- 2 - -Nguyên tác: The cradle will fall
Tiếng chuông đánh thức ông ta vào lúc hai giờ sáng. Sau nhiều năm chung sống với những cú gọi cấp cứu trong đêm, ông có thói quen thức dậy ngay. Ông ra khỏi giường, bước đến bên chậu rửa của phòng thí nghiệm, rửa mặt bằng nước lạnh, rồi cẩn thận thắt lại cà vạt và chải tóc. Đôi tất ngắn của ông vẫn chưa khô. Ông thấy chúng còn ướt và lạnh khi lấy chúng lên từ máy sưởi. Ông cau mặt khi mang đôi tất ngắn, rồi mang giày vào.
Ông đưa tay với lấy cái áo khoác và khi chạm vào nó, ông rụt tay lại. Cái áo khoác ướt sũng. Suốt buổi tối treo bên máy sưởi cũng chẳng ích gì. Ông biết mình sẽ bị viêm phổi nếu khoác nó lên người. Hơn nữa, những sợi vải màu trắng của tấm chăn hẳn còn vướng lại đâu đó trên nền vải màu xanh đậm của áo khoác. Điều đó có thể gây ra những nghi ngờ.
Trong tủ hốc tường, ông vẫn luôn treo sẵn chiếc áo mưa hiệu Burberry đã cũ. Ông quyết định mặc cái áo đó và bỏ cái áo khoác ướt sũng lại để ngày mai đưa đi giặt tẩy. Ông biết mình sẽ lạnh cóng với chiếc áo mưa không lớp lót, nhưng ông chẳng còn một lựa chọn nào khác. Vả lại, chiếc áo mưa màu xanh ô liu này trông khá tầm thường và hơi rộng. Như vậy, ông sẽ khó bị nhận ra nếu ai đó trông thấy chiếc xe và ông ở trong xe.
Ông bước vội đến tủ hốc tường, lấy chiếc áo mưa ra và máng vào bên trong chiếc xe áo khoác Chesterfield ướt sũng. Chiếc áo mưa có mùi ẩm mốc - cái mùi khó ngửi của bụi hắt vào mũi ông. Ông bĩu môi kinh tởm rồi mặc áo và cài nút lại.
Ông đến bên cửa sổ, kéo tấm sáo lên khoảng vài phân.. vẫn còn khá nhiều ô tô trong bãi đậu, như vậy cũng đủ để chẳng còn ai thèm quan tâm đến chiếc xe của ông, dù nó có đó hay đã đi rồi. Ông cắn môi khi thấy cái bóng đèn hỏng nơi bãi đậu đã được thay mới khiến khu xa nhất của bãi xe giờ không còn tăm tối nữa. Phần đuôi xe của ông nằm lọt trong vùng sáng của ánh đèn. Như vậy, ông buộc phải men theo vùng bóng tối của những chiếc xe và bỏ cái xác vào cốp xe, càng nhanh càng tốt.
Ông thấy đã đến lúc.
Ông mở cửa khoa chứa tân được và cúi người xuống. Đôi tay thành thạo của ông mò mẫm những đường cong của cái xác dưới lớp chăn. Gừ lên một tiếng, ông luồn một tay xuống dưới cổ, tay kia đặt dưới hai đầu gối và nhấc cái xác lên. Ông biết thông thường trước đây người đàn bà này cần nặng khoảng năm mươi lăm ký nhưng vì có thai nên nặng hơn. Các cơ bắp của ông trĩu nặng khi ông đưa cái xác lên bàn xét nghiệm. Trong ánh sáng của cây đèn bấm đặt trên bàn, ông dùng chăn quấn kín cái xác.
Ông thận trọng kiểm tra dưới sàn kho tân dược trước khi đóng cửa lại. Rồi ông nhẹ nhàng mở cái cửa dẫn ra bãi đậu xe. Giữ chìa khóa cốp xe trong hai ngón tay, ông bình thản quay lại bàn xét nghiệm và nhấc cái xác người đàn bà lên. Ông đã chuẩn bị tinh thần để đương đầu với hai mươi giây định mệnh sắp đến.
Mười tám giây sau, ông đã ra đến xe. Tuyết tan quất mạnh vào mặt ông. Cái xác quấn chăn trĩu nặng đôi tay ông. Ông chuyển sức nặng sang một bên tay để dùng tay kia đút chìa khóa vào khóa cốp xe. Tuyết đóng băng trên lưỡi khóa khiến ông phải vội vã cạo nó đi. Một lúc sau, chìa khóa đã đút được vào, và nắp cốp xe từ từ mở lên. Ông liếc nhìn về các cửa sổ của bệnh viện. Nơi căn phòng giữa của lầu hai, một tấm sáo đã được kéo lên. Ông thầm nghĩ, không biết có ai đó đang đứng nhìn ra ngoài không? Trong khi nôn nóng đặt cái xác vào cốp xe, nên khi rút vội bàn tay trái ra ông đã để gió làm hé mở tấm chăn khiến khuôn mặt người đàn bà lộ ra. Ông giật mình buông cái xác ra và đóng cốp xe lại.
Khuôn mặt đó đã lộ rõ dưới ánh đèn và ông thầm nghĩ chẳng hay có ai đã trông thấy? Một lần nữa, ông ngước mắt nhìn về phía cửa sổ, nơi có tấm sáo đã kéo lên. Ông thắc mắc muốn biết liệu người ta có thể trông thấy gì từ ô cửa đó? Ông quyết định sau này sẽ tìm hiểu xem ai là người đang trong căn phòng ấy.
Ông vào xe, mở máy và phóng nhanh ra khỏi bãi, không bật đèn xe cho đến khi xe đã ra đến đường.
Có lẽ không ai ngờ rằng, chỉ trong một đêm mà ông đã hai lần đến Chapin River? Giả dụ nếu ông không rời khỏi bệnh viện vào lúc mà bà ta chạy ào ra khỏi phòng mạch của bác sĩ Fukhito và gọi ông thì mọi việc đã khác hẳn.
Rồi bà ta đã đến bên ông và nói: "Thưa bác sĩ, tuần nay tôi không thể đến khám như bác sĩ đã hẹn. Ngày mai tôi sẽ đi Minneapolis để gặp bác sĩ trước đây của tôi là ông Salem. Có lẽ tôi sẽ ở lại đó để nhờ bác sĩ Salem lo cho tôi chuyện sinh nở".
Ông thầm nghĩ, "Nếu không gặp bà ta thì mọi kế hoạch của ông đều phá sản".
Nhưng ông đã gặp bà ta và thuyết phục được bà ta theo ông về phòng mạch. Ông đã nói chuyện, đã trấn an và mời bà một cốc nước. Vào phút cuối, bà có vẻ nghi ngờ và toan đẩy ông ra để rời khỏi phòng mạch. Khuôn mặt kiều diễm của bà đầy vẻ khiếp đảm.
Tuy vậy, sau khi đã đưa bà ta vào cõi im lặng vĩnh hằng, nhưng nguy cơ phát hiện vẫn còn quá lớn lao. Và thế là ông đã giấu cái xác trong kho tân dược để có thời gian suy nghĩ và tìm phương kế.
Chiếc xe màu đỏ của Vangie là một hiểm nguy kề cận. Bằng mọi cách, ông phải đưa nó ra khỏi bãi đậu xe của bệnh viện. Nếu không, khi hết giờ thăm bệnh, người ta sẽ để ý đến chiếc xe bởi đó là chiếc Lincoln Continental de Luxe, một chiếc xe rất sang trọng.
Ông biết rõ ngôi nhà của bà tại Chapin River. Bà đã cho ông biết rằng chồng bà là hoa tiêu của hãng hàng không United Airlines và sớm lắm thì ngày mốt mới về nhà. Ông quyết định đưa chiếc Lincoln về đó, bỏ xắc tay của bà trong nhà và làm như thể là bà đã về nhà.
Điều đó xem chừng đối với ông thật quá dễ (dễ hơn ông nghĩ nhiều). Vì thời tiết xấu nên đường rất vắng xe. Qui hoạch đô thị của Chapin River buộc mỗi nhà phải xây trên một phần đất rộng tối thiểu là một héđa. Nhà cửa ở đây khuất xa đường 16, muốn vào nhà người ta phải lái xe theo một con đường riêng quanh co. Ông sử dụng hệ thống tự động nơi biển kiểm soát của chiếc Lincoln để mở cửa nhà xe rồi đưa xe vào.
Chìa khóa nhà được móc chung với chìa khóa xe nhưng ông không cần dùng đến. Cửa từ nhà xe dẫn vào phòng làm việc nhỏ không khóa. Ánh đèn trong nhà được thắp sáng, hẳn là do hệ thống tự động. Ông vội vã bước ngang qua phòng làm việc, đi theo hành lang dẫn về các phòng. Ông tìm căn phòng chính. Đó là căn phòng cuối, ở phía tay phải. Ngoài ra, còn có hai phòng khác. Một trong hai phòng đó được dành sẵn cho em bé sắp sinh với những con thú nhồi bông sặc sỡ, cái nôi và tủ côm-mốt mới toanh.
Chính lúc đó, ông mới nghĩ ra rằng ông có thể ngụy trang cái chết của bà ta thành một vụ tự tử. Ba tháng trước kỳ hạn sinh nở, bà ta đã chuẩn bị xong căn phòng chờ em bé và nỗi lo sợ bị sẩy thai là một lý do khiến bà tự tử.
Ông bước vào căn phòng chính. Chiếc giường lớn với tấm phủ giường bằng vải dày màu trắng đã được vội vã kéo lên. Chiếc áo ngủ và áo mặc trong nhà vứt cạnh đó, trên chiếc ghế dài lưng chếch. Ông ước gì có thể đưa cái xác về đây, đặt lên chiếc giường của bà ta. Chuyện đó khá bất trắc nhưng dẫu sao cũng an toàn hơn là vứt xác trong rừng, khiến cảnh sát phải điều tra và lùng sục khắp nơi.
Ông bỏ cái xắc tay của bà ta lên chiếc ghế dài lưng chếch. Với chiếc Lincoln trong nhà xe và xắc tay trong phòng ngủ, điều đó chứng tỏ rằng bà ta đã về nhà sau khi rời bệnh viện.
Xong xuôi đâu đó, ông cuốc bộ sáu cây số để ngược về bệnh viện. Ông biết đi như thế là nguy hiểm bởi đoạn đường này ngang qua những ngôi nhà sang trọng và nếu gặp xe cảnh sát tuần tra thì nguy to. Ông sẽ bị xét hỏi và chẳng có lý do chính đáng nào để lang thang trong khu này. Nhưng, gần một tiếng sau đó, ông đã về đến bệnh viện. Ông vào phòng bằng ngõ sau của bệnh viện, ngõ dẫn về bãi đậu xe.
Áo khoác, giày và tất ngắn của ông ướt sũng. Ông lạnh run. Ông biết sẽ có nguy cơ bị một ai đó bắt gặp khi đưa cái xác ra khỏi bệnh viện. Toán y tá trực sẽ đến thay phiên vào nửa đêm. Vì vậy, ông quyết định chờ qua nửa đêm rồi sẽ hành động. Ngõ vào khu cấp cứu nằm ở cánh phía Đông của bệnh viện. Bằng ngõ đó, ông sẽ không sợ bị để ý, vì ở đó người ta luôn bận rộn bởi những ca cấp cứu.
Rồi ông đã chỉnh đồng hồ để chuông báo thức reo vào lúc hai giờ. Sau đó, ông nằm dài lên bàn xét nghiệm và đã ngủ một giấc cho đến khi chuông reo.
Giờ đây, sau khi vượt qua cây cầu gỗ, ông hướng xe về Winding Brook Lane. Ngôi nhà của người chết nằm bên phải.
Ông tắt đèn xe, lái men theo lối đi rồi dừng lại trước cửa nhà xe. Ông tháo đôi găng da để mang vào đôi bao tay của bác sĩ giải phẫu. Rồi mở cửa nhà xe để vào phía trong. Ông đi qua phòng làm việc. Ngôi nhà vắng tanh. Chỉ vài phút nữa là xong.
Ông bước vội dọc theo hành lang, về phía căn phòng chính, toàn thân căng thẳng dưới sức nặng của cái xác. Ông đặt cái xác xuống giường và tháo tấm chăn ra.
Rồi ông vào phòng tắm kế cận rồi bỏ những hạt xianua vào cái ly xanh có vẽ hoa. Ông hứng nước vào ly rồi đổ bỏ phần lớn thứ nước đó vào chậu rửa. Ông dọn sạch chậu rửa chà rửa cẩn thận trước khi trở vào phòng ngủ. Ông đổ những giọt sau cùng trong ly xuống tấm phủ giường rồi đặt cái ly trong tầm tay người chết. Hẳn nhiên người ta sẽ tìm thấy dấu tay của người đàn bà trẻ đã chết này trên cái ly. Cái cứng ngắc của xác chết đã rõ dần. Đôi tay người đàn bà lạnh ngắt. Ông cẩn thận xếp cái chăn lại.
Cái xác ở tư thế nằm ngửa, hai mắt nhìn sững, đôi môi méo xệch như muốn nói lời phản kháng trong cơn hấp hối. Ông thấy điều đó là hoàn hảo bởi hầu hết những kẻ tự tử đều hối tiếc một khi đã quá muộn.
Ông thắc mắc không biết mình có quên sót gì không? Không. Các xắc tay và xâu chìa khóa đã được bỏ lại trên chiếc ghế dài, một chút ít dấu vết của xianua vẫn còn đó trong cái ly. Ông thầm hỏi, liệu có nên cởi áo khoác của bà ta ra không nhỉ? Thôi, để vậy cũng được. Càng ít động đến cái xác chừng nào càng tốt chừng ấy.
Rồi ông thầm nghĩ, phải chăng ông đã cởi giày của bà ta? Hay chính bà ta đã tháo chúng ra?
Ông kéo vạt áo caretan dưới lớp áo khoác lên và cảm thấy sững người. Bàn chân phải sưng húp vẫn còn trong chiếc giày mọi đã cũ. Bàn chân trái thì chỉ có lớp vớ, chẳng thấy giày đâu.
Hẳn chiếc giày mọi đã rơi ở đâu đó. Nhưng ở đâu chứ? Trên bãi đậu xe, trong phòng làm việc của ông hay trong nhà này? Ông chạy ra khỏi phòng, nhìn khắp nơi rồi lần ra đến nhà xe. Không tìm thấy chiếc giày trong nhà và cũng chẳng có trong nhà xe. Cuống cuồng vì nôn nóng, ông chạy ào ra xe, nhìn vào cốp. Vẫn không thấy.
Ông thầm nghĩ, hẳn nó đã rơi ở bãi đậu xe, khi ông ẵm cái xác đi. Ông chắc như thế bởi nếu nó rơi trong phòng làm việc của ông thì hẳn ông đã nghe thấy nó rơi. Đương nhiên là nó cũng không có trong kho tân được. Ông chắc như thế.
Chính vì cái chân sưng húp đó mà bà ta phải thường xuyên mang giày mọi. Có lần ông đã nghe bà ta nói đùa như thế với cô nhân viên tiếp tân.
Ông thấy mình cần phải trở lại bãi đậu xe để tìm cho ra chiếc giày. Và lỡ nếu ai đó, vì đã trông thấy bà ta mang chiếc giày đó nên đã nhặt nó thì sao? Điều đó sẽ gây ra nhiều chuyện một khi cái xác của bà ta bị phát hiện. Giả dụ có ai đó nói rằng: "À, tôi đã trông thấy chiếc giày mọi của bà ấy trong bãi đậu xe. Hẳn bà ta đã đánh rơi nó trong khi về nhà vào tối thứ hai". Ngay cả khi bà ta chỉ bước vài bước không giày trên bãi đậu xe, thì chiếc vớ của bà hẳn bị vấy bẩn. Cảnh sát sẽ hiểu ra điều đó và sẽ đến bãi đậu xe để tìm chiếc giày.
Nhưng đó chỉ là sự tiên liệu của ông, còn vào lúc này thì ông đang vội vã trở vào phòng và mở tủ treo áo ra. Trên sàn tủ là mớ giày của người đã chết mà đa số là giày cao gót. Sẽ chẳng ai tin được rằng bà đã chọn mang giày cao gót trong khi thai nghén và với thời tiết như thế này. Ngoài mớ giày cao gót, ông cũng trông thấy vài ba đôi ủng, nhưng vì bàn chân sưng húp của bà nên ông không tài nào kéo được cái khóa rút Eclair lên.
Và rồi ông trông thấy một đôi giày đế bằng, loại mà các bà bầu thường mang qua một lần. Nhẹ nhõm, ông chộp lấy chúng và vội vã quay về giường. Ông tháo chiếc giày trên chân người chết ra và mang vào đôi giày vừa lấy trong tủ áo. Sao đó, ông nhét chiếc giày mọi vào túi áo mưa, kẹp nách tấm chăn trắng và rời phòng, men theo hành lang, ngang qua phòng làm việc và ra khỏi nhà trong đêm.
Khi ông về đến bãi đậu xe của bệnh viện, tuyết tan đã ngưng đổ nhưng gió nổi lên và trời rét buốt. Ông dừng xe ở nơi xa nhất của bãi đậu, dự định rằng, nếu người bảo vệ có ngang qua và hỏi thì ông sẽ đơn giản trả lời rằng có điện thoại gọi ông đến đây để gặp một bệnh nhân đang chuyển dạ. Nếu vì lý do nào đó mà ông bị điều tra về chuyện này thì ông sẽ tỏ ra bực tức và nói là có một tên gàn dở nào đó đã gọi đến ông để quậy phá.
Nhưng tốt hơn hết, ông không nên để bị ai đó trông thấy. Men theo vùng tối của hàng cây, ông vội vã đi lại dưới con đường, nơi trước đây ông đã đậu xe để về phòng. Đúng ra thì chiếc giày hẳn phải rơi khi ông mở cốp xe và làm lay động cái xác. Ngồi xổm, ông đảo mắt nhìn vùng đất chung quanh. Rồi từng bước một, ông lặng lẽ đi về phía bệnh viện. Toàn bộ các phòng phía bên này của bệnh viện đều chìm trong bóng tối. Ông ngước mắt nhìn lên cái cửa sổ ở giữa tầng hai. Tấm sáo ở đó đã được hạ xuống. Nghiêng người về phía trước, ông bước chậm trên lối đi trải nhựa. Sự tức giận và ức chế khiến ông quên đi cái lạnh lẽo giá rét. Chiếc giày ở đâu nhỉ? Ông phải cần tìm thấy nó ngay.
Có ánh đèn xe chiếu sáng ở khúc quanh dẫn vào bãi đậu. Chiếc ô tô dừng lại trong tiếng rít của bánh xe. Có lẽ người tài xế đã nhận ra rằng trong khi vội vã tìm khu cấp cứu, anh đã vào nhầm cổng. Anh trở đầu xe và phóng nhanh.
Ông quyết định phải rời khỏi nơi đây. Chẳng ích gì nữa. Thế rồi ông vấp chân và ngã trên lối đi trải nhựa. Bàn tay ông trượt dài và cùng lúc đó cảm nhận có một chiếc giày da đang nằm dưới các ngón tay. Ông chụp lấy nó và cầm lên. Ngay cả trong bóng tối, ông cũng biết chắc đó là chiếc giày mọi. Như thế là ông đã tìm thấy nó.
Mười lăm phút sau, ông đã về đến nhà. Ông cởi áo mưa và máng vào trong tủ treo áo nơi lối vào. Tấm gương lớn nơi cánh cửa phản chiếu hình ảnh của ông. Ông chán ngán khi trông thấy chiếc quần ướt sũng và lấm đầy bùn ở hai đầu gối. Đầu tóc ông bù xù, hai bàn tay bẩn thỉu. Mặt ông đỏ ửng, đôi mắt lồi ra thái quá, con ngươi mở lớn. Ông có cái vẻ của ông người đang bị cú sốc lớn.
Bước vội lên cầu thang, ông cởi bỏ quần áo, vứt vào giỏ đựng đồ dơ rồi đi tắm và mặc đồ ngủ vào. Đầu óc ông vẫn còn quá căng thẳng đến nỗi ông không thể nhắm mắt ngủ được, hơn nữa, ông đang đói đến cồn cào.
Trước khi ra về, bà giúp việc đã để lại những lát thịt cừu trên đĩa. Trên bàn bếp còn có một miếng pho mát bri, trong tủ lạnh là những trái táo chua, giòn. Ông chăm chút dọn bữa ăn cho mình, bỏ lên khay và mang vào thư phòng. Ông đến quầy rượu, rót một ly lớn whisky và ngồi vào bàn giấy. Vừa ăn ông vừa ôn lại những sự cố xảy ra trong đêm. Ông biết rằng, nếu không xem lại lịch hẹn, hẳn ông đã không gặp được bà ấy. Như vậy, có thể bà ấy đã ra đi và ông chẳng còn cách gì để giữ bà lại.
Ông mở ngăn kéo bàn giấy và lôi lớp dưới ngăn kéo ra, nơi ông luôn cất giữ hồ sơ của sự việc mà ông đặc biệt theo dõi. Ở lớp dưới ngăn kéo này chỉ có một bao thư bằng giấy bìa. Ông lấy một tờ giấy trắng và viết ra những ghi chú sau cùng.
15 tháng hai
Hai mươi giờ bốn mươi. Bác sĩ đóng cửa sau của phòng khám lại.
Nữ bệnh nhân ấy vừa ra khỏi phòng mạch của Fukhito. Nữ bệnh nhân ấy bước đến bên bác sĩ và cho biết bà sẽ về nhà cha mẹ tại Minneapolis và bà sẽ nhờ Emmet Salem, bác sĩ trước đây của bà, đỡ đẻ cho bà. Bà ta có vẻ hoảng loạn và được mời vào phòng khám của bác sĩ. Dĩ nhiên bà ta không được phép ra đi như thế. Bực tức vì con bệnh đã làm trái ý mình nên bác sĩ đã nghĩ đến chuyện thủ tiêu con bệnh. Lấy lý do mời con bệnh uống nước, bác sĩ đã bỏ những hạt xianua vào ly và buộc con bệnh phải uống. Con bệnh tắt thở vào đúng hai mươi giờ năm mươi phút. Thai nhi đã được hai mươi sáu tuần tuổi. Theo bác sĩ nếu được sinh ra thì hẳn thai nhi có thể sống. Tập hồ sơ này chứa đựng những báo cáo y khoa đầy đủ, chính xác, chúng thay thế và hủy bỏ những báo cáo của bệnh viện Westlake.
Ông thở dài, đặt bút xuống, nhét tờ giấy vào bao thư rồi dứt khoát xếp lại hồ sơ. Sau đó, ông dứng dậy và bước đến bên ngăn cuối của kệ sách. Thọc tay ra sau một cuốn sách, ông nhấn vào cái nút panô, kệ sách xoay nhẹ, để lộ cái két sắt gắn sát tường. Ông vội vã mở két, bỏ hồ sơ vào và vô tình nghĩ đến số lượng càng lúc càng nhiều của các bao thư. Ông nhớ nằm lòng những cái tên đó: Elisabeth Berkeley, Anna Horan, Maureen Crowley, Linda Evans... Cả thảy hơn sáu chục hồ sơ, tất cả là những thành công và thất bại trong nghề bác sĩ của ông.
Ông đóng két sắt lại, đẩy cái kệ sách vào chỗ cũ rồi chậm rãi bước lên cầu thang. Ông nằm xuống giường và nhắm mắt lại.
Giờ đây, sau khi mọi chuyện đã kết thúc, ông cảm thấy mệt lử. Ông thắc mắc không biết mình có quên sót gì không? Lọ xianua, ông đã cất vào két sắt rồi. Còn đôi giày mọi, ông sẽ vứt chúng ở một nơi nào đó vào tối mai. Sáng mai, trên đường đến bệnh viện, ông sẽ ghé tiệm giặt ủi để bỏ mớ quần áo. Tuy ít khi nghĩ ngợi và tưởng tượng nhiều chuyện này nọ, nhưng bà giúp việc Milda sẽ để ý đến những đốm bùn ướt đẫm nơi hai đầu gối quần ông. Ông quyết định sẽ tìm cho ra người bệnh nhân đã ở trong căn phòng giữa của tầng hai, cánh Đông bệnh viện và tìm hiểu xem bà ta đã trông thấy gì. Rồi ông thấy đã đến lúc mình cần phải ngủ và thôi nghĩ đến chuyện đó. Chống người lên khuỷu tay, ông mở ngăn kéo tủ nhỏ đầu giường và lấy ra hộp thuốc nhỏ. Thứ thuốc ngủ loại nhẹ mà ông đang cần. Với thứ này, ông có thể an giấc trong hai tiếng đồng hồ. Những ngón tay của ông mò mẫm trước khi giữ lấy viên thuốc nhỏ. Ông nuốt chửng viên thuốc rồi ngã người xuống và nhắm mắt.