← Quay lại trang sách

CHỮA LÀNH

Năm 2016.

Vụ tìm được hài cốt anh Danh Hùng và bốn đồng ngũ, trừ những trục trặc không đáng có ban đầu, phần sau hoàn toàn thuận lợi, kết thúc bằng bữa ăn tự chọn do Minh Dân đặt nhà hàng ở thị xã Phước Bình phục vụ, ai nấy vui vẻ, thân thiện, không còn ít nhiều khoảng cách như lúc bắt đầu gặp nhau. Hơn chín giờ tối, cả đoàn mới rời nơi khai quật. Sự phấn chấn bù cho sự mệt mỏi và căng thẳng gần suốt một ngày. Bọn trẻ trên xe lại cao hứng bật karaoke hát những bài Chiếc gậy Trường Sơn, Tiểu đoàn 307…

Lúc về qua nghĩa trang liệt sĩ Phước Long, bác Danh Quỳnh nói với tôi:

- Các cháu cứ đưa đoàn về trước, hai bác với cô Hoàn Trân và Danh Huyền ghé vào nghĩa trang, đến mộ Minh Khôi thắp nhang cảm ơn, vì không có Khôi, bác cũng chẳng bao giờ gặp được Danh Hùng. Xong việc, các bác sẽ tìm khách sạn ở Phước Long nghỉ, sáng mai mới về Sài Gòn.

Bác Quỳnh gái nói thêm:

- Đến giờ này, không chỉ các bác mà những người lớn tuổi trong đoàn đều thấm mệt, nên mọi người cứ về. Các bác phải ghé thăm Khôi, vì chắc chắn sẽ không bao giờ có dịp nào lên lại đây nữa.

Ý định của bác Quỳnh hoàn toàn chính đáng, khiến tôi rất xúc động, nhưng nhìn vào trong nghĩa trang rộng mênh mông, chỉ duy nhất có máng neon ngoài cổng sáng đèn, còn bên trong tối âm u, cánh cổng lớn đã khóa xích, dãy nhà tiếp tân cũng im lìm, không chừng ông Tư Quảng quản trang đã ngủ. Đường Quốc lộ trống vắng, thỉnh thoảng mới có chiếc ô tô chạy qua, đầy bất an… Thả bốn người già xuống cổng nghĩa trang, trong đó Danh Huyền trẻ nhất cũng bảy mươi tuổi, rồi cả đoàn đi luôn thì có gì đó không phải. Nhưng cùng ở lại để sáng mai mới về đến Sài Gòn thì lại không phải với bao người già cả khác. Tôi lúng túng, đi xuống chỗ Huy Lạc ngồi thì thầm điều khó xử với anh. Nghe xong, anh nói:

- Chuyện này dễ mà.

Rồi anh kéo tôi đi lên, cùng ngồi xuống hai chiếc ghế cạnh bác Danh Quỳnh:

- Thằng Tuấn vừa nói sẽ để các bác xuống nghĩa trang Phước Long với thằng Khôi, nhưng cháu thấy không nên, vì cõi dương mình, chuyện này là bình thường, với cõi âm, lại là kiêng kỵ, vì trên xe mình đang chở năm bộ hài cốt. Lúc khai quật, mình đã khấn sẽ đưa về chùa Xá Lợi ở quận 9, Sài Gòn, nay lại ghé vào nghĩa trang Phước Long, trước hết là sai lời khấn, sau là nhỡ thằng Khôi nó rủ thằng Danh Hùng ở lại thì sao?

Bác Danh Quỳnh:

- Cháu nói vậy, bác hiểu rồi.

Huy Lạc lại nói tiếp:

- Bàn thờ nhà thằng Tuấn cũng có ảnh thằng Khôi. Về Sài Gòn, bác thắp nhang ở bàn thờ nhà thằng Tuấn là bác muốn gặp thằng Khôi bao lâu, muốn tâm sự gì cũng được.

Tôi sợ bác phật ý, nhưng bác lại cười nhẹ với Lạc:

- Lẽ ra bác phải rành cõi âm hơn cháu mới phải.

Không rõ bác thừa nhận Lạc nói đúng hay bác chỉ nhân nhượng để tránh phiền mọi người. Còn tôi, thú thật, tôi cũng không biết Lạc nói đúng hay là nói lấy được, vì một kẻ siêu vô thần như anh làm gì có chuyện tin ở cõi âm.

Hơn mười hai giờ đêm, sau khi ghé chùa Xá Lợi gửi hài cốt, cả đoàn mới về đến nhà tôi ở Gò Vấp, Sài Gòn. Vì nhóm người miền Tây lên, nhà nào cũng có xe chờ sẵn, nên việc chia tay, tuy quyến luyến nhưng cũng nhanh chóng.

Hai bác Quỳnh và cô Hoàn Trân vẫn không quên việc thắp nhang cảm ơn anh Khôi, nên vợ chồng tôi phải đưa hai bác, cô Hoàn Trân và Danh Huyền lên bàn thờ trên lầu bốn. Mọi chuyện xong đâu đấy, chúng tôi mới tiễn bốn người xuống, để ra xe về khách sạn.

Lúc đi từ trong nhà ra cổng, Danh Huyền cố ý để vợ tôi cùng ba người lớn đi trước, còn cô đi chậm lại với tôi:

- Lúc ở nghĩa trang Phước Long và vừa rồi, trước bàn thờ anh Khôi, có mặt bố mẹ và cô Hoàn Trân, tớ không dám nói, chứ bất cứ lúc nào có một mình, tớ luôn nói là tớ vô cùng hối hận và thành thật xin lỗi anh Khôi. Nếu không vì thói tự ái nhỏ mọn của tớ, anh Khôi vẫn ở ngoài Bắc và đường đi của một người sống chân tình và xuất sắc như anh ấy, chắc chắn sẽ tới đích. Rồi tớ hứa nhất định sẽ là vợ anh ấy ở kiếp sau. Nếu lúc nào thắp nhang cho anh Khôi ở bàn thờ hay nghĩa trang, tớ nhờ cậu nhắc lại với anh ấy lời của tớ.

Thật ra, tôi rất muốn nói với Danh Huyền: “Trong chuyện tình này, anh Khôi quyết định đi bộ đội trước khi chia tay với cậu, rồi anh ấy nghĩ cậu sẽ có hạnh phúc với anh Bá Vân hơn với anh ấy, nên cố ý đẩy cậu về phía Bá Vân, chứ cậu không hề có lỗi”, như lúc đầu, tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng rồi, tôi quyết định không nói điều này, dù cũng thương cô bạn học từ thời lớp một của tôi vô hạn. Tôi biết Danh Huyền vẫn còn rất nặng tình với anh Khôi, nhưng nặng tình có khi chỉ ở với nhau một kiếp, còn nặng nợ thì cái tình cứ phải theo nhau hết kiếp này sang kiếp khác, nên không nói có khi lại tốt hơn là nói. Tôi hỏi sang chuyện khác:

- Ra Hà Nội, rồi cậu qua Mỹ luôn chứ?

- Lẽ ra bố tớ và cô Hoàn Trân qua Mỹ luôn. Nhưng cô Hoàn Trân bắt bố tớ phải ở lại với mẹ tớ ít nhất là qua Tết, còn tớ sẽ ở lại Việt Nam hai tháng để chăm sóc anh Bá Vân đủ phác đồ điều trị của bệnh viện. Khi anh ấy ra viện, tớ mới qua Mỹ…

Danh Huyền cười nhẹ:

- Lịch sử nhà tớ gắn chặt với lịch sử chìm nổi của đất nước, nên bố tớ phải yêu hai người đàn bà ở hai phe đối nghịch, còn tớ phải yêu hai người đàn ông hai tầng lớp khác nhau.

- Còn hai đứa con cậu thì sao? - Tôi hỏi.

Danh Huyền nói:

- Chúng cũng có hai người bố. Nhưng chúng sòng phẳng hơn. Với bố Vân, chúng đều hoàn thành trách nhiệm vật chất của những đứa con. Còn với bố Khôi, chúng vẫn thờ và tin chắc đó mới chính là bố mình. Mọi kết quả thử ADN, mọi phân tích của các chuyên gia khoa học, tâm lý tớ nhờ tư vấn cho chúng, rồi cả những giãi bày chân tình hay lý giải tâm linh của tớ đều không thay đổi được niềm tin của chúng. Tuổi trẻ bây giờ là như thế. Chúng nhất định không tin những gì chúng không muốn tin. Để đến cuối đời, mẹ chúng rút ra kết luận: Dành cả đời để thuyết phục người khác tin mình, khi người ta đã có đức tin khác, là chỉ tự mình làm khổ mình suốt đời.

Tôi dừng lại, ôm Danh Huyền:

- Sang kiếp sau, chúng mình vẫn mãi mãi học cùng lớp, vì thời chúng ta, chỉ toàn lườm nguýt, mà vẫn tin nhau.

Vợ tôi cũng lùi lại, ôm Danh Huyền rất lâu:

- Em cũng mãi mãi yêu chị.

Đứng nhìn đến lúc chiếc xe chở hai bác Quỳnh, cô Hoàn Trân và Danh Huyền khuất ở đầu ngã ba, còn lại hai vợ chồng. Cùng lên phòng. Cả hai đều mệt mỏi rã rời, nếu buông mình xuống giường là thả lỏng, nhắm mắt ngủ say như chết… Thế là ngay cả thủ tục của nền văn minh khá giả là vào toilet rửa qua mặt mũi, rồi thay đồ ngủ, cũng bị bỏ qua. Đang lập tức lịm vào giấc ngủ, bỗng sực nhớ đến lời nhờ nhắn với anh Khôi của Danh Huyền, tôi vội vàng chồm dậy.

Vợ tôi hốt hoảng tỉnh theo:

- Có chuyện gì thế?

- Danh Huyền có nhờ anh nhắn với anh Khôi chuyện kiếp sau… - Nhưng rồi, do quá mệt, tôi chặc lưỡi, lại nằm lăn ra giường. - Thôi để sáng mai lên cũng được.

Đến lượt vợ tôi ngồi dậy, làu bàu:

- Chuyện tâm linh, không nhớ thì thôi, đã nhớ đến mà không thực hiện là thất tín. Chưa kể chị Danh Huyền phải trăn trở lắm mới nhờ mình… Nếu anh mệt thì em với anh cùng lên. Nhưng anh chịu khó lên trước. Do suốt ngày bụi bặm, em phải sạch sẽ một chút, nếu không, các cụ lại mắng con dâu vô lễ.

Phòng ngủ của chúng tôi ở lầu một, bàn thờ ở lầu bốn, lên xuống bằng thang máy, không mất công sức gì, nhưng khi đứng trước bàn thờ, đối diện với bố, mẹ, mẹ kế và anh Khôi, những que nhang của hai bác Danh Quỳnh, cô Hoàn Trân và Danh Huyền vẫn đang cháy dở, mùi khói nhang tỏa nồng trong phòng, tôi bỗng hoa mắt khi thấy anh Khôi như bước ra khỏi tấm ảnh gắn trên bàn thờ.

Tôi lờ đờ mở mắt và vô cùng sửng sốt khi thấy mình đang nằm trong một phòng điều trị của Bệnh viện Quân y 175. Cô y tá mặc blouse trắng, ngồi bên giường, vừa rút mũi kim tiêm khỏi cánh tay tôi.

- Sao tôi lại ở đây? - Tôi lờ đờ hỏi cô y tá.

- Lúc quá nửa đêm, cô gọi xe của bệnh viện đưa chú đến phòng cấp cứu… Chú có hiện tượng đột quỵ do quá mệt hoặc quá xúc động.

Đúng lúc đó, vợ tôi và đám con trai, gái và hai thằng con rể từ ngoài vào, vợ tôi cười hỏi:

- Tỉnh chưa?

Tôi giật mình khi thấy chiếc đồng hồ gắn trên tường chỉ một giờ ba mươi lăm phút:

- Đã trưa rồi kia à?

- May mà đến bệnh viện vẫn ở trong giờ vàng. Bác sĩ nói trễ hai tiếng nữa là anh đi luôn đấy.

- Bác sĩ xác định anh bệnh gì?

- Bệnh chính của tất cả chúng ta là luôn tưởng mình vẫn còn trẻ...

- Không rõ mình bất tỉnh khi nào, nhưng anh mơ thấy mình sống rất hạnh phúc khi cưới Ngọc Ly, mối tình đầu, hồi còn là Thanh niên Xung Phong ở Quảng Ninh. Cô ấy to khỏe, cao một mét sáu lăm, đẻ cho anh mười một thằng con trai, để anh thành lập đội bóng đá do anh là huấn luyện viên, đá thắng cả đội tuyển Việt Nam…

Vợ tôi cũng to khỏe nhưng chỉ cao một mét năm mươi bảy, đẻ có ba đứa con, cáu kỉnh:

- Thôi thôi… Lúc nào khỏe, anh muốn nhớ đến ai thì nhớ, nhưng hiện giờ, đừng quên mình đang bệnh, nên giấc mơ nào cũng hão huyền. Sáng nay, biết anh nằm ở đây, hai bác Quỳnh, cô Hoàn Trân và Danh Huyền cũng vào thăm. Rồi anh Nguyễn Nguyên Bảy, Thanh Vân cũng vào. Ai cũng nói, tin hay không tin vào tâm linh là quyền tự do của mỗi người, nhưng lụy vào tâm linh sẽ mất sáng suốt, mất tự tin. Anh Nguyễn Nguyên Bảy còn nói tâm linh và tâm thần nhiều khi trên cùng một sợi dây, rất dễ nhầm lẫn.

Tôi bỗng có cảm giác những lời của vợ tôi cứ ong ong u u như chuội khỏi tai mình, những ánh mắt lo âu của các con đang hướng về mình bỗng mờ nhòa:

- Sao mắt anh lại hoa, tai anh nghe không rõ?

- Bác sĩ vừa nói y tá tiêm thêm cho anh một mũi an thần để kéo dài thêm thời gian nghỉ ngơi của não bộ, vì kết quả phân tích mẫu máu, anh thuộc loại bệnh nhân phản xạ nhạy cảm, chưa phục hồi hẳn rất dễ tái phát dẫn đến mãn tính.

Tôi thiếp đi, nhưng ngay lập tức lại thấy anh Khôi đang từ xa đi đến. Anh mặc bộ đồ quân giải phóng, đầu đội mũ tai bèo, tay cầm khẩu tiểu liên AK 47… Nhưng lúc đến gần, không phải anh Khôi mà là anh Danh Hùng. Danh Hùng đang mặc quân phục sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, đầu đội mũ sắt, tay xách khẩu AR.15, từ trong chiếc máy bay trực thăng bước ra… Hai người không đi về phía tôi mà đi ngược chiều nhau. Rồi anh Khôi và Danh Hùng nhìn thấy nhau… Một phụ nữ mặc đồ blouse trắng bỗng xuất hiện giữa họ. Tôi nhận ra đó chính là Sính, cô y tá Thanh niên Xung phong cùng xã Minh Trí, người mà bố tôi và gia đình u Khướu đã làm lễ ăn hỏi cho anh Khôi, và hai người đã đăng ký kết hôn ở Ủy ban xã, nhưng chuyện hôn nhân không thành… Bối cảnh dẫn đến sự gặp nhau của họ ở vùng rừng núi Svay Rieng, Campuchia, giáp biên giới với nam Tây Nguyên, Việt Nam. Tất cả đang diễn ra như trong một bộ phim câm. Họ đang nói với nhau điều gì, súng từ nòng súng của họ đều khạc đạn, những chiếc máy bay gầm rú, những trái bom rơi… nhưng đều không âm thanh. Tôi cũng nói với họ nhiều điều, nhưng cũng không thành tiếng. Cuối cùng cả ba đều trúng đạn nhưng không phải do họ bắn nhau. Anh Khôi nát một chân, chị Sính chạy ra dìu anh Khôi, trúng thêm một viên đạn vào đầu. Hóa ra Danh Hùng không từ dưới đất mà đang ngồi trên một chiếc trực thăng. Chiếc máy bay của Danh Hùng bốc cháy… rơi xuống cánh rừng. Danh Hùng như một ngọn đuốc lửa, thoát ra khỏi cửa máy bay, thấy anh Khôi trong vòng tay của Sính. Họ kịp nhìn thấy nhau trước khi từ giã cõi đời.

Tôi giật mình choàng dậy. Bộ phim câm biến mất… Vợ tôi đứng ngay cạnh tôi bên giường bệnh. Và người đứng cạnh vợ tôi chính là bác Danh Quỳnh. Hay lại bắt đầu trích đoạn một bộ phim câm khác?

Tôi đã nằm viện hơn tuần lễ, đã khỏe lên nhiều nhưng vẫn còn mơ màng.

Vợ tôi hỏi:

- Anh đã tỉnh hẳn chưa?

Tôi cố gượng ngồi dậy.

Bác Danh Quỳnh nói:

- Cháu còn mệt thì cứ nằm.

- Tại cháu vẫn tưởng trong mơ, chứ thực ra, cháu thấy trong người bình thường rồi.

Tôi rời hẳn khỏi giường, bắt chặt hai tay bác:

- Bác đi một mình?

- Cô Hoàn Trân đưa bác gái đi siêu thị và đến thăm nhà mấy người bà con, nên hôm nay, bác được tự do.

- Vậy bác cứ chơi ở đây đến tối, rồi xuống căn tin ăn cơm với vợ chồng cháu. Đây tuy là bệnh viện, nhưng bệnh nhân còn tự do hơn ở nhà.

- Thế là quan niệm tự do giữa cháu và bác luôn khác xa nhau. Bác chỉ được tự do đến lúc hai bà vợ nhấn máy báo hết giờ. Lúc sáng đến thăm, thấy cháu nằm mê man và nói sảng, bác rất lo, nên chiều nay, bác phải vào lại. Với lại, nhân Minh Dân gọi điện từ Cần Thơ hỏi thăm tình hình cháu để nó lên thăm, bác cũng hẹn luôn sẽ cùng gặp nó ở đây.

- Cháu lấy làm lạ ở chỗ bác thuộc kiểu nhân vật cả hai phe đều quý.

- Khi nhân cách lớn hơn chính kiến, thì người ta sẽ coi nhẹ chính kiến. Hôm nay, bác đến cũng để nói cho cháu biết, sau khi qua Mỹ, bác và cô Hoàn Trân sẽ sớm trở lại Việt Nam và dành đoạn đời cuối của mình trên mảnh đất miền Nam, nên cháu chuẩn bị tinh thần làm hàng xóm của bác.

- Còn Danh Huyền?

- Tuy không còn là vợ chồng, nó vẫn thương và có trách nhiệm với Bá Vân. Nó rất muốn đưa Bá Vân qua Mỹ, nhưng Vân không chịu, trong khi nó đã có công việc ổn định ở Mỹ và nhất là nó vẫn phải theo con và lũ cháu.

Vợ tôi nhanh nhảu gọi căn tin của bệnh viện mang cà phê lên phòng. Chúng tôi và bác Quỳnh cùng ra ngồi ở xa lông. Vợ tôi mời bác uống cà phê, rồi nói theo thói quen phỏng vấn, một thứ bệnh nghề nghiệp của dân làm báo:

- Hồi đầu giải phóng, giữa lúc đất nước ca khúc khải hoàn trong hòa bình và chiến thắng quân xâm lược, mà mình cũng là người góp phần, bác quyết định rời Việt Nam qua Mỹ, với những lý do theo bác là chính đáng. Nay lại quyết định rời Mỹ trở về Việt Nam, liệu bác có ngược lại với lý do ra đi trước đây?

Bác Danh Quỳnh cười mỉm:

- Khi bác quyết định qua Mỹ là năm 1977, nay quyết định trở về Việt Nam là năm 2017. Những bốn mươi năm. Đủ để mọi sự đổi thay đều có lý do chính đáng. Nhưng vấn đề ở đây không phải là thời gian mà là lịch sử của một đời người. Cuộc đời bác, phần người lính, bác là một người lính đã hoàn thành nhiệm vụ với Tổ quốc, phần công dân, bác cũng xong nghĩa vụ, khi sự đóng góp của mình, dù rất nhỏ, cũng cùng toàn dân đưa đất nước đến hòa bình, thống nhất và chiến thắng ngoại xâm. Nhưng về phần con người, bác vẫn mang nợ rất nhiều những người đã giúp, thậm chí, đã hy sinh để bác hoàn thành nhiệm vụ và còn sống đến hôm nay - trong đó, có ba người mà sống đến muôn kiếp sau, bác vẫn không trả hết nợ, đầu tiên là bác gái…

Bác bỗng đột ngột hỏi:

- Cháu thân thiết với gia đình bác từ hồi còn ở Trần Nhật Duật, Hà Nội, tức từ những năm 1950, bác hỏi thật, cháu có biết tên bác gái?

Tôi lúng túng, cười gượng:

- Cháu vẫn quen như mọi người, gọi là bác Quỳnh gái.

Bác Quỳnh thở nhẹ:

- Bác cắt ngang hỏi thế, không phải để trách cháu, mà chỉ để nói người phụ nữ Việt Nam sau khi lấy chồng, đã bị sự vô tình của đời sống và lễ giáo, làm mất cả tên. Rồi chỉ đến khi chết, cái tên mới được khắc lên bia mộ. Tên bác gái là Bình Giao. Phan Thị Bình Giao. Hôm nay, bác nói, cháu mới biết, đúng không?

Bác Quỳnh nghẹn ngào rồi nói tiếp:

- Bình Giao không chỉ mất tên vì sự vô tình của đời sống, mà còn mất cả cuộc đời cho sự an toàn của bác.

Tôi ngậm ngùi:

- Cháu xin lỗi hai bác, vì chính cháu cũng vô tình.

Bác Quỳnh im một lát để trấn tĩnh, rồi nói tiếp:

- Người phụ nữ thứ hai, bác nợ đến kiếp sau, là Hoàn Trân. Đại bi kịch gia đình của Hoàn Trân, cháu biết rồi. Nhiều đêm đang ngủ say, bác bỗng giật mình tỉnh giấc bởi câu hỏi lúc nào cũng trăn trở: Không lộ mình là điệp viên, vừa là giữ đúng nghiêm luật bảo mật, vừa an toàn cho nhiệm vụ trọng đại, ở góc độ người lính, chẳng có gì đáng trách, nhưng lại chứng tỏ không tin những người thân yêu nhất của mình. Mà sự kinh khủng nhất đối với tình yêu, tình cảm, lại là không tin nhau... Đã không tin nhau, thì khi vui, mười phần không chắc còn lấy một, còn khi đau khổ chỉ một cũng đau đớn lên ngàn lần. Đó chính là điều bác nợ bác gái và cô Hoàn Trân. Nhưng cuối cùng, bác gái và cô Hoàn Trân cũng biết bác là ai, trong khi Danh Hùng, chủ nợ lớn thứ ba của bác, đến chết vẫn không biết bố là bạn hay thù. Cả Minh Khôi mà bác coi như con, đến chết cũng không biết bác là bạn hay thù. Có lúc ngồi tại Dinh Độc Lập, thân cận với Tổng thống Thiệu, bác nghĩ nếu Khôi và Hùng gặp nhau ở chiến trường thì sao? Rồi xa hơn, nhỡ Khôi và bác cũng gặp nhau thì sao? Có khi chẳng bao giờ gặp nhau, nhưng ở hai bờ đối nghịch, nghĩ về nhau lại đáng sợ hơn gặp nhau thực.

Tôi chỉ ngồi lặng thấm ngấm niềm tâm sự của bác.

- Từ khi tìm thấy Danh Hùng, bác mới quyết định về lại Việt Nam, và sẽ ở Phước Long đến cuối đời, để còn sống ngày nào, bác còn gần gũi với Danh Hùng và Minh Khôi ngày ấy, để lúc ra đi, bác sẽ gặp và nói cho cả hai biết bác là ai. Bác gái và cô Hoàn Trân cũng tán thành lựa chọn của bác. Tuổi càng cao, càng ưa sống tĩnh, có khi ở gần với người đã khuất để sống lại với quá khứ lại hợp hơn với hiện tại đang ngày càng thuộc về một thế hệ khác.

Vợ chồng tôi cùng lặng đi trước tâm sự buồn đến buốt lòng của người lính già. Bác Quỳnh nói tiếp:

- Tiện đây, bác cũng nói thêm với vợ chồng cháu chuyện này. Mấy ngày ở Sài Gòn, bác đã nhờ mấy người quen liên hệ được với chủ sở hữu rừng cao su - nơi mà chúng ta tìm thấy hài cốt Danh Hùng và bốn đồng ngũ, để mua lại mười héc-ta. Ông ta đã đồng ý cắt lại cho bác. Phần lên đó ở, khi nào về hẳn Việt Nam, bác sẽ tính. Còn trước mắt, bác muốn phục hồi cái nghĩa trang mà chủ đất đã san bằng để trồng cao su, và phục hồi cái miếu mà người ta biến thành chuồng bò. Việc này, bác cũng tìm được người lo, nhưng trong lúc bác chưa về, bác muốn nhờ vợ chồng cháu để mắt tới.

Đúng lúc đó, Huy Lạc xuất hiện ở cửa phòng, thấy tôi ngồi với bác Danh Quỳnh, anh reo lớn:

- A! Mặt mũi tỉnh như sáo thế kia mà tin ra Hà Nội là chú bị đột quỵ đang nằm liệt giường chờ chết, nên tôi vừa bay ra, đã phải bay vào ngay.

Anh ùa vào, ngồi cạnh bác Danh Quỳnh:

- Cháu tưởng bác đang đi xem đất để mua trang trại trên Phước Long?

- Làm sao cháu biết nhanh thế?

- Bác tưởng chỉ mình bác là điệp viên siêu đẳng? Cháu là dân buôn đất nên chỉ ngửi thấy mùi đất đỏ ở bác là biết ngay bác tính mua đất ở “Tình đất đỏ miền Đông”. Xin lỗi bác và vợ chồng Tuấn, cháu từ Hà Nội vào, không chỉ một mình như hôm lên Phước Long tìm Danh Hùng, mà đi với hai cái xiềng xích. Và đã nói trăm lần, dân Sài Gòn không như dân Hà Nội là khách đến nhà cứ phải có quà, vậy mà đã đến cổng bệnh viện, cả bà vợ lẫn “bà cháu” cùng chùn lại: “Đến thăm người bệnh mà đi tay không chỉ có đồ keo kiệt”, thế là hai “bà” xua cháu lên trước, vậy mà đến giờ vẫn mất tăm.

Phải nửa tiếng sau, mới thấy Huy Lạc hai tay kéo hai chiếc va ly, kèm theo túi ni lông đựng đầy xoài, cùng Linh Xuân và cô gái trẻ được Lạc gọi là “bà cháu” cao một mét bảy lăm, bước vào phòng:

- Đây là cụ Danh Quỳnh, bố của ông Danh Hùng, còn đây là ông Tuấn và bà Phương, đều lần đầu con gặp, nhưng tiểu sử từng người, ông đã kể cho cả nhà nhiều đến mức đứa ngu nhất trong nhà mình cũng thuộc lòng, nên không cần nói thêm. Còn vợ cháu thì cả bác và vợ chồng Tuấn đều biết, riêng “bà” này là Linh Mai, cháu ngoại, con gái đứa con út của cháu.

Vợ tôi bật cười:

- Sao anh lại gọi cháu là “bà”.

- Thế thằng Tuấn chưa kể em biết anh chị được đào tạo giữa cuộc Đại Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc à? Cả thế giới sang thế kỷ hai mươi mốt vẫn còn phải nai lưng, mỏi mồm, đấu tranh cho bình đẳng giới, thì ở Trung Quốc những năm 1950, 1960 thế kỷ trước đã “nhất vợ, nhì trời”. Khi về nước, anh đang mừng mình sắp thoát nạn, thì Việt Nam đã vượt Trung Quốc “nhất con, nhì vợ, ba trời”. Cả hệ thống tuyên truyền, cả một nền giáo dục cổ xúy cho việc tôn vinh và ưu tiên con cái. Chúng học cấp ba, thậm chí, đại học, các bậc bố mẹ cũng phải đưa đến tận trường, đón về tận nhà. Mà con ở đây là con gái. Chứ con trai sinh ra chỉ để làm chồng, thuộc đối tượng đấu tranh bình đẳng giới. Còn ông trời bị coi là đối tượng mê tín dị đoan, nên chỉ được xếp vào ca dao, tục ngữ, nên chị mới đẻ cho anh một lúc năm “bà”. Năm “bà” này lại đẻ mười một “bà” cháu gái. Anh hốt hoảng, tống tất cả đi học ở những nước nam giới vẫn chưa bị coi rẻ. Riêng “bà” cháu này, nhất định không đi. Anh bảo, nếu ở trong nước, “bà” đi làm người mẫu hay vận động viên bóng chuyền, để cả nhà ăn theo sự sớm nổi tiếng của “bà”, lại đỡ mất công mài váy trên ghế giảng đường đại học. “Bà” ấy nói: “Con quyết định ở trong nước, theo học ngành khảo cổ”. Anh tưởng nó khùng. Cả nhà dân chủ bỏ phiếu, phe anh chỉ có một phiếu, lại còn mang tiếng bảo thủ vì không biết tôn trọng tự do của thế hệ trẻ. Bây giờ “bà” ấy còn đang tập tọng theo nghề của chú, với vài truyện ngắn đăng trên các báo và tham gia vào nhóm biên kịch phim truyền hình nhiều tập của VTV, toàn nghề của nhà nghèo…

Linh Xuân hỏi:

- Nhưng anh có biết nó theo anh vào đây làm gì?

- Đương nhiên nó muốn đi thăm ông Tuấn. Anh bảo nó: Bố mẹ với ông Tuấn là chỗ tình cảm, còn với con, nên nhớ ông ấy không phải đồ cổ. Nhưng em đã ủng hộ nó.

- Thế thì, em cần nói anh rõ, nó nhất định đòi vào để nói cho ông bà Tuấn biết nó đã đọc năm cuốn nhật ký của ông Khôi như thế nào.

Huy Lạc hơi ngẩn ra:

- Năm cuốn đó, chú Tuấn nhờ em chứ có nhờ nó đâu?

- Anh quên em có nói với anh, nhưng anh bảo bọn trẻ bây giờ không biết chiến tranh là gì, bắt chúng nó nuốt thứ thức ăn mà chúng không đói, không cảm xúc, sẽ không có khả năng tiêu hóa, thậm chí, chúng còn khạc ra...

Huy Lạc lắc đầu với bác Danh Quỳnh và vợ chồng tôi:

- Thêm một bằng chứng cho bác và vợ chồng Tuấn thấy nhà Huy Lạc, đàn ông luôn luôn yếu thế, đúng với tinh thần Đại Cách mạng Văn hóa Việt Nam: “Nhất con, nhì vợ…”. - Rồi anh nói với Linh Mai. - Con định nói gì với ông Tuấn về mấy cuốn nhật ký của ông Khôi thì nói đi.

Linh Mai:

- Ông bà Tuấn đang tiếp cụ Danh Quỳnh, nên chuyện của con nói sau cũng được.

Bác Danh Quỳnh cười:

- Cụ chỉ đến thăm ông Tuấn bệnh, và trò chuyện cũng xong rồi. Giờ chính cụ cũng muốn nghe một người ở thế hệ con đã đọc nhật ký của ông Khôi, một người lính trong cuộc chiến tranh chống Mỹ thế nào?

- Vậy con xin cảm ơn cụ. Nhưng trước khi nói về nhật ký ông Khôi, con xin cụ số điện thoại, địa chỉ email và xin phép cụ cho con được từ nay thường xuyên liên lạc với cụ.

Bác Danh Quỳnh:

- Để làm gì?

Huy Lạc:

- Này! Con có đang mắc bệnh nghề nghiệp, thấy ai cũng tưởng đối tượng khảo cổ?

Linh Mai:

- Ông vẫn thường xuyên kể với cả nhà về những người bạn thân thiết của ông từ hồi đi học trong đó có ông Khôi, ông Danh Hùng, bà Danh Huyền, và cụ Danh Quỳnh, bây giờ, chúng con kế thừa sự thân thiết đó, sao ông lại nghĩ con mắc bệnh nghề nghiệp?

Bác Danh Quỳnh bật cười:

- Cụ cũng bỏ phiếu ủng hộ con.

Vợ chồng tôi và Linh Xuân cũng cười theo.

- Rồi! - Huy Lạc không chút tự ái, thậm chí còn ngầm tự hào về cháu. - Thiểu số tuy đúng nhưng cũng phải phục tùng đa số và rất có thể tất cả ngồi đây, chỉ mình ông Huy Lạc là đồ cổ cũng nên.

Linh Mai:

- Con quan tâm đến cụ Danh Quỳnh còn vì trong nhật ký và tiểu thuyết của ông Khôi có nhắc nhiều đến hai cụ với tình cảm và sự kính trọng.

Huy Lạc:

- Tiểu thuyết nào?

- Khi đưa cho con năm cuốn sổ tay của ông Khôi, bà cũng nói đó là năm cuốn nhật ký. Nhưng thực sự chỉ có một cuốn là nhật ký, còn bốn cuốn kia là tiểu thuyết.

Linh Xuân thanh minh với chồng:

- Cả năm cuốn, em nhận từ chú Tuấn đều trong tình trạng bong tróc bìa, lỏng gáy, các trang vừa viết bằng bút chì, vừa viết bằng bút máy, chữ nhỏ li ti, nhiều lần ướt nước, rồi phơi khô, giấy thì ố vàng, chữ thì mờ bạc, em đã nhờ bộ phận phục hồi của viện em tìm cách sao chép lại, được trang nào hay trang đó, rất may Linh Mai và mấy đứa bạn trong tổ khảo cổ hăng hái nhận làm, nên em giao luôn cho nó. Chính chúng nó đã phát hiện ra bốn trong năm cuốn là tiểu thuyết.

Huy Lạc hỏi Linh Mai:

- Con tin chắc bốn trong năm cuốn là tiểu thuyết?

Linh Mai:

- Thực sự những chữ, những dòng hoặc những trang có thể đọc được hoặc hiểu ngay chỉ chiếm hai mươi phần trăm, vì phần lớn chữ đều quá nhỏ và mờ nhòe, ông Khôi lại viết tắt, viết tiếng lóng, nhiều trang viết bằng tiếng Anh hoặc tiếng Nga, nội dung là những ý nhạy cảm, con đoán có thể ông không muốn người khác đọc, cũng có thể đây chỉ là bản nháp, sau này viết lại sẽ kỹ hơn, nhưng cũng có thể ông luyện ngoại ngữ, nhưng dù động cơ gì thì đều không khó nhận ra đó là tiểu thuyết, chứ không phải nhật ký.

Tôi nóng ran cả người, vừa vì ngượng khi mình, một nhà văn, giữ năm tác phẩm của anh mình, người anh đi thẳng vào chiến trường chấp nhận cả cái chết để đạt được khát vọng trở thành nhà văn, mà mình lại rất vô tình, vừa mừng khi nhận ra cuối cùng, anh cũng đi tới đích.

- Trước hết, ông vô cùng cảm ơn con. Nếu con phục hồi những cuốn tiểu thuyết này thì sẽ mất bao lâu? - Tôi hỏi Linh Mai.

- Về thời gian, con không thể nói trước, vì chắc chắn sẽ mất rất nhiều công phu. Nhưng huy động cả những người nhiều kinh nghiệm, kèm theo kỹ thuật hiện đại, phần đọc được nhiều nhất cũng chỉ bốn mươi phần trăm. Phần còn lại, theo con, chỉ có cách nhờ nhà văn nào cùng thời và hiểu được văn ông Khôi, phỏng chế.

Tôi nói với Linh Mai:

- Con giúp phục hồi được bốn mươi phần trăm thì ông sẽ đọc và cố gắng làm nốt phần còn lại, để công bố tác phẩm cho ông Khôi. Nếu ông kém tài, làm dở, chắc ông Khôi cũng sẽ rộng lượng bỏ qua.

Vợ tôi nói với bác Danh Quỳnh:

- Trong chuyện này, bọn con cũng phải vô cùng cảm ơn anh Huy Lạc và chị Linh Xuân. Khi nhận năm cuốn sổ từ Hà Nội mà bà chị anh Tuấn cất trong một hộp khảm trai, chúng cháu đã trách chị ấy vô tình, nhưng mang về Sài Gòn, chúng cháu không cách nào đọc nổi, cũng cất lại vào hộp, để trên bàn thờ, thì anh Lạc và chị Xuân vào. Chính chị Xuân đòi mang ra Hà Nội…

Bác Danh Quỳnh cười, nói với Huy Lạc:

- Nhà cháu theo đúng tinh thần Cách mạng Văn hóa Việt Nam: Nhất con, nhì vợ, ba trời là quá đúng còn gì. Chính bác cũng có nỗi lo thế hệ trẻ sẽ bị đời sống hiện đại lôi cuốn dẫn đến ngày càng vô tình với quá khứ lịch sử của cha ông, nhưng có khi chính chúng ta đang mắc thứ bệnh lo xa.

Rồi bác nói với Linh Mai:

- May con không nghe ông ngoại, đi theo nghề người mẫu hoặc cầu thủ bóng chuyền. Nếu không, nền văn học Việt Nam sẽ thiếu mất các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Minh Khôi. Cụ lấy làm tiếc là hôm nay mới biết con. Nếu không, hôm tìm mộ ông Danh Hùng, cụ đã bảo ông bà con đưa con vào Phước Long.

Huy Lạc cười:

- May mà nó không vào. Lúc ra Hà Nội, vợ cháu kể lại vụ tìm mộ ông Danh Hùng, cả nhà ai cũng cảm động, riêng nó lạnh tanh: “Nếu có mặt ở đó, con sẽ không làm như vậy”.

Linh Xuân cau mặt:

- Chuyện riêng trong nhà, anh kể ra làm gì?

Bác Danh Quỳnh nói:

- Chuyện riêng trong nhà nhưng lại đụng đến chuyện chung nhiều nhà, kể ra có sao đâu?

Huy Lạc hỏi cháu:

- Ông theo Cách mạng Văn hóa Trung Quốc: Nhất vợ, nhì trời - bà không cho ông tự do ngôn luận, ông sẽ tuân lệnh vợ. Nhưng theo Cách mạng Văn hóa Việt Nam, “Nhất con, nhì vợ…”, con muốn ông nói không?

Linh Mai quay sang bác Danh Quỳnh:

- Nếu ông sợ bà, để con nói. Ý của con, nếu khiến cụ bất đồng, con xin lỗi cụ trước. Vụ cụ và các ông, bà tìm được hài cốt ông Danh Hùng và bốn người lính đồng ngũ, con thấy đó là điều tuyệt vời. Nhân đây, con cũng xin chúc mừng cụ. Nhưng cả trăm người từ Hà Nội vào, từ miền Tây và Sài Gòn lên đều biết cái miếu bị người ta phá bỏ để biến thành chuồng bò, rồi cả một nghĩa trang bị san bằng để biến thành rừng cao su, lại vẫn để nguyên trạng sau khi tìm được ông Danh Hùng, con thấy thế là vô tình.

Bác Danh Quỳnh và vợ chồng tôi cùng lặng đi, khiến không khí tiếp xúc như căng lên.

Linh Xuân trách chồng:

- Em đã nói đây là chuyện riêng trong nhà rồi mà.

Huy Lạc vội thanh minh với bác Danh Quỳnh:

- Ở Hà Nội, cháu đã mắng nó. Đó là lịch sử để lại. Rừng cao su trên nghĩa trang, và chuồng bò trên nền miếu cũ đã nhiều năm thuộc về chủ đất. Mình lên đó chỉ có một mục đích tìm mộ ông Danh Hùng. Những chuyện khác không phải việc của mình. - Anh nói với Linh Mai. - Con nên nhớ, nguyên tắc “không phải việc của mình thì không làm” là kim chỉ nam suốt sự nghiệp của ông bà. Nhờ tuyệt đối tôn trọng nguyên tắc này mà đời ông bà có được thành công hôm nay.

Linh Mai định mở miệng cãi thì Linh Xuân lườm nhẹ:

- Con đừng cãi nữa. Bà cũng tán thành phương châm sống của ông.

Bác Danh Quỳnh:

- Con không dám cãi thì cụ cãi thay con. Đúng là do lịch sử để lại nên cái miếu có từ những năm 1930 giờ đã trở thành chuồng bò và nghĩa địa có từ năm đó cũng đã biến thành rừng cao su xanh tốt. Và dù chủ sở hữu là ai, thì sự thiêng liêng của ngôi miếu vẫn còn, những vong hồn nơi nghĩa địa vẫn không mất. Không phải trước khi khai quật mộ của Danh Hùng và đồng ngũ, chúng ta cũng đã làm lễ cúng vong hồn? Nhưng rõ ràng chỉ cúng thôi không đủ. Chúng ta đã rất vô tình khi nghĩ những gì do lịch sử để lại thì trút hết trách nhiệm cho lịch sử, còn mình, không phải việc của mình thì không làm.

Linh Mai:

- Con cảm ơn cụ đã nói thay con.

Huy Lạc tiếp lời:

- Nghe bác nói, chính cháu cũng giật mình. - Rồi anh nói với Linh Mai. - Nghe cụ nói, ông tự nhận ra mình là người luôn tiến về phía trước, nên đã có lúc quên ngoảnh lại phía sau. May mà trong các con, cháu của ông đã có đứa theo ngành khảo cổ là con. Nhận ra sai mới khó, chứ sửa sai trong lúc mình tiềm lực mạnh thì dễ ợt. Ngay bây giờ, không, ngay ngày mai, ông bà sẽ cùng con lên lại Phước Long, làm việc với chủ sở hữu rừng cao su, mua lại đất rừng trên đó, để phục hồi cái nghĩa trang và xây lại ngôi miếu. Con chịu đi không?

Linh Mai nhìn bác Quỳnh:

- Ý cụ thế nào ạ?

Bác Quỳnh cười:

- Đó là ý của cháu mà.

Anh Huy Lạc nói với bác Quỳnh:

- Ý của ai thì đây cũng là cách dễ giải quyết nhất. Năm 1977, bác qua Mỹ mang theo cả nhìn nhận về đất nước Việt Nam thời hậu chiến, với hiện thực đầy đủ hỉ, nộ, ái, ố, để năm nay, 2016, sau bốn mươi năm, bác trở về, chứng kiến một đất nước biết bao nhiêu thay đổi, nhưng thay đổi nhiều nhất là gì, thưa bác?

Bác Quỳnh chỉ cười mỉm. Cái cười của nhà tình báo lão luyện, có khi chẳng mang nội dung gì, nhưng người tiếp xúc lại tin chắc bác đọc được hết lòng dạ của mình. Nên không đợi bác Quỳnh trả lời, Huy Lạc đã nói tiếp:

- Đó là trước đây, người giàu phải sống trong sợ hãi. Người ta sợ làm giàu, đua nhau chạy trốn khỏi sự giàu có như trốn dịch hạch, trốn đại họa. Đang làm chủ nhưng phải nghèo đi để trở thành người làm thuê. Lúc đang làm thuê cho nhà nước, cháu xin nghỉ ngang để ra làm chủ doanh nghiệp tư nhân, bố cháu sợ hãi đến đột quỵ, mắng chửi cháu cả năm trời… Nhưng bây giờ, rõ ràng đất nước sau một trăm năm biến động, đã có bước tiến xa, khi các ông bà chủ có mặt ở khắp nơi. Các chủ trang trại sở hữu vài trăm, thậm chí, vài nghìn héc-ta đất là bình thường. Và Việt Nam ta không chỉ có hàng triệu ông chủ lớn nhỏ, mà còn có cả các tỉ phú thuộc tốp hàng đầu thế giới.

Mặt Linh Xuân thản nhiên như không, có lẽ vì chị đã quá quen với khẩu khí của chồng. Bác Danh Quỳnh chỉ cười cười. Còn vợ chồng tôi cố xăm xoi thật kỹ nét mặt Lạc, để xác định xem đột nhiên anh có vẻ hơi lạc đề với dụng ý gì. Chơi với anh nhiều năm, hồi đầu tôi rất dị ứng với kiểu không biết lúc nào là đùa lúc nào là thật trong nói năng, ứng xử của anh. Nhưng là đùa hay thật, thì kết quả vẫn là được việc và chẳng hại ai cả, nên tôi chuyển sang thích cái tính này ở anh lúc nào không biết. Điều anh đang nói về hiện trạng người giàu của đất nước trăm năm qua hoàn toàn đúng sự thật, nhưng phần suy luận lại là sự thật không nhiều người quen nghe, nên có vẻ anh đang nói đùa.

Nhưng rồi Lạc không đi xa hơn mà quay lại điểm xuất phát, khi nói tiếp với bác Quỳnh:

- Cháu lạc đề về sự thay đổi của đất nước thời gian bác đi xa, chỉ để nói: Bây giờ, chuyện mua cả một cánh rừng hàng chục héc-ta, đối với người trong nước như cháu, không phải chuyện vi phạm pháp luật, nên chuyện này, bác hãy nhường cho cháu lo.

Bác Quỳnh cười, nói:

- Thực ra, việc mua này bác đã tiến hành rồi, và Danh Huyền cùng với Danh Huy bỏ tiền, chứ không phải bác.

Máy điện thoại của bác Quỳnh bỗng reo chuông. Bác cầm máy:

- A lô! Ông đang ngồi với chú Tuấn rồi. Con cứ lên.

Bác cúp máy, nói với tôi:

- Phạm Phú Minh Dân đến.

Vợ tôi đứng dậy, định ra mở cửa, thì Linh Mai đã nhanh nhảu:

- Bà để con.

Linh Mai vừa mở cửa, Minh Dân đã xuất hiện. Sự thoải mái và trẻ trung từ cách ăn mặc lẫn phong thái, khiến anh không hề có vẻ ngoài của một ông chủ lớn. Đi cùng anh là cô gái, người quay camera hôm lên Phước Long. Vừa vào phòng, cô đã tác nghiệp luôn bối cảnh và những người đang có mặt. Còn Minh Dân ào ào khi vừa thấy bác Quỳnh:

- Trước khi hỏi thăm bệnh chú Tuấn, con phải kịch liệt lên án ông.

Bác Quỳnh cười mỉm đùa lại:

- Lên án chuyện gì?

- Thứ nhất, ông là Việt Cộng nằm vùng thứ dữ, sao hôm gặp ở nhà chú Tuấn, ông vẫn giấu?

Bác Quỳnh vẫn cười mỉm:

- Ông không giấu, mà lúc đó, con hiểu ông là ai cũng không quan trọng. Còn tội đáng lên án thứ hai?

- Con vừa lên Phước Long để mua rừng cao su trồng đè lên nghĩa trang và con suối cạn trên bờ có chuồng bò, để phục hồi lại nghĩa trang và cái miếu như trước, vì đó từng là nơi cư ngụ của anh Hai con và đồng đội, nhờ địa điểm này, con tìm được hài cốt anh Hai con. Nhưng chủ sở hữu nói có người đặt cọc mua rồi. Con hỏi ai mua, thì hóa ra là ông.

Bác Quỳnh thú vị:

- Vì biết trước con sẽ mua, nên ông đặt cọc trước, chỉ để con lên sau, ông tăng giá gấp đôi, con dám theo không?

Minh Dân cười lớn:

- Ha ha ha… Con mua đất theo giá trị tâm linh mà ông chỉ tính theo giá bất động sản thị trường để bán cho con là ông lỗ rồi. Nhưng con nói vui thôi. Về việc phục hồi nghĩa trang và cái miếu, ông và con, hai tư tưởng lớn gặp nhau, con không để ông làm một mình đâu.

Lúc này, anh mới phát hiện trong phòng ngoài những người quen, còn có người lạ là Linh Mai:

- Ủa! Cô bé xinh đẹp này là ai? Cho anh bắt tay em một cái.

Huy Lạc:

- Cháu thử đoán đi?

Minh Dân ngắm kỹ Linh Mai:

- Hao hao giống cô Linh Xuân. Diễn viên thì không phải vì cao quá khổ. Em là người mẫu hay cầu thủ bóng chuyền từ Hà Nội vào hả?

Linh Mai cười:

- Thưa anh! Em là cầu thủ bóng chuyền đội nữ Bộ Tư lệnh Thông tin.

- Chúc mừng em đã chọn đúng nghề. Nhưng tại sao em lại lạc vào nơi chẳng ai có máu thể thao thế này?

- Em là cháu ngoại ông Huy Lạc và bà Linh Xuân.

- Rồi. Ông là tỉ phú, bà nhà khoa học, sao lại để em lêu lổng chơi bóng chuyền? Nếu vào giới showbiz, anh cam đoan em sẽ vừa kiếm được nhiều tiền hơn, vừa nhanh nổi tiếng hơn.

Đúng lúc đó, từ ngoài cửa xuất hiện một đám khách.

Minh Dân vẫy họ:

- Vào đây. Tất cả vào đây.

Tôi rất ngạc nhiên khi bước vào phòng toàn những gương mặt quen thuộc với tôi trong giới điện ảnh: Đạo diễn Đinh Đức Liêm, và các diễn viên Trương Ngọc Ánh, Hà Xuyên, Kim Khánh, Quyền Linh, Chi Bảo, từng đóng những bộ phim do tôi là tác giả kịch bản.

Minh Dân cởi mở lần lượt giới thiệu chủ, khách với nhau xong, rồi thưa với bác Quỳnh và chúng tôi:

- Chắc ông và cô chú ngạc nhiên khi con đưa các bạn này đến đây? Nguyên hôm cùng ông và các cô chú lên Phước Long, con bắt đầu tìm hiểu kỹ về từng nhân vật trong đoàn. Ông là ai? Bà Hoàn Trân, bà Bình Giao là ai? Chú Danh Hùng? Cô chú Huy Lạc, Linh Xuân là ai? Chú Tuấn, bác Nguyễn Minh Khôi là ai? Cuộc đời các ông bà và các cô chú, cộng thêm màn tìm hài cốt người thân bằng phương pháp ngoại cảm, rõ ràng là một bộ phim truyền hình đẹp, chắc chắn sẽ hút khán giả và hút nhiều quảng cáo, nên con về chào Đài Truyền hình Vĩnh Long và Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Cả hai đài đều sẵn lòng hợp tác. Nên con quyết định mời đạo diễn Đinh Đức Liêm làm đạo diễn bộ phim này. Anh Đinh Đức Liêm đã đề xuất Chi Bảo sẽ đóng vai ông, Hà Xuyên vai bà Bình Giao, Trương Ngọc Ánh vai bà Hoàn Trân. Kim Khánh vai cô Danh Huyền. Bộ ba trong một thì Quyền Linh sẽ đóng vai chú Danh Hùng. Chú Nguyễn Minh Khôi và Huy Lạc, con đang tìm diễn viên. Cô Linh Xuân, chú Tuấn, cô Phương, anh Đinh Đức Liêm và con sẽ đều chọn những diễn viên xứng đáng và ăn khách…

Đạo diễn Đinh Đức Liêm nói với tôi:

- Em đề xuất biên kịch bộ phim là vì em và anh từng hợp tác nhiều phim, nhưng cậu ấy chưa chịu.

Minh Dân:

- Không phải chưa chịu mà không chịu. Con mong chú thông cảm vì con chủ trương không chọn thế hệ từng sống trong chiến tranh, mà muốn tác giả kịch bản là những người không biết chiến tranh là gì. Để xem thế hệ này nhìn nhận về chiến tranh thế nào, vì người xem từ nay trở đi chính là những người đồng hành với họ, và một trăm, một nghìn năm sau, về loại đề tài chiến tranh và lịch sử, muốn giữ cách nào, vẫn thuộc về các tác giả hậu sinh, nên bắt đầu từ hôm nay, mình giao cho họ làm, cũng không sợ sớm.

Linh Mai nói:

- Nếu vậy, anh chọn em đi.

Đạo diễn Đinh Đức Liêm nói:

- Linh Mai là một biên kịch thực sự đấy.

Phạm Phú Minh Dân chau mày ngắm Linh Mai một lần nữa:

- Ngay từ đầu, anh đã nói ông bà để em lêu lổng ở sân bóng chuyền là một sai lầm rồi mà. Vấn đề còn lại là khả năng của em có đáp ứng được yêu cầu của bộ phim, tức là yêu cầu của anh không? Nhưng đạo diễn Đinh Đức Liêm đã giới thiệu, anh đồng ý nhận em vào vòng tuyển chọn.

Anh chìa tay về phía Linh Mai. Linh Mai cũng bắt chặt tay Minh Dân:

- Em hy vọng sẽ hợp tác tốt được với anh.

Tôi hỏi bác Danh Quỳnh:

- Bác có đồng ý cho họ làm phim về mình?

- Chúng có hỏi ý kiến tôi đâu? Nhưng nếu được hỏi, tôi cũng không phản đối.

- Trái với quan điểm trước của bác là không muốn bất cứ ai nói hay viết về mình.

Bác Quỳnh cười:

- Vì giờ đây bác nhận ra quyền nhìn nhận về lịch sử và quá khứ chưa chắc đã thuộc về những người làm nên lịch sử, nên có phản đối cũng vô ích.

Huy Lạc nói với Minh Dân:

- Cháu có chọn con Linh Mai viết kịch bản bộ phim này hay không là việc của hai đứa, nhưng nhất định phải cho chú hùn vốn.

Gò Vấp – TP. Hồ Chí Minh.

Nguyễn Mạnh Tuấn