NGƯỜI LÍNH TÌNH BÁO VÔ DANH
Năm 1976.
Khi hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ kéo dài từ năm 1946 đến năm 1975 chấm dứt, hòa bình được lập lại, đất nước thống nhất, toàn dân đều thở phào nhẹ nhõm và vui mừng. Nhưng khi bình tâm lại sau cảm xúc đó là phải đối diện với hiện thực đời sống: Ở Sài Gòn và miền Nam, có bao nhiêu người phấn khởi tự hào trong chiến thắng, cũng có bấy nhiêu người sống trong lo âu. Bác Danh Quỳnh và số người có hoàn cảnh tương tự như bác thuộc loại ở giữa hai trạng thái. Nếu gọi là buồn vui lẫn lộn thì chỉ đúng theo nghĩa đen.
Sau hôm đến tìm tôi ở Cục Báo chí và Xuất bản miền Nam, tại 96 Đồng Khởi, bác và tôi trở nên thân thiết. Điều gì dẫn đến sự thân thiết này? Bác sinh năm 1920, còn tôi, 1945. Hai mươi năm trước, cùng ở phố Trần Nhật Duật, Hà Nội, tôi chỉ là đứa nhóc con, học cùng lớp với Danh Huyền, và chầu rìa bên anh Danh Hùng do anh là bạn thân với anh Khôi, trong khi bác là chỗ quen quý với bố tôi, nên từ bác đến tôi là một khoảng rất xa, đã vậy còn cộng thêm hai mươi năm xa cách. Và sự xa cách này còn thăm thẳm hơn khi trước đó hai miền Nam - Bắc là hai cực đối đầu một mất một còn toàn diện cả về chính trị, kinh tế, lẫn văn hóa xã hội mà khi bước chân vào Sài Gòn, tôi nhận ngay ra khoảng cách khác biệt này còn lớn hơn tôi tưởng. Đã đành làm nghề tình báo, hoàn cảnh nào thì bác vẫn là người bên ta, nhưng để đủ uy tín và hoàn thành nhiệm vụ, bác vẫn phải sống đời sống thượng lưu như đối phương cùng tầng lớp. Không bao giờ tôi nghĩ mình có thể thành tri kỷ của người đứng đầu nhóm cố vấn đặc biệt của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về chiến lược lật đổ chính quyền Cộng sản Bắc Việt.
Bác không gặp tôi thường xuyên, có lẽ vì tế nhị, cũng có lẽ nghĩ tôi bận, nên hạn chế làm phiền. Một, hai tuần, bác mới dè dặt gọi điện thoại cho tôi vào chiều muộn:
- Giờ này, cháu có bận không?
Dù bận đến đâu, tôi cũng nói đang rảnh, để gặp bác. Nhiều nhà văn có quan điểm phải dành tối đa thời gian để viết, còn tôi luôn dành tối đa thời gian để nghe và nhìn. Có những người, mình sống cả đời bên họ vẫn không thể ra nhân vật nhưng có người chỉ gặp một lần đã thấy ngay mình dành cả đời viết về họ cũng không hết. Một trong những người đó chính là bác Quỳnh, một con người ánh mắt lúc nào cũng thăm thẳm, trầm và sâu lắng. Mỗi lần đến chỗ tôi bằng chiếc Volkswagen đời cũ, do bác tự lái, bác thường rủ tôi sang mấy quán cà phê nhỏ bên đường Thái Lập Thành kế bên cơ quan tôi. Nhưng cũng có hôm, bác nói: “Hôm nay, mình đi ăn tối đã”. Bác hay đưa tôi đến mấy quán sân vườn món ăn Bắc, quen, vắng khách, trên đường Hai Bà Trưng hoặc trong hẻm quanh đường Nguyễn Huệ. Uống hay ăn đều là phụ. Hai bác cháu ngồi bên nhau hàng giờ, thậm chí có hôm ngồi đến khuya. Và tôi sớm nhận ra bác là một chiến binh lớn nhưng đang cực kỳ cô đơn trong không khí chiến thắng. Ngay ngày đầu tiên gặp nhau, bác đã hỏi:
- Anh Khôi cháu hy sinh năm nào? Ở đâu?
Tôi hỏi lại:
- Làm sao bác biết?
- Danh Huyền mới vào đây thăm bác. Nó cũng hỏi thăm về cháu.
Tôi tránh đụng vào Danh Huyền:
- Anh Khôi cháu hy sinh năm 1970, ở miền Đông Nam Bộ.
Bác Quỳnh thở nhẹ:
- Danh Hùng cũng tử trận năm 1970, nhưng ở Svay Rieng, bên Campuchia. Như vậy có thể cùng chiến dịch nhưng hai anh em không đến nỗi phải bắn chết nhau.
Tôi hỏi:
- Sao bác lại để anh ấy đi lính?
- Cháu có tin chính bác khuyến khích nó đi? - Rồi với vẻ bâng khuâng, bác lạc sang chuyện khác. - Từ ngày giải phóng đến giờ, do vẫn phải tiếp tục nhận nhiệm vụ nên bác chưa thể ra Hà Nội, nhưng nghe Danh Huyền vào kể toàn chuyện buồn. Đã đành chiến tranh phải ác liệt, phải hy sinh, mất mát, nhưng bác không ngờ cái giá phải trả cho sự an toàn của người lính tình báo lại đắt như thế. Hồi trước 1945, bác dạy Triết học, còn bác gái dạy Anh, Pháp văn, cùng trường trung học Thăng Long, Hà Nội. Cuối 1946, khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ, từ trung đoàn bảo vệ thủ đô, bác được chọn tham gia công tác tình báo. Nhờ từng là võ sư Judo, bác được lệnh mở võ đường Nhu Việt để hợp pháp hóa cơ sở tình báo trong lòng địch, còn bác gái bỏ nghề dạy học, mở một quán bar, mà hồi đầu, người Hà Nội rất ngứa mắt, khi thấy lính Pháp ra vào dập dìu với gái Việt, nên gọi là nhà thổ với sự khinh miệt, cùng trên đường Lý Thái Tổ. Năm 1954, sau hiệp định Genève, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bác gái được biên chế dạy ở trường Đại học Sư phạm, Hà Nội, thì năm 1957, bác được lệnh vượt tuyến vào Nam, với một đời sống mới hoàn toàn. Phần gia đình ở miền Bắc thế nào, bác hoàn toàn cách biệt. Đương nhiên phải như vậy. Nhưng nghĩ và nhớ thì làm sao mất được. Những lúc thương nhớ, bác chỉ nghĩ vợ con mình đang chịu chung những gian khổ bởi đời sống kinh tế khó khăn của đồng bào miền Bắc, rồi đến giai đoạn Mỹ ném bom miền Bắc..., tất cả bác đều qua những thông tin báo chí hoặc tình báo. Chỉ đến khi nghe Danh Huyền vào kể, bác mới choáng váng. Một thằng cha Danh Quỳnh phản động vượt tuyến vào Nam theo địch, thì biệt thự ở ngõ Tư Đường đương nhiên bị tịch thu, cả nhà chuyển về khu ổ chuột ở ngõ Liên Trì, vợ bị đuổi khỏi trường đại học. Danh Hoàng, tốt nghiệp bác sĩ loại giỏi, đang làm việc ở bệnh viện Bạch Mai, lập tức bị điều lên một bệnh viện heo hút trên Lai Châu, lấy vợ y tá người Thái, rồi có con trên đó. Một lần bọn phỉ vùng ngã ba biên giới Việt - Trung - Lào từ Trung Quốc tràn sang tấn công vào bệnh viện, giết hết các bác sĩ, y tá. Chúng giết mất của Danh Hoàng đứa con gái. Bác gái phải đón đứa con trai còn sống sót của Danh Hoàng là Danh Huy về Hà Nội nuôi. Danh Vũ, em Danh Hùng, anh Danh Huyền, tốt nghiệp lớp mười, đi Thanh niên Xung phong trong Hà Tĩnh, cực quá chịu không nổi, bỏ về, không hộ khẩu, không tem phiếu, mấy năm trời đi đẩy xe bò chở đất hết ở công trường công viên Hồ Bảy Mẫu sang công trường đường Thanh Niên, giờ mang một hòm đồ nghề, ngồi lề đường bơm vá xe, vợ thì làm công nhân ở hợp tác xã sản xuất dép nhựa. Bác gái sau mấy năm đầu sống bằng nghề đan len do chị Tâm cháu nhận việc giùm, từ khi Mỹ leo thang chiến tranh, ném bom ra Bắc, đan len không có việc, thì xin rửa chén bát cho mấy hàng phở, hàng cơm trong phố. Trải qua hai chục năm chiến tranh, từ sống đến chết hay từ giàu xuống nghèo, đều là những đau khổ có thể chấp nhận được, nhưng từ thượng lưu xuống hạ lưu là vấn đề văn hóa, quả là vết trọng thương không cách nào hàn gắn …
Tôi kể cho bác Quỳnh nghe trường hợp của nhà văn Phạm Gia Bình, bạn đi Thanh niên Xung phong cùng lứa với tôi ở Quảng Ninh. Hồi đi học, tôi ở Chu Văn An 3A học buổi sáng thì Bình học buổi chiều ở Chu Văn An 3B, với bản lý lịch được chính quyền thị xã Hưng Yên ghi: “Bố: Địa chủ cường hào gian ác. Anh: Trung úy quân đội Pháp, theo địch vào Nam năm 1954. Hai chị là gian thương ở Hà Nội”, Bình học giỏi nổi tiếng cả hai trường, nhưng không có cửa vào đại học. Tôi chơi thân với Bình từ ngày cùng ra Quảng Ninh, mỗi lần về Hà Nội vẫn ghé vào nhà Bình, một ngôi nhà hai tầng cũ kỹ, nhỏ hẹp, rộng ba mét, sâu mười mét, có tới bốn hộ ở chung trong phố nhỏ Nguyễn Trung Trực. Vậy nên tôi biết rất rõ bố Bình là một thầy lang nổi tiếng ở thị xã Hưng Yên, đưa gia đình lên Hà Nội từ năm 1948, còn hai chị là Dần và Sửu có mẹt bán hàng khô ở chợ Đồng Xuân. Năm 1973, sau hiệp định Paris, người anh của Bình trong đoàn cán bộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được ra Bắc dự tập huấn, cả nhà mới biết anh là tình báo Việt Minh thâm nhập vào quân đội Pháp, từ trước 1945. Nhờ sự công khai này mà lý lịch gia đình Bình được thay đổi. Đang cùng làm thợ với tôi ở công ty Ô tô Lâm sản Hà Nội, anh được nhận về làm phóng viên báo Lao động, được kết nạp vào Đảng Cộng sản và thành hội viên Hội Văn nghệ Hà Nội. Nhưng hai chị của anh vì bản lý lịch xấu mà chuyện chồng con, gia đình cực kỳ bi kịch, nên sự thay đổi quá trễ của bản lý lịch không cải thiện được gì, vì cả hai đều ngoài bốn mươi tuổi. Còn Bình chỉ công tác ở báo Lao động được năm năm, đủ thời gian ra đời một tập truyện ngắn, kịp được vinh danh là cây bút trẻ nhiều triển vọng, trước khi mất do vết thương vùng gan vì bị trúng bom Mỹ trong dịp đi thử xe ở cầu Tràng Bạch, Mạo Khê năm 1969, tái phát. Kể xong chuyện của Bình, tôi hỏi bác Danh Quỳnh:
- Tại sao không có một quy chế ngầm ưu đãi thân nhân các cán bộ tình báo hoạt động trong lòng địch?
Bác Quỳnh nói:
- Khi chiến thắng rồi, hòa bình rồi nhìn lại những mất mát mới thấy quá nhiều nỗi đau, rồi quá nhiều sự xót xa với bao nhiêu điều “giá như”, còn thực tế lại không đơn giản như vậy. Người Mỹ và chính quyền Sài Gòn đang thất bại, ta thường nghĩ họ yếu kém, nhưng thực ra, họ rất mạnh. Riêng về đặc vụ và phản gián, bác là người cùng hội cùng thuyền, nên biết rất rõ, từ đầu não đến các mạng lưới nhân viên của họ đều được đào tạo và rèn luyện rất bài bản ở Mỹ, Đức, Anh, Israel,… là những trung tâm tình báo hàng đầu thế giới. Trong hàng ngũ lãnh đạo của họ không chỉ có những người giàu kinh nghiệm, những cố vấn nước ngoài sừng sỏ mà còn có cả những người bỏ phe ta theo họ. Sở dĩ ta thắng được họ là ở ưu thế ứng biến, khả năng nắm bắt thời cơ và lòng dân. Chứ thực tế, ta hiểu họ thế nào, họ cũng hiểu ta không kém, vì thế, một chút ưu đãi thân nhân các cán bộ tình báo từ hậu phương, dù kín đáo đến đâu, họ cũng đọc thấy hết, mà đã bị nghi ngờ hay lộ diện thì cái giá phải trả trong cuộc đối đầu này không chỉ một sinh mạng của nhà tình báo, mà bao nhiêu công phu, kế hoạch dàn dựng cho những mục đích lớn sẽ đổ vỡ hết, tức đồng nghĩa với thất bại toàn cục. Đây là một vết thương ai đau người ấy chịu, chứ không nên mổ xẻ ra để trách hoàn cảnh.
Một dịp ra Hà Nội làm báo cáo tổng kết về công việc của mình những năm trong lòng địch, bác có nhiều thì giờ gần bác gái, khi vào Sài Gòn, bác kể với tôi đã làm được một việc là xin cho Danh Vũ chân tập sự phóng viên chụp ảnh của báo Thể dục Thể thao, và vợ anh đã bỏ nghề công nhân hợp tác xã dép nhựa, vào làm lao công ở một trường tiểu học, thuộc biên chế nhà nước.
Tôi hỏi:
- Còn bác gái?
- Mấy anh ngoài đó hứa sẽ thu xếp đưa bác gái trở lại trường Đại học Sư phạm và giải quyết truy lãnh lương suốt những năm bị nghỉ việc. Bác về nói thì bác gái bảo: “Phải nhận lại bao nhiêu tiền để lành vết thương không bao giờ lành?”. Bác từ chối nhận truy lãnh, nhưng trước đó đã nhận dịch sách văn học Pháp, do Vinh, em cháu đang làm ở nhà xuất bản Văn hóa mang đến đặt dịch.
Tôi ngạc nhiên:
- Làm sao em cháu biết bác gái?
- Bác gái có kể. Một hôm, bố cháu từ Phúc Yên ra, đến nhà nói rằng dịp ra Hà Nội, cháu có kể cho bố về hoàn cảnh của bác. Bố cháu đã tìm đến bác gái xin lỗi vì đã có sự hiểu lầm trong thời gian dài. Biết bác gái đang thất nghiệp, bố cháu là chỗ quen biết cũ với giám đốc nhà xuất bản Văn hóa nên đã nhờ giúp đỡ. Ông giám đốc cử Vinh đến. Tiện đây, bác cũng cảm ơn cháu và chị Tâm cháu đã giúp bác gái từ hồi đan len.
- Chuyện bố cháu và Vinh giúp bác gái nằm ngoài ý định của cháu, còn vụ đan len, chị cháu là chính, cháu chỉ là chân chạy giao len cho bác, rồi nhận áo về cho chị.
- Nhưng hôm nay, bác gặp cháu để nói chuyện về cháu với Danh Huyền.
Tôi nói lảng:
- À… Cháu với Danh Huyền lâu lắm không gặp nhau.
- Bác với cháu đã là chỗ thân tình, sao cháu không nói thẳng là lâu nay hai đứa cùng tránh mặt nhau? Từ ngày gặp cháu, những lần bác đụng đến Danh Huyền, cháu đều lái khéo sang chuyện khác. Hai lần Huyền vào đây, bác đánh tiếng để hai đứa gặp nhau, cháu đều nói bận đi tỉnh. Bác đoán hai đứa có vướng mắc chứ hoàn toàn không nghĩ có chuyện với Khôi. Chuyến ra Hà Nội vừa rồi, nghe bác gái kể, bác mới biết Huyền và Khôi yêu nhau, rồi vì Huyền lấy Bá Vân mà Khôi xung phong đi bộ đội. Bác hỏi Huyền. Nó nói Tết năm 1966, Bá Vân còn đạp xe chở nó lên Hưng Yên thăm Khôi. Tiếp theo, Khôi bị bắt oan ở công an Hưng Yên, ăn Tết xong, nó cũng lên trại giam thăm. Biết Khôi tự nguyện ở lại trại giam thâm nhập thực tế để viết văn, nó cũng thông cảm. Nhưng khi Khôi nói, trở về đoàn khảo sát, sẽ viết đơn xin nhập ngũ để vào chiến trường chống Mỹ cứu nước, Huyền nó mới phản đối: “Cứu nước là trách nhiệm chung của mọi thế hệ, nhưng anh đừng quên mình đang bị phân biệt đối xử. Em chơi với anh từ hồi học tiểu học, nên cũng biết mọi việc làm tốt của anh đều bị người ta hiểu sai, thậm chí, bị kết tội, là sao?”. Khôi cãi: “Nhưng sau đó, người ta hiểu đúng, nên nếu như trước sau mình vẫn sống hết mình vì mọi người, thì mọi sự hiểu lầm và phân biệt đối xử đều nhất thời”. Huyền nói: “Nhưng chiến trường là nơi có thể chết”. Khôi nói: “Nếu chết vì Tổ quốc thì chẳng có gì phải hối tiếc”. Huyền bật khóc: “Anh không hối tiếc, nhưng em không muốn mất chồng, con em không muốn mất cha… Anh có nghĩ vào chiến trường, anh sẽ bắn nhau với bố em và anh Danh Hùng, bạn thân của anh?”. Khôi nói: “Anh lại nghĩ không thể có chuyện đó, vì anh tin chắc bố em và anh Danh Hùng không theo bọn xâm lược Mỹ”. Hai bên cãi nhau. Khôi mắng: “Vì bị phân biệt đối xử mà em lấy quan điểm chính trị để đánh giá nhân cách, nghĩ bố em và anh Danh Hùng vượt tuyến vào Nam là theo địch, thì chính em theo địch, chứ bố em và anh Danh Hùng không như thế”. Danh Huyền về nhà vẫn còn khóc mãi. Hai hôm sau, Bá Vân đến nhà an ủi Huyền. Hóa ra Khôi về Hà Nội, kể hết với Vân. Khôi nói: “Huyền quá yêu tôi nên mới ngăn cản và mọi lý lẽ cũng không nằm ngoài tình yêu đó. Nhưng chiến tranh có thể kéo dài mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn nữa. Chưa kể, tôi cũng có thể bỏ xác ở chiến trường, nên nếu đã bị ngăn cản quyết liệt rồi mà mình vẫn đi, để Huyền ở hậu phương, trở thành nàng chinh phụ góa bụa thì tôi có tội. Nên trước khi đi, tôi muốn nhờ cậu chăm sóc Huyền, vì tôi biết cậu cũng yêu Huyền, đồng thời có điều kiện chăm sóc Huyền tốt hơn tôi”. Bá Vân chuyển cho Huyền lá thư của Khôi cũng viết đại để như thế. Một lá thư chân thành với tình yêu nguyên vẹn, nhưng đó là thứ tình cảm gia trưởng. Không phải thứ gia trưởng bề trên, cũng không phải thứ gia trưởng phân biệt đẳng cấp hay đàn ông coi thường phụ nữ, mà là của loại người coi trọng lý trí hơn tình cảm. Khôi đã quên mất Huyền cũng có lòng tự ái. Thế là chuyện gì đến phải đến. Nhưng khi đến rồi, nó cứ âm ỉ trong lòng Huyền sự hối hận, nhất là khi biết tin Khôi hy sinh.
- Quan hệ cụ thể giữa Danh Huyền với anh Khôi và anh Bá Vân, giờ nghe bác nói, cháu mới biết. Nhưng cháu cũng chỉ thật sự không muốn gặp lại Huyền từ khi anh Khôi mất.
- Huyền nói với bác, nó với cháu chẳng lạ gì nhau, vì hai đứa từng học với nhau từ năm lớp một, nên cứ để cho cháu tức giận, như vậy nó còn nhẹ lòng hơn một sự thông cảm hay thương cảm. Nó kể không ít lần họp mặt văn nghệ sĩ ở Hà Nội và Sài Gòn, hai đứa đụng mặt nhau, nhưng cháu làm như không biết nó.
- Trời! Sao nó không kể là nó cũng làm như không biết cháu?
Bác Quỳnh bật cười:
- Hai đứa mãi mãi là những đứa trẻ, có khi lại tốt hơn. Bác lúc nào cũng nghĩ mình đã già, chuyện gì cũng cứ phải rành rẽ.
Tôi và bác cứ trẻ già tri kỷ như thế cho đến một hôm, bác đến cơ quan gặp tôi, vẫn trên chiếc xe cổ lỗ.
- Hôm nay, bác đến để đón cháu về nhà bác.
Tôi ngạc nhiên:
- Sao lại có chuyện bất ngờ này ạ?
- Bác và cháu gặp nhau hơn một năm nay, có bao giờ cháu thắc mắc: Sao chưa bao giờ ông này kêu mình về nhà?
- Cháu chỉ nghĩ đơn giản, gặp nhau thân mật ngoài quán là một kiểu của người Sài Gòn.
- Bác ở Sài Gòn hơn hai chục năm, nhưng vẫn chưa quên mình là người Hà Nội. Ngày đầu tiên đến gặp cháu ở đây, bác đã kể với cháu về người vợ thứ hai của bác và cũng ngỏ ý với cô ấy sẽ mời cháu đến nhà ăn cơm. Lời ngỏ ý đó, mãi đến hôm nay, sau hơn một năm, cô ấy mới đồng ý.
Tôi vui vẻ ra xe cùng bác. Nhà bác ở đường Võ Tánh (nay là đường Nguyễn Trãi), từ bùng binh tượng Phù Đổng Thiên Vương rẽ vào chừng năm chục mét. Một căn nhà mặt tiền, một trệt, hai lầu, cũ kỹ, cùng lối kiến trúc với dãy vài chục căn tương tự, có lẽ còn bỡ ngỡ với năm đầu của chế độ mới nên phần lớn đều đóng cửa.
Ra đón chúng tôi là một phụ nữ chỉ khoảng hơn bốn chục, gương mặt đẹp đoan trang, lạnh lùng, mặc đồ đầm, ngực trái có đính băng tang màu đen nhỏ. Thoạt nhìn, tôi đã thấy ngay sẽ khó về cách xưng hô, bởi nữ chủ nhà quá trẻ, trong khi xưng hô theo bác Quỳnh phải là “bác” xưng “cháu”.
- Đây là Tuấn, anh vẫn kể với em. Còn đây là Hoàn Trân, bà xã bác.
Người phụ nữ nhìn tôi thận trọng và chờ chồng giới thiệu, giờ mới hơi mỉm miệng và thoáng gật đầu.
Tôi khẽ chào lại:
- Bác ạ!
Hoàn Trân nói giọng miền Nam:
- Kêu tôi là chị được rồi.
Tôi lúng túng thanh minh:
- Vì cháu vẫn coi bác Quỳnh là bác.
Hoàn Trân nhếch miệng cười nhạt:
- Như vậy là anh đẩy cái khó sang tôi.
Tôi đang khó xử thì bác Quỳnh nói:
- Hoàn Trân không hơn tuổi cháu bao nhiêu, nhưng gọi là chị thì khó cho cả bác lẫn cháu, nên gọi là cô đi.
Cô Hoàn Trân đi trước. Bác Quỳnh đưa tôi đi qua phòng khách chỉ có bộ xa lông đệm mút bọc nỉ cũ và giá gỗ cao xếp đầy sách, chắn ngang lối lên cầu thang, rồi vào phòng ăn liền bếp ở phần trong tòa nhà bề ngang rộng bốn mét, sâu chừng hai mươi mét. Trên bàn ăn đã bày sẵn bát đũa và món ăn mà chỉ ngửi mùi, tôi đã biết là bún chả và nem cua bể. Bác Quỳnh hỏi:
- Lần đầu tiên đến đây, cháu cảm giác thế nào? Có khác nhiều so với hồi nhà bác ở ngõ Tư Đường, Trần Nhật Duật, Hà Nội?
Tôi nói:
- Cháu rất ngạc nhiên khi không chỉ bác mà phần lớn các quan chức cao cấp và tướng lĩnh Sài Gòn mà cháu tiếp xúc phỏng vấn, đều ở những căn nhà có phần khiêm tốn.
Bác Quỳnh xuề xòa, không ra đùa, không ra thật:
- Thế cháu không biết người trong Nam khác người ngoài Bắc mình ở chỗ luôn coi thường cái nhà à?
Cô Hoàn Trân mời tôi ngồi vào bàn ăn, rồi ra xách chiếc cặp lồng trên kệ bếp:
- Anh và Tuấn cứ ăn, còn em sang nhà má.
Bác Quỳnh thoáng vẻ không hài lòng. Cô Hoàn Trân nói thêm:
- Nhưng mời má qua đây rất không tiện.
- Thôi được rồi. Em cứ sang với má, rồi về đây. Anh và Tuấn sẽ ngồi uống rượu chờ. Anh không muốn mời khách ăn cơm mà chủ nhà kiêm đầu bếp vắng mặt.
Cô Hoàn Trân có vẻ miễn cưỡng với cách giải quyết ấy, nhưng vẫn dịu giọng với tôi:
- Tuấn cứ tự nhiên. Tôi dân Nam, gần hai chục năm nay cố gắng tập nấu theo lối Bắc nhưng vẫn cứ bị anh Quỳnh chê, nếu không vừa miệng, Tuấn cũng thông cảm nhé.
Bác Quỳnh ra đóng cửa cho vợ, rồi quay vào, mở tủ lấy ra chai rượu vang Pháp và hai chiếc ly pha lê:
- Nhà bà ở bên đường Ngô Tùng Châu cách đây mấy bước. Do bà ở một mình, mọi khi ăn trưa, ăn tối vẫn đón bà sang đây. Còn thái độ của cô Hoàn Trân, bác mong cháu thông cảm.
- Chắc cô có chuyện buồn?
- Không chỉ buồn mà còn căm giận. Căm giận bác.
Bác Quỳnh rót rượu ra hai chiếc ly, rồi nâng ly về phía tôi:
- Nào, chúc mừng cháu đến chơi nhà bác. - Bác nhấp rượu rồi bắt đầu kể. - Từ tháng Ba năm 1975, việc mất Ban Mê Thuột quá nhanh và bất ngờ đã khiến nhiều người thuộc giới chóp bu trong chính quyền Sài Gòn linh cảm thấy sự sụp đổ toàn diện, chứ không phải chờ đến lúc lần lượt mất Huế rồi Đà Nẵng. Là người phía bên mình, nằm vùng ngay bên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đương nhiên bác vui mừng, nhưng em ruột Hoàn Trân là Hoàn Vương, trung tá lực lượng đặc biệt lại tử trận khi lên cứu ứng Ban Mê Thuột. Nghe tin, Hoàn Trân và mẹ cùng chết ngất. Bác cũng lặng đi mấy ngày… Thực tình, khi biết Hoàn Vương bị điều lên Tây Nguyên, bác rất muốn can vì biết chắc Vương đi vào chỗ chết, nhưng không thể… Ba của Hoàn Trân, một tướng có uy tín, nghỉ hưu cuối năm 1973, sau khi hiệp nghị Paris ký kết, vì đinh ninh chiến tranh chấm dứt, mình từ giã binh nghiệp đúng lúc. Lúc mất Xuân Lộc, ông gọi bác sang nhà nói: “Miền Nam mình thua rồi. Nếu Sài Gòn rơi vào tay cộng sản, loại chống cộng như con chắc chắn lãnh tử hình. Đại tá Đỗ Văn Ri, chánh Văn phòng Không lực, là chỗ bạn bè, vừa báo đã thu xếp cho ba một xuất đi Mỹ bằng đường hàng không, ba nói sẽ nhường cho con. Ông Ri đồng ý. Vậy con liên lạc ngay với ông ấy để đi càng sớm càng tốt”. Bác hỏi: “Ba thì sao?”. Ông nói: “Ba sẽ đi đường biển. Con quên đất Nam Bộ của ba ba bề là biển à?”. Sáng ngày ba mươi tháng Tư năm 1975, khi quân Giải phóng vào đến cửa ngõ Sài Gòn, ông mặc binh phục, gọi cận vệ đưa xe Jeep đến đón. Mẹ Hoàn Trân hỏi: “Ông đi đâu?”, ông nói: “Tôi vào sân bay. Nếu tình hình thuận lợi, sẽ quay lại đón bà”. Lúc đó, bác đang ở trong dinh Độc Lập. Trước khi rời gia đình, ông gọi điện cho bác. Lần đầu tiên, ông đổi cách xưng hô, gọi bác là “anh” với giọng cố kìm: “Tại sao tôi tạo điều kiện cho anh, anh lại không đi?”. Bác trả lời: “Con rất cảm ơn ba. Nhưng con không thể bỏ chạy”. Ông thở hắt: “Tôi quý anh ở lòng trung thành. Tuy nhiên, anh cũng cần biết điều tối thiểu, mình phải sống để vợ con mình sống theo, còn mình chết thì vợ con mình có sống cũng như chết”. Dứt lời, ông cúp máy. Ông đi chừng hai giờ thì người cận vệ quay lại nhà, báo tin ông không vào sân bay mà đến văn phòng Bộ Tổng Tham mưu, rút súng lục tự sát trước mặt các sĩ quan để chết như một người lính trên chiến trường. Cháu biết trong chuyện này, bác đau nhất ở đâu không? An Dương Vương khi mất thành Cổ Loa, trước khi tự sát còn biết Mỵ Châu vì tình mà dại dột, còn cha Hoàn Trân, đến khi chết vẫn tin bác là người đồng hành.
Tôi nói:
- Cháu xin chia buồn cùng bác và cô Hoàn Trân.
Bác Danh Quỳnh thở dài:
- Chưa hết. Năm 1957 cùng Danh Hùng vượt tuyến vào Nam, được hơn một năm bác được lệnh phải lấy vợ và có gia đình, để không còn dính dáng với miền Bắc. Từ ngày nhận nhiệm vụ mới, bác chỉ có một liên lạc duy nhất là cô Hải Liên, giáo viên lịch sử trường trung học Marie Curie, người Hải Phòng, gia đình vào Nam từ năm 1940. Bác và Hải Liên có cảm tình với nhau, nên bác đề xuất sẽ lấy cô ấy. Đồng chí cấp trên nói: “Lấy như vậy khác gì lạy ông, tôi ở bụi này. Phải lấy một người có dây mơ rễ má với bên địch, gốc miền Nam càng tốt”. Để có vỏ bọc cực kỳ an toàn, vụ mai mối đưa sang tận Mỹ. Nhân một dịp sang Mỹ nghiên cứu nghiệp vụ, bác được thu xếp gặp một phụ nữ khác, nhưng duyên số thế nào lại quen Hoàn Trân, con gái tướng Hoàn Phương, đang học ngành tài chính bên đó. Về nước, Hoàn Trân làm việc ở Việt Nam Thương Tín Ngân hàng. Bác và cô ấy có hai con, một trai, một gái. Hoàn cảnh như vậy, cháu thử nghĩ liệu bác có vui được khi khoe với vợ thực ra mình là ai sau ngày chiến thắng?
Bác Quỳnh kể tiếp:
- Sáng ba mươi tháng Tư năm 1975, Dinh Độc Lập chỉ còn Tổng thống mới Dương Văn Minh và nội các thành lập vội vàng của ông, nhưng bác và một số chức sắc thời ông Thiệu vẫn ở lại, chờ lệnh sẽ đầu hàng quân Giải phóng. Riêng bác cũng chờ thêm một lệnh cấp trên, với cảm xúc nôn nao và hình dung mình sẽ ra công khai trong vinh quang thế nào, lúc đó thì nhận được điện thoại của Hải Liên: “Tuy chúng ta chiến thắng tuyệt đối, nhưng tình hình vẫn phức tạp, với những diễn biến khó lường, nên trên chỉ đạo anh vẫn tiếp tục giấu mình cho đến khi có lệnh mới?”. Thế là bác về nhà để đi trình diện Ủy ban Quân quản, rồi cùng các tướng lĩnh và quan chức cao cấp chính quyền Sài Gòn, những người không nơi trốn chạy, vào trại cải tạo trên Sông Bé, đến cuối tháng Mười năm 1975, mới được “tự do”. Trong năm tháng bác ở trại, Hoàn Trân phải bán nhà để có tiền đi thăm nuôi. Cũng trong năm tháng cực kỳ hoảng loạn và bế tắc, gia đình em trai Hoàn Phước, vợ và ba con của Hoàn Vương trốn ra Vũng Tàu, theo một đường dây tổ chức vượt biên. Tàu ra đến vùng biển quốc tế, bị hải tặc Thái Lan tấn công, gần trăm người bị cướp và bị giết, ném xác xuống biển. Còn trước khi bác “tự do” một tháng, Hoàn Trân đã gửi hai con theo một đường dây vượt biên khác bằng đường cảng Hải Phòng qua Hồng Kông.
Đúng lúc đó, có tiếng chuông gọi cửa.
Bác Quỳnh nói:
- Hoàn Trân về.
Bác ra mở cửa, rồi cùng Hoàn Trân vào bàn ăn. Cô Hoàn Trân nhìn đồ ăn vẫn còn nguyên, nói:
- Em đã bảo anh và Tuấn ăn trước rồi kia mà?
Bác Quỳnh rót rượu ra ly cho vợ:
- Tuấn đã như người nhà, ngồi chờ cũng có sao đâu. Anh vừa kể cho Tuấn vụ anh vào trại cải tạo và em phải đi thăm nuôi.
Cô Hoàn Trân bỗng nóng nảy một cách bất ngờ:
- Phải nói thẳng đấy là những ngày điên loạn và nhục nhã nhất của đời em.
Bác Quỳnh vội xua tay:
- Thôi thôi… Những chuyện này vẫn khiến em xúc động, thì anh xin lỗi, rồi chúng ta chuyển đề tài để bữa ăn bớt căng thẳng.
Tôi nói:
- Cháu thông cảm với cô mà bác.
Cô Hoàn Trân không bớt đi chút bức xúc nào:
- Nhục nhã nhất không phải chuyện Việt Nam Cộng hòa thua Cộng sản, mà là chỉ sau khi từ trại cải tạo về anh mới cho em biết anh thật sự là ai. Việc đó khiến em kinh hoàng. Hóa ra trong khi em lấy anh từ tình cảm thật thì anh lấy em theo lệnh cấp trên. Vì em là con kẻ thù thì sự an toàn cho cái vỏ bọc của anh sẽ cao hơn. Đã không tình cảm, thì lúc ngủ với em là anh làm nhiệm vụ hay chỉ nhằm thỏa mãn nhục dục? Để ngụy biện cho chuyện này, anh hay nói đến quy luật nghiệt ngã của chiến tranh. Thế lúc đưa xác Hoàn Vương từ Ban Mê Thuột về, trong đám tang của nó, anh chấm nước mắt là đau buồn thật hay nước mắt cá sấu? Còn đám tang lạnh lẽo và vội vàng của ba vào ngày một tháng Năm năm 1975, anh đang nghĩ mình là con rể hay đang mừng thầm vì thêm một tên địch bị loại khỏi vòng chiến? Nếu biết sớm anh là Việt cộng, không đời nào em để cả nhà Hoàn Phước và vợ con Hoàn Vương vượt biên rồi chết thảm ngoài biển. Em cũng không bỏ cả trăm cây vàng gửi hai con lặn lội ra tận Hải Phòng, qua Hồng Kông, vì chúng hoàn toàn có thể chết mất xác như hai nhà Hoàn Phước, Hoàn Vương…
Bác Quỳnh thở dài:
- Thôi được. Em đã quyết nói rồi thì cứ nói hết. Anh tin Tuấn sẽ biết nghe và hiểu cho cả hai chúng ta.
Cô Hoàn Trân quay sang tôi:
- Tuấn thử nghĩ kỹ coi. Chẳng có thứ chiến tranh nào không ác liệt, không chết chóc cả, nhưng tôi xin các người cả hai phe, đừng dùng nó để ngụy biện cho việc khiến những người chẳng dính gì đến chiến tranh bị chết lây. Tôi dứt ruột bán như cho căn nhà bốn tầng ở Hai Bà Trưng được có bốn cây vàng, đi thăm anh ấy năm lần trong năm tháng và hết sạch. Hết lòng dồn thương yêu cho người chồng thất thế đang bị đày đọa, nhưng hóa ra anh ấy ở tù vì nhiệm vụ mới. Tự nhiên tôi thấy thương hại cái thân mình, rồi thương cho cả ba má và các anh chị em trong nhà, khi người ta sống giả, còn mình lại thương thật suốt một thời gian dài. Nhưng hôm rồi, theo anh ấy ra Bắc, được gặp người vợ và gia đình anh ấy ở Hà Nội, tôi mới thấy sự mất mát của mình chẳng là gì. Vợ và các con anh ấy phải hy sinh cả hiện tại lẫn tương lai suốt gần hai chục năm chỉ để đảm bảo an toàn cho anh ấy.
Hoàn Trân bỗng gay gắt hơn:
- Nếu Danh Hùng học kinh tế ở Mỹ thì đã không chết thảm, mất xác ở Campuchia.
Ánh mắt bác Quỳnh bỗng tối đi. Giọng Hoàn Trân như dòng điện đang thông bỗng bị đoản mạch, tắt phụt. Dường như cô nhận ra, cảm xúc quá đà mình đã đụng vào điều không nên nói. Rồi cô quay sang tôi:
- Tôi thành thật xin lỗi Tuấn. Tôi đã câm lặng với anh ấy suốt từ hôm đón anh ấy từ trại cải tạo về, và thề sẽ câm lặng đến lúc chết, nhưng rồi vẫn không giữ được. - Cô bật khóc. - Trong chưa đầy một năm, liên tiếp mất cha, mất anh, rồi mất lần lượt em trai, em dâu, chị dâu, bốn đứa cháu, liệu mẹ cô và cô có còn là một người bình thường?
Cô nghẹn ngào nói với chồng:
- Em xin lỗi. Đúng ra em không nên nói gì, vì em biết anh vẫn đau khi đụng đến Danh Hùng… Và em cũng không muốn mất nốt anh vì những cơn điên giận.
Bác Danh Quỳnh xúc động:
- Anh mới là người phải xin lỗi và chịu ơn những hy sinh của em cho anh. Nhân có Tuấn ở đây, anh nói lại: Tình yêu của anh với em và hai con, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng là tình yêu thật. Sự quý trọng của anh với ba má và các anh chị em bên gia đình em, trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng là tình cảm thật, dù hai bên đối lập về chính kiến. Vừa rồi, em trót nhắc đến Danh Hùng, lại im bặt vì sợ đụng vào sự nhạy cảm của anh, nhưng tiện đây, anh cũng kể với em và Tuấn, điều anh chưa từng kể với ai về Danh Hùng.
Bác Quỳnh nhìn tôi:
- Nói thật với cháu, từ ngày Danh Hùng mất, bất cứ lúc nào bác cũng nhớ đến nó… Ông thầy đầu tiên đưa bác vào nghề tình báo dạy rằng: “Người chiến sĩ tình báo sống trong lòng địch, nhất định phải có ý chí thép, nhưng cũng nhất định không được để mất cảm xúc về tình yêu thương con người. Chỉ có điều khi khóc, nhớ để nước mắt chảy vào trong”. Vậy mà mỗi lúc nghĩ về cái chết của Danh Hùng, nước mắt bác vẫn chảy ra ngoài. - Giọng bác Quỳnh ngậm ngùi. - Năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, bác như người lính hoàn thành nhiệm vụ, thở phào nhẹ nhõm bởi được chấm dứt cuộc sống hai mặt trong lòng kẻ thù bề ngoài tưởng yên bình, thực tế vẫn thường xuyên căng thẳng, quyết liệt, vì chỉ một chút sơ sảy, là bị lộ, là đón nhận cái chết, kéo theo bao nhiêu tổn thất với nhiều người hy sinh, có khi cả một chiến dịch thất bại. Nhưng từ năm 1954 đến 1957, miền Bắc thời hậu chiến vẫn đủ thứ ngổn ngang phức tạp. Hậu quả chiến tranh cũng có, nghèo nàn lạc hậu cũng có, ấu trĩ non kém cũng có và đương nhiên có không ít sai lầm, khiến những người vững tin và từng trải cũng phải động não rất nhiều mới không bị phân tâm giữa lý tưởng và thực tế. Đúng lúc đó, một đồng chí cấp trên trực tiếp gặp bác nói: “Tình hình chính trị miền Nam ngày càng phức tạp. Người Mỹ bắt đầu nhảy vào. Chính quyền Ngô Đình Diệm đang quyết liệt củng cố quyền lực bằng cách đàn áp những lực lượng đối lập, trong đó có việc chống cộng, trả thù những người theo Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp. Đồng thời, chúng thành lập những lực lượng ngầm, lợi dụng tình hình bất ổn và khó khăn kinh tế, từng bước âm mưu chiếm lại miền Bắc”. Như vậy, chuyện đến năm 1956, theo Hiệp định Genève, tiến hành tổng tuyển cử hai miền, thống nhất đất nước, chắc chắn sẽ không diễn ra. Suốt tám năm sống trong lòng địch ở Hà Nội, bác quá hiểu tình hình, nên đồng tình với nhận định như vậy. Đồng chí cấp trên nói: “Chúng ta không thể ngồi im, chờ tình hình thật xấu mới đối phó. Để không bị động, riêng mặt trận tình báo, ta sẽ phải đánh người thâm nhập trong lòng địch. Nếu chúng tôi chọn đồng chí thì sao?”. Là người lính luôn hết mình vì nhiệm vụ, đương nhiên bác không từ chối. Thậm chí, bác còn hăng hái xung phong dấn thân vào nhiệm vụ mới. Một vụ án phản động được dựng lên, bác bị bắt, rồi vượt ngục, sau đó, tìm cách vượt tuyến vào Nam. Nhưng do hồi Cách mạng tháng Tám, rồi kháng chiến toàn quốc, bác có mấy năm tham gia Việt Minh, đến giữa năm 1947 mới bỏ kháng chiến về Hà Nội. Giờ vào Nam, đối mặt với lực lượng phản gián của CIA và đặc vụ của chính quyền Ngô Đình Diệm, toàn hàng cao thủ, liệu dàn dựng của vụ án có qua mắt được họ? Thế là chính bác đề xuất khi vượt tuyến vào Nam sẽ đưa theo một đứa con cho vụ việc được tự nhiên. Năm đó, Danh Hoàng vừa tốt nghiệp bác sĩ, đang làm việc ở bệnh viện Bạch Mai, Danh Huyền là con gái và Danh Vũ cùng còn nhỏ, nên bác quyết định chọn Danh Hùng. Hùng đang năm cuối trung học cùng anh Khôi cũng là đứa lanh lợi, thông minh và rất hiểu bác. Vào Sài Gòn, bác làm việc trong bộ phận chịu chỉ đạo trực tiếp của ông Ngô Đình Nhu, cố vấn thân cận của Tổng thống Ngô Đình Diệm, chuyên theo dõi và phân tích tình hình nội bộ giới lãnh đạo miền Bắc. Đồng thời, bác cũng thu xếp cho Danh Hùng sang Mỹ du học ngành tài chính để sau này có cơ hội đóng góp cho đất nước thời hòa bình. Mọi chuyện tưởng thuận lợi thì giữa năm 1959, nghi ngờ có sự tạo phản trong chính quyền, hai anh em ông Diệm quyết liệt thẳng tay thanh trừng nội bộ. Những người từng tham gia Việt Minh, trong đó có bác, bị lọt vào tầm ngắm. Một số người có con du học ở Mỹ theo những ngành dân sự, muốn xóa tan nghi ngờ, chứng tỏ mình theo phe tổng thống, chống cộng tuyệt đối, liền chuyển con sang ngành quân sự. Bác bay sang Mỹ, nói tình hình với Danh Hùng. Để an toàn cho bố, Hùng chấp nhận chuyển sang học quân sự, chuyên ngành trực thăng vũ trang. Khi về nước với hàm trung tá, bác thu xếp cho Hùng được ở trường huấn luyện. Kết quả, bác vẫn giữ nguyên được vỏ bọc đến tận thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Nhưng cái giá phải trả cho tính toán tưởng khôn ngoan này lại cực đắt. Giữa năm 1970, để trả đũa cuộc tấn công Mậu Thân 1968 của ta, quân Mỹ hỗ trợ tối đa cho quân lực Việt Nam Cộng hòa tổ chức tấn công tổng lực nhằm quét sạch toàn bộ căn cứ quân Giải phóng dọc biên giới Tây Nam với Campuchia. Để dồn toàn lực cho cuộc tổng tấn công, nhiều sĩ quan thuộc các trung tâm huấn luyện, trong đó có Danh Hùng, bị điều ra mặt trận. Do biết trước kế hoạch của địch, chúng ta vừa đánh vừa rút sang bên kia biên giới, nhử địch tràn qua sẽ phản đòn. Các trận chiến vô cùng ác liệt, hai bên cùng thiệt hại lớn. Danh Hùng cố tránh né không được, khi tấn công một căn cứ trong rừng gần biên giới Nam Tây Nguyên, nó cùng bốn đồng đội đã chết mất xác ở phía bắc Svay Rieng do trực thăng bị bắn hạ. Mỗi lần nghĩ về sự ra đi của Danh Hùng, bác không bao giờ quên được ánh mắt và lời nói rất buồn của nó khi về nhà chia tay bác để dấn thân vào chiến dịch: “Con luôn tin tưởng và nghe lời bố. Con cũng sẵn sàng chết để bảo vệ bố. Nhưng chúng ta đang theo Mỹ có thể là một sai lầm”. Bác bảo: “Đừng quên con được chính Mỹ đào tạo”. Danh Hùng nói: “Nhờ Mỹ đào tạo con mới biết, họ là người chơi cờ, còn chúng ta chỉ là những quân cờ”. Tức là, ngay cả lúc chết trong cuộc chiến, nó cũng không biết bố nó là ai. - Bác Quỳnh kín đáo chấm nước mắt. - Những năm sau, bác và gia đình bốn đồng đội của Danh Hùng thuê rất nhiều người sang Svay Rieng tìm hài cốt, nhưng không sao tìm được. Rồi để càng lâu, việc tìm kiếm càng khó hơn, khi vùng này do Khơ me Đỏ kiểm soát… Bác như người mất hồn suốt thời gian dài. Sự ra đi của Danh Hùng đã góp phần củng cố niềm tin về bác trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa, nhưng đó là nỗi đau không sao kể xiết khi chính bác, ngay từ đầu, đã dùng con trai mình làm con tin, rồi nó chết để cho mình được sống.
Chuyện đến đây dù là tâm sự chân tình với tôi, vừa nhằm đồng cảm với bức xúc của cô Hoàn Trân, nhưng giọng đau buồn của bác Quỳnh vẫn làm không khí trầm lắng. Tôi cố nghĩ để nói mấy lời chia sẻ, nhưng không nghĩ ra. Bác Quỳnh dường cũng nhận ra điều ấy, nên nói dung hòa:
- Cháu được chứng kiến cảm xúc của cô Hoàn Trân và tâm sự của bác hôm nay cũng có cái tốt cho một nhà văn, về cái giá của hòa bình cũng đầy đau thương và nước mắt từ nhiều phía thế nào. - Rồi bác xuề xòa, - bây giờ nên tập trung vào chủ đề ẩm thực. Chứ chỉ mải nói chuyện, rồi chấm đũa chút chút cho có lệ, đồ ăn nguội hết. Bún chả và nem cua bể mà ăn nguội mất hết chất Hà Nội.
Thực ra, lúc bắt đầu ăn, tôi đã phát hiện ra nước chấm bị ngọt và nem cua bể có mùi nước dừa, là hai thứ tôi rất dị ứng từ khi bước chân vào Sài Gòn, nhưng vẫn xuýt xoa:
- Lúc nãy vừa ăn cháu đã thấy đúng hương vị Hà Nội mình rồi.
Nhà tình báo vĩ đại rạng rỡ hẳn với vợ:
- Đấy, em thấy không? Anh mà khen, em bảo khéo nịnh, chứ một người gốc Hà Nội, lại là một nhà văn thuộc tầng lớp sành văn hóa ẩm thực nhất thủ đô mà khen thì em ra Hà Nội mở nhà hàng được rồi. Cháu còn nhớ ở mặt phố đối diện cột đồng hồ, đầu ngõ Tư Đường nhà bác, có hàng bún chả, nem cua bể Bà Lạng, ngon nổi tiếng? Hôm nay, bác bảo cô Hoàn Trân làm món này mời cháu là để chúng ta cùng sống lại những kỷ niệm một thời. Nào, đụng ly rồi cùng ăn cho hết để cô Hoàn Trân hài lòng.
Chúng tôi cười nâng ly. Và dù biết người nọ cần ăn để người kia hài lòng, nhưng ai nấy vẫn chỉ nhấm nháp cho phải phép…
Nhưng hóa ra, đấy lại là bữa ăn cuối cùng của tôi với bác Danh Quỳnh ở Việt Nam. Vì hai tháng sau, bác đến Cục Báo chí và Xuất bản miền Nam chào tôi để cùng cô Hoàn Trân xuất cảnh qua Mỹ. Tôi hỏi:
- Ý kiến của bác gái ngoài Hà Nội thế nào?
Bác nói:
- Cả Hoàn Trân cũng nhất trí đưa bác gái theo, nhưng bác ấy nhất định ở lại, vì còn mồ mả các cụ và vợ chồng Danh Hoàng ở quê, còn vợ chồng Danh Vũ và cháu Danh Huy, con Danh Hoàng ở Hà Nội, lại còn Danh Hùng chưa biết ở đâu trên đất Campuchia.
Không thấy bác nhắc đến Danh Huyền, tôi hỏi:
- Ý kiến Danh Huyền thế nào?
Bác Quỳnh:
- Danh Huyền và hai con đi theo bác. Nhưng nó bỏ chồng rồi, cháu không biết à?
Tôi lại hỏi bác:
- Cho đến nay, bác vẫn thuộc biên chế quân đội. Việc đi thế này có phải xin phép?
- Đương nhiên là có. Và không ai cho đi.
Bác nghẹn ngào như đang bị đứt từng khúc ruột. Phải một lúc, giọng bác mới trở lại bình thường:
- Chuyện không đơn giản, thậm chí, rất rắc rối. Nhiều người nghĩ hành động của bác là bất mãn, là tiêu cực, có người còn cho là đầu hàng địch, tìm nhiều cách làm công tác tư tưởng, rồi hứa sẽ tăng hàm, tăng lương và quyền lợi, để bác nghĩ lại. Khổ nỗi đây lại là chuyện càng thanh minh, người ta càng không tin, nhất là đối với người làm nghề tình báo bạc đầu sống hai mặt, có lúc còn ba, bốn mặt. Ra đi là phải buông bỏ hết, bác cũng đau, cũng tiếc lắm chứ… Rất may, cuối cùng cũng có hai người trực tiếp lãnh đạo cụm tình báo chiến lược đã hiểu bác và bảo lãnh cho đi. Bây giờ chiến thắng và hòa bình rồi, bác có lộ tên, hai anh ấy chắc cũng chẳng trách bác sai nghiêm luật, đó là anh Năm Xuân (Mai Chí Thọ) và anh Mười Hương (Trần Quốc Hương).
Hôm tôi tiễn bác và cô Hoàn Trân ở sân bay Tân Sơn Nhất, bác bùi ngùi cầm tay tôi:
- Bác đã hiến cả đời cho đất nước, nay đất nước đã hòa bình, thống nhất, giờ ra đi, bác không có gì hối hận. Đời bác chỉ mang nợ hai người phụ nữ, hai món nợ quá lớn, không biết đến bao giờ mới trả hết. Món nợ thứ nhất, tuy bác gái ở Hà Nội đã tuyên bố xóa hết nợ nhưng bác cứ vẫn mang nó sang kiếp sau. Còn món nợ thứ hai với cô Hoàn Trân, bác sẽ ráng trả trọn trong kiếp này. Nếu có điều gì khiến bác vẫn đau đáu trước khi đi chính là hơn năm nay, dù vẫn tiếp tục nhờ nhiều người tìm kiếm, bác vẫn không biết hài cốt Danh Hùng đang ở đâu. Đây không phải là nợ mà là tội, vì chính bác đã đẩy nó vào chỗ chết.
Tôi quyết định nói với bác điều tôi định nói từ lâu:
- Cháu dự định sẽ viết một cuốn sách về cuộc đời hoạt động đầy bi tráng của bác, nay cháu xin phép bác trước, để bác không bị bất ngờ.
Bác Quỳnh lắc đầu:
- Bác cảm ơn cháu đã quan tâm, nhưng bác cũng xin cháu đừng viết. Từ ngày miền Nam giải phóng, một số nhà báo, đài truyền hình trong nước và nước ngoài cũng tìm gặp bác để phỏng vấn và viết bài, cũng đã có nhà văn muốn viết sách về bác. Nhưng bác nghĩ cả cuộc đời mình đã sống âm thầm, đến họ tên cũng đổi họ tên người khác để làm một người lính vô danh, thì đến chết bác cũng nguyện làm một người vô danh, nên bác đều từ chối hợp tác. Bác đã bàn với bác gái và cô Hoàn Trân, nếu bác đi trước, hai người sẽ đặt trên mộ bác tấm bia có khắc dòng chữ: “Người lính vô danh”. Còn trường hợp tìm được mộ Danh Hùng, thì cho bác và Danh Hùng nằm cạnh nhau, lúc đó, hãy khắc tên bác trên tấm bia.
Một người đáng kính và đáng quý như bác Danh Quỳnh muốn thế, thì tôi không thể làm trái. Còn về chuyện ông Mai Chí Thọ bảo lãnh cho bác Danh Quỳnh sang Mỹ thì năm 1982, khi đang là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, ông Thọ có mời nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và tôi ra Vũng Tàu ba ngày cùng với môt trăm thanh niên công nhân xuất sắc đạt danh hiệu “Cánh tay Vàng” thành phố. Vào buổi tối, lúc chỉ có bốn người trà dư tửu hậu, nói chuyện trên trời dưới bể tại Bạch Dinh, trước là nơi nghỉ mát của vua Bảo Đại, tôi hỏi ông Mai Chí Thọ về chuyện ông bảo lãnh cho bác Danh Quỳnh đi Mỹ.
Đầu tiên, ông thận trọng hỏi: “Danh Quỳnh nào?”, rồi hỏi: “Làm sao biết Danh Quỳnh?”. Đó là tính thận trọng rất tự nhiên của một người làm chính trị trước các nhà văn, nhà báo. Khi nghe tôi kể nguồn gốc sự quen thân của tôi với bác Danh Quỳnh, ông mới nói: “Người làm nghề tình báo, khi hoạt động trong lòng địch, muốn thích nghi hoàn cảnh để hoàn thành nhiệm vụ phải ráng sống muôn mặt. Sự đau khổ này còn lớn hơn chuyện sống chết. Khi hy sinh, họ phải chết những hai lần. Cái chết thứ hai là cái chết vô danh, vì đó là cái chết chỉ mình họ biết. Đấy là lý do vì sao tôi và anh Mười Hương bảo lãnh cho anh Danh Quỳnh, có biệt danh cuối cùng là Tám Giao. Giao là tên vợ đầu của anh ấy, còn Tám là số người ruột thịt của anh ấy, gồm hai người vợ, bốn đứa con vợ trước, hai đứa con vợ sau. Bảo lãnh cho anh ấy, chúng tôi không chỉ bảo lãnh cho sự trung thành và trong sạch của một người lính với sự nghiệp của mình, mà còn bảo lãnh cho một con người chân chính đúng nghĩa”.