tỉ, trong khi các doanh nghiệp, các tập đoàn, ngân hàng tên tuổi lẫy lừng chỉ chia cho quỹ “Người nghèo” từ một đến vài tỉ. Còn bây giờ, anh đang đứng ngay trước mặt tôi.
Anh cười ha hả ôm chầm lấy tôi:
- Tết Nguyên Đán 1965, tức cách đây năm mươi năm, anh giới thiệu với chị chú, chú là kỹ sư cơ khí vùng mỏ Quảng Ninh, còn giới thiệu với Vũ Cang, Trưởng Ty công an Hưng Yên chú là phóng viên báo Nhân dân, khiến chú khó chịu và tự ái, cho anh là thằng bốc phét. Giờ chú chịu anh là bậc thầy về tâm linh, khi nhìn thấy tương lai của từng người trước mấy chục năm chưa?
Cô gái trẻ cao kều đứng bên cạnh anh cười giễu:
- Nhà văn đâu phải là kỹ sư cơ khí và phóng viên báo đảng.
- Nhưng sai số mấy phần trăm, ông của con vẫn là người, còn nói đâu trúng đó trăm phần trăm, ông đã là thánh. Mà trong thời buổi ai cũng nghĩ mình là thánh, có khi ông còn cố ý nói sai để được làm người. - Rồi anh giới thiệu cô gái với tôi. - Nó là Linh Hoa, cháu ngoại, con lớn đứa con gái đầu của anh chị, cao một mét bảy mươi. Hồi anh lấy chị, ai cũng nói bóng nói gió, bao nhiêu bồ câu không chọn lại chọn con sếu vườn. Có biết đâu anh đã nhìn thấy trước thế kỷ hai mươi mốt là thế kỷ của phụ nữ cao một mét bảy mươi lăm trở lên. Năm đứa con gái nhà anh, có đứa cao tới một mét tám mươi, nên lũ cháu ngoại, đứa nào cũng chiều cao lý tưởng. Con này hiện đang là trợ lý tập đoàn cho ông ngoại, còn khi cùng đi chơi như hôm nay, nó ăn lương lái xe. Chị Linh Xuân đã làm bà nhưng vẫn cao, nên chắc em chưa quên.
Tôi nói với Linh Xuân:
- Em không thể quên được vụ chị bị thai hành, rồi lớn tiếng chửi anh là đồ ác bá, phá vỡ kế hoạch “Ba khoan” làm chị hết đường thăng tiến. Chắc bốn đứa sau không bị?
Linh Xuân cười nhẹ:
- Vẫn… Tức là vẫn chửi, nhưng vẫn đẻ…
Tôi hỏi Lạc:
- Làm sao anh biết anh Khôi ở đây, cùng ngày giỗ của anh ấy?
- Sao em hỏi ngớ ngẩn? - Anh lấy điện thoại di động trong túi, lướt một loạt hình ảnh trên màn hình, rồi chìa tôi xem. - Cả thế giới đều biết chứ đâu phải mình anh.
Trên màn hình điện thoại di động của Lạc hiện lên tấm bia đá đen khắc tên Nguyễn Minh Khôi… rồi đến ngôi mộ, sau đó, mở rộng ra toàn cảnh nghĩa trang liệt sĩ Phước Long…
- Em thấy sợ sức lan truyền của công nghệ thông tin thời hiện đại chưa? Một nhóm trẻ nick name Vô Danh đã làm cái việc đáng nể, cập nhật danh sách liệt sĩ ở từng nghĩa trang liệt sĩ trên toàn quốc lên Facebook. Danh Huyền từ Mỹ đọc được thông tin này đã email cho anh. Năm ngoái sang Mỹ, anh gặp cả ba mẹ con Huyền, bác Quỳnh và cô Hoàn Trân. Hai anh em hẹn gặp nhau ở đây vào buổi sáng. Nhưng chuyến bay của anh không may bị hoãn… Thế sáng nay, nó đến đây chưa?
- Đến rồi, nhưng không gặp. Do bọn em đến trễ, Huyền đã đi rồi.
- Hình như nó còn giận chú đấy. Anh bảo nó, “chúng mày đừng có như trẻ con, cùng đầu hai thứ tóc rồi mà chuyện gì cũng để bụng mà giận với hờn”. Nó bảo chú giận nó thì có.
Tôi chỉ vợ mình, định giới thiệu, Lạc ngăn lại:
- Mấy năm nay, anh đang xoay sang nghiên cứu sâu về tâm linh, giờ để anh nói về vợ chú, xem tài đọc quá khứ vị lai qua nhân tướng của anh siêu thế nào. - Rồi anh nhìn vợ tôi. - Em là Đỗ Thị Thanh, bút danh Hà Phương. Quê gốc Nam Định nhưng lớn lên ở Thanh Hóa. Tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội, khóa 12, năm 1971, rồi vào miền Nam làm phóng viên chiến trường, làm nhà thơ. Kết thúc chiến tranh, với tiểu sử như thế, nếu không kém khôn ngoan và thêm một chút gặp thời, em có thể làm đến Chủ tịch Quốc hội hay Phó Chủ tịch nước, được chồng con hầu hạ đến hơi thở cuối cùng, nhưng lấy phải thằng Tuấn, một thằng lười việc nhà, có số vợ con hầu hạ lớn hơn, nên mệnh em đảo ngược, chỉ còn biết tối ngày hầu hạ chồng con. Anh nói sai, cho em tát ba cái vào mặt.
Tất cả cùng cười ồ. Ông Tư Quảng mê tít sự ồn ào của Lạc:
- Chắc ngày xưa anh Hai cũng là lính?
Lạc thân mật quàng vai Tư Quảng:
- Chú nói vậy là xúc phạm đến vong linh các liệt sĩ ở đây. Ngày xưa, tức hồi chiến tranh, tất cả các liệt sĩ, trong đó có anh Khôi bạn anh, đều là lính đúng nghĩa thiêng liêng của người lính hy sinh vì Tổ quốc, còn ngày nay, tất cả chúng ta, kể cả những người lính còn sống, đều chỉ là dân, tất nhiên không kể những đứa quên mất mình là dân. Chú thứ mấy?
- Em thứ tư. Dạ! Tư Quảng.
- Tư Quảng này! Vừa vào cổng, thấy chú, anh đã biết ngay chú là quản trang, tức quan to nhất ở đây. Tuy lần đầu tiên đến đây, nhưng anh là dân, nên tối nay, anh là chủ. Anh chị và cháu ngoại anh từ Hà Nội vào muốn làm giỗ bạn anh là Nguyễn Minh Khôi đang có mặt ở đây, nên em phải để cho anh toàn quyền.
- Thưa, anh Hai cứ thoải mái. Ở đây, các đoàn thể và gia đình thân nhân liệt sĩ vẫn thường đến làm lễ tưởng niệm hoặc làm giỗ, nên ban quản lý dành hẳn khu tiếp tân, có thể bày cả chục bàn, đầy đủ đèn, quạt, amply, sân khấu… Lát nữa cúng xong ở đây, ta kéo vào trong đó…
- Không được. Sau khi gọi điện cho chú, anh đã đến đây, đứng ngoài cổng nhìn toàn cảnh nơi đây, nên anh quay lại thị trấn Phước Bình đặt cửa hàng dựng nhà bạt và cửa hàng nấu tiệc, họ nhận sẽ tới đây ngay bây giờ. Nhà bạt sẽ dựng ở đầu dãy mộ anh Khôi. Từ đây ra đến dãy hàng cây sao hơn chục mét, thừa rộng rãi. Còn tiệc anh đặt ba bàn, nhưng nhà anh ba, vợ chồng anh Tuấn hai, thêm chú, chỉ có sáu, như vậy thừa hơn hai bàn, dành cho anh Khôi và các đồng đội. Anh sẽ bảo mấy em tiếp viên nhà hàng bày hết lên các mộ, mời các vong liệt sĩ. Khi nào tan tiệc, các anh, chị rút lui, chú chịu khó chạy qua mấy nhà hàng xóm, nhờ thu dọn chiến trường để anh Khôi và các bạn anh ấy khỏi buồn.
Ông Tư Quảng băn khoăn:
- Dựng sạp ở ngay bên mộ, lại bày tiệc đến khuya, ở đây chưa làm bao giờ, nên em phải gọi điện báo cáo với mấy anh trên tỉnh. Đụng đến vong linh liệt sĩ, mình vô ý một chút, dân địa phương nghĩ mình nhậu nhẹt bên mộ liệt sĩ, thành lớn chuyện, nên mấy anh trên tỉnh cũng sợ. Xin lỗi! Anh Hai hiện làm chức gì để em báo cáo…
- Mấy anh trên tỉnh sợ hay chính chú sợ? Vừa rồi anh đã nói anh chỉ là phó thường dân, nhưng hai vợ chồng chú Tuấn làm gì, chú biết không?
Tư Quảng:
- Nhà bác Tuấn năm nào cũng lên đây mấy lần đã thành chỗ quen thân, nhưng chưa bao giờ em hỏi hai bác làm gì. Ở đây, khách thập phương rất đông, quan chức lớn nhỏ, người giàu, người nghèo, dân thường đủ cả… Để tôn trọng tự do của khách, em chỉ nhìn phong thái, cách ăn mặc và xe cộ mà đoán, chứ không tò mò hỏi người đó là ai.
- Thế thì vợ chồng anh bay từ Hà Nội vào, rồi ngồi con siêu xe kia, chú đoán anh làm chức gì? Hồi miền Bắc chưa có xe tư bản, hàng Bộ trưởng mới được đi công tác bằng xe Volga Liên Xô, anh đã ngồi nó đi xem đá bóng ở sân Hàng Đẫy và uống bia hơi ở vỉa hè Cổ Tân rồi.
Thấy Tư Quảng cười cười như đang thưởng thức những câu nói đùa, Lạc chỉ vào vợ chồng tôi:
- Chú Tuấn đây trước khi nghỉ hưu làm Giám đốc Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Còn cô Phương, vợ chú ấy làm Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam. Hồi chiến tranh, cô ấy là phóng viên chiến trường, từng là sếp của người sau này là cán bộ cấp cao Thành ủy Hà Nội, chú có tin không? - Lạc đưa điện thoại của mình cho Tư Quảng. - Giờ chú gọi điện cho Bí thư Tỉnh ủy hay Chủ tịch tỉnh Bình Phước nói tối nay nhậu ở đây có những ai đi.
Tư Quảng xua tay:
- Thôi, khỏi gọi. Ngồi với các bác toàn bậc công thần, mà phải xin phép cấp trên thì em đúng là vô ý.
Đúng lúc đó, hai chiếc hòm của cửa hàng dựng lều bạt và nhà hàng làm tiệc từ thị trấn Phước Bình nối nhau nhấn còi ngoài cổng nghĩa trang. Tư Quảng vội tất tả đi về phía cổng.
Lạc cười hể hả vỗ vai tôi:
- Chú thấy thế nào? Hồi gặp chú ở Hưng Yên, anh có nói “Được việc là trên hết”. Giờ gần năm mươi năm trôi qua, anh vẫn “Được việc là trên hết”, đúng không?
Rồi anh nói với vợ tôi:
- Thằng Tuấn nó quá quen với việc anh một tấc đến trời, miễn là được việc, còn do em chưa quen, sợ em bị sốc, nên anh chừng mực, chứ không anh còn nói phét hơn nữa cho thằng Tư Quảng lé mắt chơi. Em nên nhớ, với một xã hội bình ổn, thì đạo lý là số một, pháp lý là số hai, tâm lý đứng thứ ba, nên người giỏi luôn được trọng dụng, còn những thằng khôn lỏi như anh chỉ đứng hạng bét. Còn xã hội bất ổn, đạo lý lộn xộn, pháp lý lỏng lẻo, thì tâm lý lại đứng thứ nhất. Chính nhờ khôn ngoan mà cuộc đời sóng gió cỡ nào, anh vẫn luôn đi đúng đường.
Linh Hoa:
- Ông ngoại khôn ngoan sao không dám giới thiệu ông Tuấn là nhà văn?
- Con ơi! Thiên hạ bây giờ chỉ sợ báo chí, truyền hình, chứ chẳng ai sợ nhà văn. Chưa kể muốn giới thiệu ông Tuấn là nhà văn, lại phải thêm động tác hỏi trước: “Ông, bà có đọc sách không? Rồi ông, bà thích nhà văn nào?”… Nhỡ họ chỉ thích ghiền Facebook, hay có đọc, lại chỉ mê văn Chu Lai, thì việc giới thiệu ông Tuấn sẽ phải dài lê thê, trong khi phương châm sống của ông là hạn chế tối đa động tác thừa. Thôi! Bây giờ trong khi chờ dựng nhà bạt và bày đồ ăn, chúng ta sẽ làm lễ cúng đồng chí Nguyễn Minh Khôi và hơn bốn ngàn đồng đội đã hy sinh cho Tổ quốc hòa bình, thống nhất hôm nay.
Thấy hai nhân viên cửa hàng lều bạt sau khi dựng xong lều, ra xe mang vào chiếc võng xếp, mở khung thép, đặt chiếc võng gần bàn ăn, tôi hỏi Huy Lạc:
- Anh tính ngủ luôn ở đây hay sao mà thuê cả võng?
Lạc nháy mắt cười:
- Bí mật quân sự.
Mặc dù lần đầu đến nghĩa trang này, nhưng vợ chồng anh Lạc và cháu gái rất chủ động, thuần thục trong việc bày lễ, hành lễ ở đài tưởng niệm ở trung tâm nghĩa trang và phần mộ anh Khôi. Trong khi vợ chồng tôi quan niệm mình sống đơn giản thế nào thì đến với việc thờ cúng thần linh, tổ tiên cũng đơn giản như vậy, thì Lạc, Linh Xuân, Linh Hoa lại rất bài bản, cầu kỳ, từ cách dâng nhang, thắp nhang đến cách quỳ vái, khi khấn thì cùng đọc cả bài kinh Phật một cách thành khẩn và mê tín, liên tục có câu “A Di Đà Phật”, chứng tỏ cặp vợ chồng có điểm xuất phát siêu vô thần từ Đại Cách mạng Văn hóa Trung Quốc đã có thâm niên đến với các đền chùa và nhập vào thế giới tâm linh, nên chuyên nghiệp hơn chúng tôi rất nhiều.
Tối hôm đó, vợ chồng tôi, vợ chồng Huy Lạc, cháu Linh Hoa và Tư Quảng ngồi trong nhà bạt rộng chừng mười hai mét vuông, đèn điện sáng trưng, kề ngay đầu dãy mộ anh Khôi. Lạc bày thêm hai chiếc bát, hai đôi đũa, hai ly rượu hai bên chỗ anh ngồi:
- Bát này là của Nguyễn Minh Khôi, lát nữa mình đụng ly, thế nào cậu ấy cũng về. Còn bát này cho Danh Hùng. Tuy hài cốt cậu ấy còn ở đâu đó bên Campuchia, nhưng biên giới cũng gần đây thôi, nên có Khôi, có Lạc, chắc chắn cũng sẽ có Danh Hùng.
Tôi nói:
- Người trong đội tìm kiếm hài cốt liệt sĩ ở Svay Rieng xác định năm hài cốt lính Việt Nam Cộng hòa trên chiếc máy bay trực thăng bị bắn rơi ở Svay Rieng đã được họ chuyển về đây, nhưng chôn ở một nơi khác.
Lạc nói:
- Bác Danh Quỳnh và Danh Huyền biết chuyện này chưa?
- Khi em biết thông tin này thì bác Quỳnh và Danh Huyền đã sang Mỹ từ năm 1977. Nhân Huyền về chuyến này, nhất định em sẽ gặp để nói, nhưng vẫn là chuyện còn nước còn tát, mò kim đáy biển, vì chưa chắc chiếc trực thăng bị bắn rơi ấy đã có anh Danh Hùng, và người cung cấp thông tin này cũng không biết nơi chôn năm người lính trên trực thăng ở Việt Nam.
Anh Lạc nói:
- Cầu trời cho Danh Hùng cũng đang ở đất mẹ. Nếu có trên chiếc trực thăng ấy, chắc chắn tối nay cậu ấy cũng về.
Hai cô tiếp viên nhà hàng đã bày hết các món ăn lên bàn:
- Con mời các bác, các cô và chúc các bác, các cô ngon miệng ạ.
Trên bàn toàn những món ăn ngày Tết của miền Bắc. Lạc nói:
- Tuấn, Phương này! Hai đứa có biết tại sao anh đặt nhà hàng làm những món Bắc không?
Vợ tôi nói:
- Vì phần lớn liệt sĩ ở nghĩa trang này quê ở các tỉnh miền Bắc.
- Chỉ đúng mười phần trăm. - Rồi anh hỏi tôi. - Chú có đọc truyện ngắn Giấc mơ của anh Khôi in trên báo Nhân dân số Tết năm 1964 không?
Từ năm 1964 đến buổi tối chúng tôi ngồi ở nghĩa trang Phước Long năm 2015 đã năm mươi mốt năm… Chất vấn bất ngờ của Lạc, khiến tôi cố nhớ cũng chỉ mang máng dịp Tết năm 1965, tôi từ Quảng Ninh đến thăm anh Khôi ở Hưng Yên, lúc cùng ở dưới thuyền ở thị xã, anh có lục trong ba lô ra chồng sách báo cũ in những bài của anh trên các báo Tiền phong, Lao động, Thiếu niên Tiền phong, Nhân dân. Tờ báo Tết có truyện ngắn của anh, tôi có đọc. Giấc mơ viết về một tổ Khảo sát Thủy lợi bị đói ở trong rừng Hương Sơn, Hà Tĩnh vào mấy ngày Tết, nhưng ở báo nào cũng như chi tiết thế nào và tên nhân vật ra sao, tôi hoàn toàn không nhớ.
- Em có đọc, nhưng thú thật là chỉ nhớ mang máng nội dung. - Tôi nói với Lạc.
- Chú thật thà như vậy với anh không có vấn đề gì, nhưng anh Khôi chú đang ngồi ngay đây sẽ buồn đấy. Tác phẩm của ông anh mà thằng em cũng là nhà văn lại không nhớ… Xin thưa, các món đang có trên bàn này: Cá chép kho riềng, thịt gà luộc chấm muối chanh, canh miến măng khô chân giò, giò lụa, giò mỡ, nem, dưa chua, cà pháo, bánh chưng, rượu Làng Vân…, là đủ các món Khôi kể trong Giấc mơ. Hồi đội khảo sát của anh Khôi đóng quân ở Hương Sơn, Hà Tĩnh, giáp biên giới Lào vào ngày mùng Một Tết, do tiếp phẩm về xuôi mua hàng Tết bị lạc đường, bốn anh em trực đơn vị trong rừng sâu đói mờ mắt, nằm mơ thấy được ngồi uống rượu Làng Vân và ăn đủ các món trên, một thằng còn mơ được vợ ở quê lên thăm, đang vuốt ve, hôn hít, bỗng nghe tiếng gừ gừ, mở mắt thấy con hổ đang liếm mặt… Tất cả cuống cuồng mò dậy, hóa ra bữa cỗ ngày mùng Một Tết chỉ là giấc mơ, nhưng ai nấy vẫn mừng hơn cả ăn Tết vì con hổ chỉ hít ngửi qua loa, khi biết toàn thịt cá trong mơ, nguẩy mông rời khỏi lán, bỏ vào rừng. Nên hôm nay, với các món này, anh tin chắc anh Khôi sẽ hiện, đấy cũng là lý do vì sao chúng ta phải nhất định ăn tại đây chứ không ăn trong nhà tiếp tân.
Lạc ra hiệu cho hai cô gái tiếp tân:
- Các cháu rót rượu đi.
Nói đến đây, Lạc bật khóc hu hu, nước mắt đầm đìa, giơ chai rượu:
- Đây là rượu Làng Vân, anh mang từ Hà Nội vào. Tất cả đều phải uống và uống hết chai này, nếu không Minh Khôi và Danh Hùng sẽ giận. Mà giận, sẽ chẳng ai về. Hu hu hu… Khôi ơi! Hùng ơi! Chúng mày đang ở đâu, về với tao đi.
Tư Quảng nói:
- Em nói điều này, các bác tin hay không thì tùy. Ở đây không chỉ các nhà ngoại cảm gọi được vong về mà nhiều đêm, các vong còn tự về hành quân rồn rập, có khi còn đốt lửa ca hát, đọc thơ, nhảy múa, vụ một hai người về trò chuyện, có khi nức nở khóc vì nhớ nhà, nhớ quê thì nhiều.
Vợ tôi hỏi:
- Chú nhìn thấy tận mắt hay chỉ ngủ mê?
- Ngủ mê thì tôi kể làm gì? Mỗi lần vong về, mình thức giấc nhưng vẫn nằm im thì các vong vẫn hiện suốt đêm, còn chỉ cựa mình gây tiếng động là các vong biến mất. Không chỉ tôi ở nghĩa trang này, mà nhiều nghĩa trang liệt sĩ lớn ở các nơi trong nước đều có hiện tượng như vậy. Thương lắm.
Huy Lạc trở lại giọng bình thản:
- Nào, chúng ta cùng cạn chén với Minh Khôi, Danh Hùng và các liệt sĩ.
Chờ mọi người đụng ly và nhấp môi, Lạc uống một hơi cạn luôn ly của mình:
- Ai không tin là quyền của họ, riêng tôi tin, thậm chí, rất tin. Quan điểm của tôi, điều gì mình chưa biết, chưa hiểu đến nơi đến chốn thì đừng bận tâm tranh cãi nó có hay không, mà nên xử thế nào hợp đạo lý giữa người sống với người đã khuất, rồi điều tưởng không có sẽ là có. Còn người sống xử với nhau không hợp đạo lý thì có cũng là không. Tôi với Minh Khôi, Danh Hùng là ba trong một từ hồi lớp một ở Hà Nội. Khi lớn lên, mỗi thằng một ngả, nhưng vẫn ba trong một, tôi tin hai đứa vẫn đang ngồi bên tôi, nên tôi cạn hai ly này. - Anh lần lượt cầm và uống cạn hai ly dành cho anh Khôi và Danh Hùng. - Vì chúng ta là ba trong một nên coi như chúng mày đã uống rồi.
Lạc lại bật khóc hu hu:
- Tao nói đúng không hai thằng? Sao chúng mày không nói?
Tôi phát hoảng, nói với Linh Xuân:
- Sao anh ấy vừa uống đã say?
Linh Xuân:
- Không sao đâu. Ở nhà, thậm chí ở công ty, anh ấy vẫn rượu vào là nhớ đến bạn, rồi đều khóc như thế.
Tư Quảng nói:
- Nhiều người từ chiến trường về hay có tật giống anh Hai, các nhà ngoại cảm nói đây là hiện tượng thoát hồn.
Lạc chìa chiếc ly cạn về phía cô gái tiếp tân:
- Rót tiếp cho bạn bác đi cháu.
Tôi vội can:
- Cháu đừng rót. - Rồi tôi lo lắng hỏi Linh Xuân. - Chị có đưa anh ấy đi khám tổng quát thường xuyên không? Em nghi anh ấy có vấn đề sức khỏe.
Linh Xuân đáp:
- Hồi năm 1969, bên quân đội trưng dụng anh ấy hai năm vào chiến trường, vào bộ phận tư vấn địa hình để đặt ống dẫn dầu vào tận miền Nam. Khi trở ra anh ấy bị sốt rét ác tính, được chữa khỏi rồi, nhưng từ đấy mắc thứ bệnh không giống ai, cứ uống rượu vào là toàn gặp những bạn bè đã khuất.
Linh Hoa nói:
- Hai người mà ông con hay nhớ đến nhiều nhất là ông Minh Khôi và ông Danh Hùng.
Huy Lạc lớn tiếng:
- Hai ông ấy với ông là ba trong một, ông không nhớ thì ông là thằng phản bạn à?
Chờ cô gái rót đầy ba ly rượu, Lạc lại lần lượt cạn hết, nét mặt dại đi, mắt nhìn quanh ngơ ngáo, rồi lại bật khóc:
- Hai thằng nó vẫn giận tôi những chuyện cũ nên cùng không về.
Linh Xuân quá hiểu tính chồng, nên nói nhẹ nhàng:
- Chỉ có anh mới hay nhớ dai những chuyện cũ, chứ bạn anh chắc chắn quên lâu rồi.
- Chính chúng nó đang nhắn trên Facebook với anh đây này. Hồi Danh Hùng với Minh Khôi học đệ Lục, còn anh đệ Thất, ở Chu Văn An, nó yêu Hoa Duyên cùng lớp anh. Hoa Duyên hỏi anh về Danh Hùng, anh nói: “Muốn tình yêu chung thủy, bền vững thì đừng ngu dính vào những thằng đẹp trai nhiều tài”, nhưng anh không hề chỉ đích danh Danh Hùng. Không ngờ về sau chuyện không thành, Danh Hùng quá đau khổ vì thất tình đã bỏ học, theo bố vượt tuyến vào Nam, làm anh day dứt suốt đời. Nếu anh không chọc gậy bánh xe, nó với Hoa Duyên thành vợ thành chồng, không đời nào nó vào Nam đi lính Việt Nam Cộng hòa rồi chết thảm ở Campuchia. Hu hu hu… Trên đời này ngu nhất là đâm đầu vào can bọn trai gái yêu nhau. Hu hu hu…
Linh Hoa an ủi:
- Thế thì tại ông day dứt chứ đâu phải ông Danh Hùng thù ông.
- Ông đã nói ông ấy và ông Khôi đang nhắn chửi ông trên Facebook mà con không tin à?
Linh Xuân nháy mắt với cháu:
- Con cứ để ông ngoại trách nốt chuyện ông Khôi đi. - Chị bảo chồng, - anh nói tiếp đi cho nhẹ lòng.
- Thằng Khôi không thù mà nó khinh anh chuyện lấy em. Thằng này đã khinh ai thì khinh dai lắm. Sau này, anh với nó cùng đoàn khảo sát, anh ở trên đoàn, nó ở dưới đội, nhưng nó coi anh còn dưới mức người dưng.
Anh Lạc bỗng chỉ vào mặt tôi:
- Tuấn! Cả mày cũng khinh tao trong chuyện tao bỏ Kim Hà, lấy Linh Xuân để thuận đường danh vọng, đúng không?
Bị hỏi bất ngờ, tôi lúng túng:
- Hồi đó, em cũng hơi buồn.
- Buồn cái gì? Hồi đó, hai anh em mày có nhổ vào mặt tao, tao cũng không trách. Chuyện này, chính Linh Xuân còn khinh tao hơn rác.
- Em khinh anh bao giờ?
- Năm lần có thai, bị thai hành, cả năm lần, em chửi anh thế nào, anh còn nhớ như in. Hôm nay, nhân có đủ mặt hai bà cháu, vợ chồng thằng Tuấn và vong hồn thằng Khôi, anh kể những điều cay đắng bao nhiêu năm nay chôn sâu, giấu kỹ trong lòng. Hồi đó, anh và em cùng học ở Đại học Quảng Châu, Trung Quốc. Hai hòn đá vôi, đá cuội cùng xa Tổ quốc, đặt cạnh cũng còn yêu nhau nữa là anh với em đều lẳng lơ có hạng. Nhưng anh đã có Kim Hà, xinh đẹp hơn em, tốt nghiệp Đại học Sư phạm ở Hà Nội, đang dạy ở Trưng Vương. Tương lai Kim Hà đang rực rỡ, đánh đùng một cái, lại ra cầu Thê Húc nhảy xuống Hồ Gươm tự tử, nhưng thần Kim Quy thương tình, không cho em ấy chết. Một chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố nhảy xuống sông Hồng, chắc chắn sẽ được bưng bít thông tin vì sợ làm xấu chế độ, nhưng đây lại là cô giáo dạy trường Trưng Vương nổi tiếng. Cô giáo này chưa chồng đã có thai, nhà ở đê Yên Phụ rất gần Hồ Tây, Hồ Trúc Bạch, lại còn xuống tận Hồ Gươm thiêng liêng ở trung tâm thủ đô, nơi vua Lê Lợi trả gươm cho thần Kim Quy, để tự tử. Toàn những chuyện nhạy cảm, nằm ngoài phạm vi bi kịch tình cảm, không đưa tin không được. Thế là các báo Nhân dân, Tiền phong, Lao động, Phụ nữ, Hà Nội mới, đua nhau mổ xẻ. Công an quận Hoàn Kiếm coi đây là vụ hình sự có ảnh hưởng chính trị, nên quyết liệt mở cuộc điều tra, thẩm vấn nhiều người thân và nhân chứng, cuối cùng rút ra kết luận: “Thằng Huy Lạc đang làm luận án Phó Tiến sĩ ở Trung Quốc, đã bỏ Kim Hà nhà nghèo, yêu Linh Xuân, con gái Thứ trưởng, khiến Kim Hà uất ức tuyệt vọng tìm đến cái chết. Nếu đúng vậy, tội hình sự không biết sẽ xử thế nào, nhưng tội đạo đức, chắc chắn sẽ bị đuổi về nước, và vết nhơ sẽ được thông báo về tận địa phương, rồi ghi trong lý lịch sang tận kiếp sau”. - Anh quay sang tôi, giọng anh quyết liệt. - Nhưng tao đâu phải loại bị oan lại ngậm tăm chịu đòn như Thị Kính. Trước khi phản pháo, tao viết thư về nước hỏi Kim Hà. Thư đi chừng một tháng thì một thằng Phó Tiến sĩ lạ hoắc học ở Tiệp Khắc về, dắt theo ông bố làm lớn, cũng lạ hoắc, sang tận trường tao ở Quảng Châu. Hóa ra thằng mất dạy đó làm cho Kim Hà có thai, định quất ngựa truy phong. Hồi đó, kinh tế đất nước còn nghèo, nhưng chuyện đạo đức vẫn giữ truyền thống cực kỳ nghiêm khắc. Nếu sự thật chuyện Kim Hà tự tử vỡ lở, không những thằng mất dạy bị tan tành sự nghiệp, mà bố nó vì tai tiếng, đường công danh cũng suy vong, nên hai cha con ngã giá sẽ tặng tao chiếc mô tô Java Tiệp Khắc, để tao biến thành Thị Kính, còn thằng mất dạy sẽ cưới Kim Hà. Những năm đó, du học sinh từ Trung Quốc về chỉ mang được chiếc xe đạp Phượng Hoàng, cuốn Mao Tuyển và tinh thần Đại Cách mạng Văn hóa trong đó có phong trào “Ba Khoan”. Còn đám du học ở Đông Đức, Tiệp Khắc thuộc đẳng cấp cao hơn hẳn, về nước mang toàn mô tô Mokick, Java và nền văn minh “ăn cơm trước kẻng”, khiến các trinh nữ thủ đô đua nhau học tập Thị Màu, ngồi phía sau nệm xe, dạng đùi, ôm eo các chàng Java, Mokick sáng rực đường phố Hà Nội ngàn năm văn vật toàn xe đạp. Vụ dùng chiếc Java làm đồ đánh đổi danh dự, tao chỉ muốn đập vào mặt cả hai cha con, nhưng nghĩ thằng mất dạy cuối cùng cũng chịu cưới Kim Hà, nên tao chấp nhận làm Thị Kính miễn phí. Chuyện này xảy ra trước khi tao và Linh Xuân chính thức yêu nhau hai năm, làm sao tao lại thành thằng tham vàng bỏ ngãi, khiến Kim Hà tự tử? Thằng mất dạy và Kim Hà bây giờ có ba con đều đã lấy chồng, lấy vợ, vẫn coi tao là ân nhân. Khôi ơi là Khôi, tao tưởng mày đã là thánh thì phải sáng suốt hơn người thường, sao đến nay, mày vẫn vì chuyện này mà không chịu gặp tao? Hu hu hu…
Linh Xuân vỗ về chồng:
- Em yêu và ở với ông chồng tội phạm đến hết trứng rồi mới biết đó là người lương thiện, thì anh trách anh Khôi làm gì, khi đến hôm nay anh mới thanh minh.
Linh Hoa nói:
- Tại ông cứ lúc đùa, lúc thật, lúc nhìn nhận rất giỏi, lúc trí nhớ lẫn lộn, đến chúng con rất yêu ông mà cũng có lúc nghi ngờ, thì ông Khôi và ông Danh Hùng đến giờ vẫn giận, con thấy ông cũng nên thông cảm.
Linh Xuân nghiêm nghị:
- Con không được nói ông như vậy.
Anh Lạc lắc đầu:
- Không. Nó nói thật đấy. Tụi trẻ bây giờ ưa nói thật, đừng ngăn cản chúng. Nhưng con phải lưu ý, có sự thật đúng và có sự thật không đúng. Ví dụ, ông chưa bao giờ nhận mình là giỏi cả. Vừa rồi, ông vẫn nói với ông Tuấn, ông chỉ là kẻ khôn ngoan, hay nói một cách châm biếm, chỉ là thằng khôn lỏi. Người giỏi thật sự phải là hai ông Nguyễn Minh Khôi và ông Danh Hùng đang nằm trong mộ. Tất cả các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của đất nước ta, những người giỏi phải nằm trong mộ nhiều lắm. Người giỏi và người khôn khác nhau thế nào? Người giỏi là người cả nền nhà lẫn mái nhà đều bền vững, có thể làm thủ lĩnh, đứng đầu thiên hạ lâu dài, còn người khôn thường biết chớp thời cơ, chỉ nên làm quân sư, dù có lúc gặp thời lên làm thủ lĩnh thì cũng sớm thất thế, vì thiên hạ chỉ quy phục người giỏi chứ không quy phục người khôn. - Anh quay sang tôi. - Cuộc đời anh may mắn có nhiều thầy giỏi. Thầy dạy chữ vỡ lòng của anh với anh Khôi là thầy Tạo quê Phúc Yên, ở trường Đỗ Hữu Vị, nhưng một trong những thầy dạy đạo cho anh là ai, em biết không? Chính là anh Khôi và anh Danh Hùng. Hồi đó, anh rất mê thần tượng tướng cướp rừng xanh Robin Hood trong tiểu thuyết của Alexandre Dumas, chuyên cướp của người giàu chia cho người nghèo. Thế là trong trường, những đứa nào con nhà giàu, nay bị mất com pa, mai bị mất bút máy, mất mũ, có đứa còn mất tiền. Thầy giáo nào phạt đánh học sinh một thước kẻ, lập tức xe đạp bị vặn mất chuông hoặc mất đèn. Cả trường thầm thì ca ngợi một Robin Hood giấu mặt và đoán già đoán non là Huy Lạc. Anh vô cùng sung sướng, tự hào với vai người hùng giấu mặt luôn tranh đấu cho sự công bằng, bênh thiện, diệt ác. Chuyện này hồi cùng học, em biết rồi. Nhưng em chưa biết, anh Khôi em và anh Danh Hùng đã nện cho anh một trận nhừ tử. Anh Khôi nói: “Mày thương người nghèo, người yếu thế, thì bỏ tiền túi ra chia cho người ta, chứ lấy của người này chia cho người khác, mày là tội phạm chứ không phải anh hùng”. Lúc đó, anh thua phải chịu, chứ không phục Minh Khôi và Danh Hùng. Nhưng càng về sau, chuyện đời, chuyện đạo ngấm đủ vào người, anh mới thấy anh Khôi và Danh Hùng rất đúng. Giờ anh chị làm được bao nhiêu cũng dành cho các quỹ từ thiện chính là theo chân lý của anh Khôi: “Muốn thương những người nghèo và người yếu thế, hãy bỏ tiền túi của mình ra chia sẻ”. Anh chỉ thêm phần sau: “Muốn giúp được nhiều cho những người nghèo và người yếu thế, mình phải biết cách làm ra nhiều tiền, dù mình chỉ là phó thường dân”.
Linh Hoa ranh mãnh nháy mắt với vợ tôi, rồi nói với ông ngoại:
- Nhưng hiện ông vẫn đang đứng đầu thiên hạ nhỏ là nhà mình và thiên hạ vừa là tập đoàn Linh Huy do ông sáng lập.
- Lại là một sự thật nhưng không đúng rồi. Cái thiên hạ nhỏ này, dưới ông bà là năm cô con gái, dưới năm cô con gái là mười một đứa cháu gái, trong đó có cháu, đàn ông trong nhà chỉ có ông và năm chàng rể. Nếu dân chủ bỏ phiếu thì ai là thủ lĩnh thực sự? Còn cái thiên hạ vừa là tập đoàn Linh Huy, vì biết trước vượng nghiệp của người khôn không thể lâu dài, ông đang từng bước bàn giao hết cho con cháu quản lý, để hai năm nữa, khi thực sự được nghỉ ngơi, ngồi vuốt râu, cùng bà làm khán giả xem thiên hạ lớn là đất nước sẽ đi tới đâu. Con thấy ông vẫn khôn đấy chứ. Này, thế hệ trẻ các con luôn thích nói sự thật, nhưng có những sự thật đúng và có cả sự thật sai. Cái đúng ở đây không phải chỉ đúng sự việc mà còn đúng đạo lý, đúng pháp lý và cả đúng lúc.
Vợ tôi cười:
- Còn sự thật sai? Vì em nghĩ, đã sai thì không còn là sự thật.
- Em định bênh con Linh Hoa hả? Sự thật sai là lúc mới gặp, anh đã đọc vanh vách tên tuổi lý lịch của em, chính xác trăm phần trăm, vậy sai ở chỗ nào? Ở chỗ anh nghe nhiều người kể về em từ lâu nhưng lại bốc phét là anh biết điều đó là nhờ thông thạo tâm linh.
Mọi người cười ồ cùng hướng về Linh Hoa.
Huy Lạc với tay xoa đầu cháu:
- Con thấy các ông bà đang cười rộng lượng với sự ấu trĩ của đại diện thế hệ trẻ chưa?
Linh Xuân:
- Mọi người cười vì nó đã lừa được ông ngoại ra khỏi sự ám ảnh bởi “mối thù” của hai ông Minh Khôi và ông Danh Hùng.
- Làm sao lừa được…
Huy Lạc bỗng vịn bàn đứng dậy:
- Anh biết thế nào hai anh ấy cũng về. Lúc đầu, hai thằng không về do mình nói chuyện đời, chẳng dính líu gì đến chúng nó, còn bây giờ chúng nó về là do mình nói chuyện đạo.
Linh Xuân vội đứng dậy đỡ chồng. Tôi cũng đỡ một bên vai Lạc.
- Chú làm ơn cùng tôi dìu anh ấy ra võng.
Huy Lạc bỗng lảo đảo, lắc lư, miệng lẩm bẩm:
- Tôi biết thế nào các cậu cũng đến mà. Vợ chồng tôi từ Hà Nội vào đây mà các cậu vẫn giận oan tôi là không thể chấp nhận…
Tư Quảng phải tham gia, ba chúng tôi mới đưa được Lạc nằm gọn xuống chiếc võng gấp, ngay từ đầu đã được đặt trong lều bạt.
- Chúng mình có sang kiếp sau cũng vẫn ba trong một. Đó là sự thật… Sao các cậu không OK đi? Chúng mình mãi mãi là ba trong một. OK đi…
Tiếng lầm bầm nhỏ dần theo cái miệng chỉ còn mấp máy. Rồi Lạc ngoẹo đầu lịm đi.
Thấy Linh Xuân và cháu Linh Hoa có vẻ điềm tĩnh, vợ tôi nói:
- Vừa rồi, chị để anh ấy uống quá nhiều. Với người lớn tuổi lại từng bị sốt rét ác tính, không chủ quan được đâu.
Linh Xuân nói:
- Chị quen nhiều bác sĩ giỏi. Các anh ấy đều nói đây là trường hợp hội chứng chiến tranh, nhiều cựu chiến binh thường mắc phải, khi các anh ấy hồi tưởng, cứ để tự nhiên, rồi sẽ tự tan cơn… Em an tâm đi. Chị hiểu bệnh anh ấy mà.
Tư Quảng nói:
- Tôi cũng có những lúc nhớ đồng đội đã khuất, nhớ chiến trường đẫm máu ở biên giới phía Bắc, thế là bốc hỏa lên, nhưng hết cơn nhớ lại trở về bình thường, nên các bác sĩ gọi là bệnh chưa chắc đã đúng.
Lời Tư Quảng khiến tôi sực nhớ đến bữa ăn cơm hến tại quán Bình An, ở Huế, với nhà văn Nguyễn Quang Hà và Quốc Toản, hai cựu chiến binh cùng sư đoàn Mai Siu với anh Khôi. Bữa ăn đó, Quang Hà nói cấm uống rượu, nhưng rồi Toản vẫn mang rượu đến, để rồi mới hai ly đã nằm lăn ra võng để gặp các đồng đội hy sinh. Quang Hà cũng bảo: “Các bác sĩ ở Hà Nội, Huế và cả nước ngoài chữa cho Toản, đều nói đó là hội chứng chiến tranh của riêng cựu chiến binh Việt Nam, chỉ khi chết mới chấm hết”.
Đúng lúc đó, điện thoại di động của tôi reo. Nguyễn Thế Vinh gọi từ Hà Nội.
Tôi ra khỏi lều bạt, nói nhỏ:
- Anh đang ở chỗ anh Khôi.
- Em đã đến nhà bác Quỳnh gái.
- Thế nào?
- Đúng là sáng nay bà Danh Huyền cùng hai đứa con vào viếng mộ anh Khôi, rồi phải bay ra ngay vì ông Bá Vân đang nằm cấp cứu ở bệnh viện.
- Anh ấy có vợ mới rồi kia mà?
- Bỏ lâu rồi. Bỏ hai lần rồi. Chuyện dài lắm, khi nào anh ra, em sẽ kể, nhưng chuyện này còn kinh hoàng hơn. Sau khi em bấm chuông, bác Quỳnh ra mở cửa, nói bà Danh Huyền không có nhà. Lúc theo bác vào phòng khách, em suýt chết ngất khi thấy hai thằng con sinh đôi của bà Danh Huyền ngồi ở xa lông cùng giống anh Khôi như ba giọt nước.
- Tại sao có chuyện đó?
- Bác Quỳnh nói, đó là nguyên nhân khiến ông Bá Vân với bà Danh Huyền bỏ nhau. Và không phải tự nhiên, bà Danh Huyền vào viếng anh Khôi lại đưa hai đứa theo.
- Thôi thôi… Chú đừng nói thêm nữa. Hiện anh chị vẫn đang ở bên mộ anh Khôi với vợ chồng anh Huy Lạc, cũng suýt nữa vỡ tim khi anh ấy tin chắc thấy anh Khôi hiện về. Nay thêm chuyện giật gân này chắc anh đột quỵ luôn. Có thể ngay ngày mai, anh sẽ bay ra để nhìn nhận mọi chuyện ở trạng thái bình tĩnh. Mặt khác, anh cũng rất cần gặp Danh Huyền về một chuyện khác.
Và sau cuộc gặp gỡ vợ chồng anh Huy Lạc trong ngày giỗ anh Khôi tại nghĩa trang liệt sĩ Phước Long, tối hôm đó, tôi làm thêm được việc, khi cùng về Sài Gòn, đã gửi anh chị năm cuốn nhật ký của anh Khôi mà vợ chồng tôi không cách nào đọc được, để chị Linh Xuân tìm người có chuyên môn trong viện của chị, giúp phục hồi những nội dung anh Khôi đã viết trong nhật ký.