← Quay lại trang sách

- 1 - NGÔN NGỮ VÀ ĐẠO HỌC

Đọc sách, đọc truyện, là một niềm vui của nhiều người; dẫu đọc với mục đích nào thì sách, truyện nhiều khi trở thành nhu cầu không thể thiếu trong cuộc đời một người. Ngày nay, phương tiện truyền thông phát triển cung phụng nhiều phương tiện qua nhiều dạng thức càng giúp con người nhận biết về những phương diện muốn biết hoặc liên hệ. Tuy nhiên, những cuốn, Đạo Đức kinh, Nam Hoa kinh, kinh Kim Cang, kinh Đại Niết Bàm, Pháp Bảo Đàn kinh, Kinh Thánh, Bagagìta, v.v... luôn đóng vai trò khiêu khích hoặc đòi hỏi độc giả nhiều tâm sức nghiền ngẫm, suy tư hầu nhận thức ẩn ý, sự khôn ngoan cần được nghiệm xét hay nghiệm chứng dẫn độc giả tiến đến thức ngộ chẳng ngờ. Sự thức ngộ này, nếu ai đã trãi qua mới có thể nhận biết, thay đổi tâm tư, nhận thức, quan điểm một người, rất phù hợp câu nói, "Muốn thay đổi thế giới, hãy thay đổi chính mình." Có câu nói, "Đọc sách mà tin vào sách thà đừng đọc." Ngay như những sách dạy về kỹ thuật, dạy nấu ăn, trồng cây, nuôi cá, là những sách thực dụng, nhưng sự áp dụng, thực hành vẫn còn bị lệ thuộc nhiều điều kiện thực tiễn nơi địa dư và thế giới nhân sinh, đặc biệt sáng tạo cá nhân. Riêng những sách về đạo học, thì lại càng lệ thuộc thực trạng tâm tư người đọc. Hơn nữa, sách đạo học chính là sản phẩm nghiệm chứng, nghiệm xét, nhận thức, của tác giả. Mà đã là nhận thức, nghiệm xét, thì không thể giảng giải, giãi bày, và lại càng không thể học được. Nhận thức chỉ có thể ngộ, không thể cầu mong. Thế nên các sách đạo học được viết theo phương thức ngắn, gọn, nói lên kết quả suy tư, nghiệm chứng, để độc giả suy tư, suy tưởng, nghiệm xét chứ không phải để được giảng giải. Những câu nói nơi sách đạo học chính là sự thách đố, khêu gợi, kích hoạt tâm tư độc giả suy tư, nghiệm xét, Như thế, có thể nói, giảng giải chỉ dẫn tâm thức hành giả vào đường tà, hay ngăn chặn cơ hội thức ngộ của kẻ khác. Có lẽ, đây chính là lý do câu phúc âm phát sinh, "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo, kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi." Dẫu ai đã vô tình nghiệm được câu này, đồng thời thấm thía với lời nhắc nhở, "Và quay lại cắn xé các ngươi" mới nhận thức được cái lỗi lầm do lòng nóng sốt muốn khai hóa người khác. Nhận thức thực thể, "Và quay lại cắn xé các ngươi" với lòng chân thành, chính nỗi đau tâm tư do lòng nóng sốt coi chừng lại trở thành cơ hội cho mình thăng tiến nơi hành trình tâm linh. Một điều bình thường nơi sách đạo học nhưng lại trở thành bất thường đối với độc giả; đó là những câu nói, câu viết, như kết quả hay sản phẩm nhận thức của tác giả thường đẩy hiểu biết bình thường của độc giả rơi vô trạng thái hụt hẫng. Chẳng hạn, nơi Lão học có câu, "Đi xa tức là về gần." Hoặc, "Người biết không nói, kẻ nói không biết." Huệ Thi lại hô lên, "Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng." Nhà Phật mới nói lên lắm thứ éo le, "Cái vỗ của một bàn tay." hoặc có vẻ đơn sơ, ngờ nghệch, nhưng thâm trầm, "Ngón tay ta chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng." Ai không biết như thế, nhưng sao câu nói đơn sơ, đơn giản này lại có thể đứng vững mấy ngàn năm nơi hành trình nghiệm chứng nhà Phật? Một Thích Ca được muôn đời kính ngưỡng, la lên, "Lời ta nói như chiếc bè" để rồi thêm, "Trong 49 năm rao giảng, ta chưa từng nói gì." Có ai dám suy tư về câu nói nghe như của dân chơi, "Oánh mày, oánh tao." Tân Ước coi bộ diễn giải, hiền hòa nhưng thâm trầm không kém, "Ai có tai thì nghe." Ai là người không có tai và dĩ nhiên tai dùng để nghe; ai không biết như thế, nhưng sao lại nói, "Ai có tai thì nghe." Bất cứ ai để tâm nghiệm xét câu này mới thấy nét ngây ngô, đơn sơ, của câu nói gây nên lắm cảnh khúc mắc tâm tư, đòi hỏi tính chất thâm trầm suy tưởng, nghiệm xét. Chưa hết, nơi phúc âm của Tân Ước, còn kéo thêm nhà Lão vô. "Kẻ trước hết trở nên sau hết" của nhà Lão, được chuyển biến thành, "Nhiều kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết." Đồng thời, nhà Ấn cũng được mời gọi, "Cha ta và ta là một" nơi Gioan, một thức ngộ của RamaKrishna nhà Ấn nơi một ngôi đền cổ. Đã ai bao giờ dám nghĩ, "Anh em không biết sao: Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em" (1Cor. 3:16)? Thế mà, "Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi; nếu tay phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng nó đi khỏi ngươi" (Mt. 5:29;30). Ai là người không bao giờ lầm lỗi? Thế sao những người tin theo không ai thực hiện mà câu này vẫn đứng vững tử ngàn xưa? Có lẽ người ta đã áp dụng một cách thực tiễn câu, "Đọc sách mà tin vào sách thà đừng đọc." Vậy đọc sách để làm gì? Để giết thời giờ? Ai có thừa thời giờ để giết; trong khi đã có người la lên, "Người làm không hết việc; kẻ giết vẫn thừa giờ!" Cuộc đời xô đẩy ai rơi nơi hoàn cảnh nào thì người ấy tự biết. Để tìm hiểu hoặc nhận định một vấn đề, người đối diện cần biết nguyên nhân phát sinh, những điều kiện liên hệ, và mục đích cũng như ứng dụng của sự vật hay sự thể. Như thế, khi đối diện với những câu nói bất thường nhiều khi lại được coi như quá thường tình, chẳng hạn, "Ai có tai thì nghe," hoặc "Lời ta nói như chiếc bè," người đọc hoặc nghe thường không đặt vấn đề vì thấy câu nói quá thường tình nên bỏ qua và cho rằng chẳng có chi đáng nói. Lý do, con người đã quá quen với suy tư hiện thực, hữu vi, thế tục, quá quen với lối phát biểu thực tiễn chẳng hạn như một cộng với một thì luôn luôn bằng hai trong giới hạn đồng tính chất, mà không để ý có những sự hòa hợp, kết hợp khác bất đồng tính chất vẫn thường xảy ra. Chẳng hạn, dẫu xung khắc nhau như nước với lửa, nhưng qua môi trường trung gian của chiếc ấm hay chiếc nồi, sự hòa hợp giữa nước với lửa được kết hợp để có nước nóng pha trà hay pha cà phê. Hay nơi chính một người, xác và hồn là hai thực thể hoàn toàn khác biệt, nhưng lại có sự hòa hợp, kết nối không dễ phân biệt chẳng khác gì một cộng một bằng một bất khả phân ly. Hơn nữa, ngôn từ phát biểu lắm khi nghịch thường, đặc biệt nơi các sách đạo học. Nơi lối nói quen dùng, chúng ta nói, "Đi khám bác sĩ" trong khi ý nghĩa ngược lại, ai cũng hiểu; hoặc "Đi sửa sắc đẹp," ai không biết câu nói mang ý nghĩa gì. Chính sự nghịch thường bình thường này đã trở thành thói quen khiến tâm tư người đọc nhiều khi, nếu không muốn nói là vô cảm với điều đang đối diện khi đọc. Thí dụ, ai không cảm thấy tức cười với câu nói thoạt đọc có vẻ ngây ngô, "Người biết không nói, kẻ nói không biết" (Lão)? Hay, "Lửa thì không nóng nhưng tại vì mình cảm thấy nó nóng" (Huệ Thi).Thói quen suy tư, tính toán, hay nhận thức hữu vi đã khiến độc giả trở nên vô cảm đối với nhận thức khi đối diện phát biểu như thành quả hay sản phẩm nghiệm xét, nghiệm chứng hay nhận thức. Tuy nhiên, đối với những tâm tư mở rộng, dám thử đặt vấn đề về mọi phương diện của bất cứ phát biểu, hay câu nói bình thường hoặc bất thường, dẫu có vẻ ngô nghê, đơn thuần nào, lắm vấn đề liên hệ sẽ được phát sinh. Chẳng hạn nơi phúc âm có câu, "Ai có tai thì nghe." Hay nơi nhà Phật phát biểu, "Lời ta nói như chiếc bè." Ai không biết hay không hiểu hai câu nói đơn sơ, tự nhiên, dễ hiểu này trình bày sự hiển nhiên, tự nhiên, bình thường nơi cuộc đời. Nhưng nếu để ý một chút, chính sự bình thường nơi nhận định hữu vi của câu nói đã trở nên màn chắn ngăn cản, nói cách khác, che lấp, kiến tạo vô cảm với nhận thức của một người. Sự thể, trạng thái tâm tư này phỏng có thể phát sinh từ trạng thái quá quen với lối suy nghĩ hữu vi nên không để ý suy tư nơi phương diện khác, phương diện tâm linh của con người, hoặc bởi câu nói quá đơn sơ, mộc mạc đã bị coi thường? Đặt vấn đề như thế và để ý về những câu nói, những phát biểu, nhiều khi ngây ngô hoặc không hợp lý, chẳng hợp tình, có thể nói là nghịch thường hay bất thường nơi sách đạo học, và nếu để ý thêm nơi phương diện nào đó của cuộc đời câu nói nhắm tới, độc giả, đặc biệt tâm tư hành giả, chắc chắn sẽ bị chìm sâu vô thế giới tư duy đầy rắc rối, một cuộc chiến tâm tư chợt bùng nổ chẳng ngờ. Tôi nói chẳng ngờ vì không thể nói lên được gì; bởi chỉ người trong cuộc mới thực sự nghiệm được điều gì, khúc mắc nào đang diễn tiến nơi tâm tư. Chẳng hạn, nơi Lâm Tế Lục có câu, "Gặp Phật, giết Phật; gặp tổ giết tổ." Hay, "Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi; vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị xô vào hỏa ngục. Và nếu tay phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng nó đi khỏi ngươi; vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị sa hỏa ngục" (Mt. 5:29-30). Hoặc, "Cứ theo Ta, và để kẻ chết chôn cất người chết của chúng" (Mt 8:22); "Kẻ vừa tra tay vừa cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa!" (Lc. 9:62); "Quả thật, Ta bảo các ngươi: giàu có khó mà vào được Nước Trời. 24 Ta lại bảo các ngươi: Lạc đà vào lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Trời"(Mt. 19:23). Trong hành trình suy tư, suy tưởng, nghiệm chứng, nghiệm xét, tất cả mọi sự xảy đến nơi tâm trí được ám định bằng sự việc hay ngôn ngữ hữu vi, chỉ người nghiệm xét biết, chỉ người suy tư thực sự đối diện. Đối diện làm sao, và cách nào để tiếp tục suy tưởng? Vì mọi sự, mọi nhận định ý tưởng đều xảy đến/ra trong tâm tư, không ai có thể tham gia, giãi bày và nếu có chia sẻ với bất cử ai cũng vô ích; bởi người nghe sẽ không thể nào cảm nghiệm được sự thể mình đang phải đối diện. Lời khuyên nơi Lâm Tế Lục khuyến cáo thẳng thừng, "Gặp Phật, giết Phật; gặp tổ, giết tổ." Bất cứ những gì xảy đến làm phiền hành trình suy tư, đều cần được loại bỏ. Nơi Tân Ước, Phaolô rõ ràng khuyên, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô" (Col. 2:8) trong hành trình nghiệm xét, "Đừng dập tắt Thần Khí! Chớ khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1Thes. 5:19-22). Thử nghiệm xét đoạn phúc âm Marcô, 17"Nhằm lúc Ngài ra đi lên đàng, thì có người chạy lại quỳ xuống bái lạy Ngài: 'Lạy Thầy tốt lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đòi làm cơ nghiệp?' 18 Nhưng Ðức Yêsu nói với người ấy: 'Sao ngươi nói Ta tốt lành? Không có ai tốt lành trừ phi có một Thiên Chúa. 19 Ngươi biết các giới răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ quịt của người, hãy thảo kính cha mẹ'. 20 Người ấy nói với Ngài: 'Thưa Thầy, mọi điều đó tôi đã giữ từ thuở bé'. 21 Ðức Yêsu nhìn người ấy đem lòng yêu mến, mà bảo rằng: 'Ngươi chỉ thiếu một điều: đi đi! có gì thì đem bán mà cho kẻ khó, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta!' 22 Người ấy sầm mặt xuống vì lời đó mà bỏ đi buồn rầu, vì nó có nhiều của. 23 Nhìn quanh Ngài, Ðức Yêsu nói với môn đồ: 'Những người có của khó vào được Nước Thiên Chúa biết bao!' 24 Môn đồ ngẩn người ra vì những lời của Ngài. Nhưng Ðức Yêsu lại lên tiếng nói: 'Này các con, khó vào được Nước Thiên Chúa biết bao! 25 Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Chúa'" (Mc. 10:17-25; Mt. 19:16-24). Mới thoạt nghe hay đọc đoạn phúc âm ai cũng nhận biết người thanh niên giầu có, có cuộc sống tốt lành, tuân giữ luật lệ, đã nản lòng mà bỏ đi chỉ vì không thể chấp nhận, "Ngươi chỉ thiếu một điều: đi đi! có gì thì đem bán mà cho kẻ khó, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta!" Và đồng thời tâm tư độc giả sẽ bị ngớ ra với câu kết luận, "Này các con, khó vào được Nước Thiên Chúa biết bao! 25 Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Chúa." Thử đặt mình nơi vị thế của người thanh niên giầu có với cuộc sống tốt lành, ngay chính giữa đời cũng như tôn giáo. Giầu có đâu phải là sự đáng bị chê trách nhưng ngược lại được quan niệm như được chúc lành do sống công chính trước mặt Thiên Chúa nơi Cựu Ước. Kinh nghiệm sống minh chứng, người sinh ra để được giầu có mới có thể trở nên giầu có. Người đã không được sinh ra để giầu có thì dẫu làm ăn lấm lưỡi, chắt bóp đến mấy cũng không thể nào vươn lên được. Thử nhìn lại cuộc đời chính mình, ai cũng nhận ra, khi tiền bạc tới, nó tới rất ngu, nhưng lúc ra đi, nó ra đi rất khôn, dù muốn giữ lại, cố níu kéo cách mấy thì cũng chỉ tốn kém thêm. Người thanh niên giầu có chẳng những đâu làm gì sai trái mà còn ước muốn chuẩn bị và thực hiện nơi cuộc sống hữu vi cho cuộc sống đời đời sau này. Nếu đã có ý định tìm hiểu, nhận thức, hay nghiệm xét phúc âm, ai cũng đều biết phúc âm, là một phần của cuốn Kinh Thánh, được viết nơi miền Trung Đông. Ngôn từ được dùng trong phúc âm mang nặng tính chất ám định chẳng khác gì nơi các sách đạo học Đông Phương. Nếu đem so sánh nơi ngôn ngữ tiếng Việt, phúc âm được viết ám định theo lối truyện kể trình bày sự khôn ngoan cần được suy tư, nghiệm xét thâm sâu dưới hình thức dùng sự vật, sự việc hữu vi ám định diễn trình nhận thức chẳng khác gì Tục Ngữ, Ca Dao; giãi bày một đàng, ý tứ một nẻo. Chẳng hạn, "Ở cho phải phải phân phân; cây đa cậy thần, thần cậy cây đa." Hoặc, "Đầu ngòi có con ba ba; kẻ gọi con trạnh, người la con rùa." Câu Ca Dao đưa lên con ba ba như một thí điểm nhưng không nói gì về con ba ba. Điểm chính lại là người gọi nó là con này, kẻ nói nó là con kia không khác gì bài phúc âm nơi Marcô khiến tâm tư người đọc hoặc nghe chợt ngỡ ngàng như gặp phải cơn lốc tư tưởng. Đối với người Việt, vì đã quá quen với Tục Ngữ, Ca Dao, chợt được nghe nhắc tới câu Ca Dao này nhận thức được ngay ẩn ý muốn nói về điều gì, sự việc chi nơi cuộc sống, chính những kẻ rao truyền đã chẳng biết mình tuyên dương gì. Nơi đoạn phúc âm, người thanh niên giầu có xin được dạy dỗ con đường dẫn tới sự sống đời đời thì lại bị cho rằng vì giầu có nên không thể nào nhận thức, vào, tham dự, được Nước Thiên Chúa, nếu hiểu theo nghĩa từ chương, mà không giải thích. Đây là điểm mấu chốt, một đặc tính cố định, cố tình, của các câu nói nơi các sách đạo học, thường chỉ buông ra kết quả nhưng lại cắt bớt hay dấu bớt một đôi điều kiện của sự thể hay sự việc, và ám định về trạng thái nào đó của tâm tư, chẳng liên hệ chi tới sự việc được nhắc tới. Thí dụ câu nói Lão học, "Người biết không nói; kẻ nói không biết;" hoặc của Huệ Thi, "Lửa thì không nóng, nhưng tại vì mình cảm thấy nó nóng." Hai câu này không nói chi đến điều cần hay nên nói, hoặc lửa, mà nói về tâm trạng, tâm tư nào đó nơi người đọc hoặc nghe. Thử hỏi, đã biết bao người dùng cả đời nghiệm xét và giải thích hai câu này để rồi ra đi như chưa từng được nghe hay đọc tới chúng? Đã bao nhiêu người giải thích câu phúc âm, "Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Chúa." viện dẫn đủ mọi lý do, chiều hướng, nào sử học, địa thế, quan niệm, luân lý, v.v...; nào nơi đền thánh Jerusalem có hàng rào bao bọc nên có nhiều cửa ra vào, trong đó có một cửa nhỏ tên lóng là "Lỗ Kim" đại khái ám định cửa quá nhỏ, những con lạc đà chở hàng hóa không thể vô được; có học giả, thày giảng, lại còn nêu lên phải tháo bỏ hết hàng hóa lạc đà mới có thể đi qua, ám chỉ giải thích lời phúc âm rằng con người phải từ bỏ của cải mới nhận thức, mới nghiệm chứng, nghiệm xét được Nước Trời, hoặc nói theo nghĩa thế tục, mới vào được nước trời theo nghĩa hữu vi, nơi chốn. Nước Thiên Chúa ở trên (Mt. 12:28; Lc. 11:20), ở giữa (Lc. 17:21), các ông thì mắc mớ gì cổng lớn, cổng nhỏ, tiền của, gia tài, giầu có, mà phải lo rỡ hàng, bỏ của cải, bán gia tài, và cho người nghèo. Đàng khác, lại còn có những lý thuyết lên án người giầu với muôn ngàn quan điểm phù phiếm, đầy ẩn ý, người nghe cảm thấy chẳng khác chi năm, mười thày bói mù rờ voi, huênh hoang với những sự thông thái thế tục, đôi khi biến phúc âm thành những giọng lừa đảo, lúc khuyên thế nọ, lúc dạy thế kia, một cách nghịch thường mà quên rằng phúc âm chẳng thèm nói chi tới những chuyện thế tục, nhân sinh. Đoạn phúc âm đâu nói đến người thanh niên tốt lành chặn hầu bóp cổ ai đâu để làm giàu. Rõ ràng, đoạn phúc âm nêu lên anh ta tốt lành. Phúc âm cũng như các sách đạo học khác, không nói chi về cuộc sống nhân sinh, thế tục, mà chỉ nói về hành trình, diễn trình nhận thức tâm linh dẫu các nhà học giả, học thiệt đạo học tuyên xưng, tuyên dương, giải thích, giải buồn, hoặc giải mã thế nào! Có điều lạ, càng những người thông thái thế tục, thiếu suy tư, nghiệm xét, càng huênh hoang với lắm lý thuyết, nhiều giải thích sao cho cả sáng vị thế thế tục trong khi những bậc thức ngộ thì miệng lại như ngậm hạt thị. Không hiểu họ sợ phạm tội ngăn cản hay ăn cướp cơ hội thức ngộ của người khác, hoặc dù có muốn nói cũng không thể nói được gì; bởi thế nhân không quen hay không muốn suy tư, nghiệm xét tâm linh dẫu rất giỏi tính toán, suy diễn sự việc thực tế cuộc sống. Cũng có thể nói, họ đã lỡ vấp phạm quá nhiều vì lòng chân thành, nóng sốt nên đã thấm nhập thâm sâu lời dạy nơi phúc âm, "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo, kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi" (Mt. 7:6). Đối với những ai không đủ khả năng hiểu biết hoặc không muốn biết, chỉ nên im lặng; nói ra, giải thích, giải mã coi chừng bị chửi vuốt mặt không kịp. Ôi, chẳng những nơi cuộc đời, mà cả chốn tâm tư, "Ai có qua cầu mới hay" (N.Du; Kiều). Nơi phúc âm Matthêu cũng như phúc âm Luca có câu, 24 "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này mà mến người kia, hoặc tha thiết với chủ này mà khinh màng chủ nọ. Các ngươi không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của được" (Mt. 6:24; Lc. 16:13) chính vì thế lại có thêm câu nói, "Vì kho tàng ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó" (Mt. 6:21; Lc. 12:34). Ghét người này, mến người kia thuộc về tâm tư do đó sinh hành động. Câu "Vì kho tàng ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó" quá ư dễ hiểu nên đã đánh lừa tâm thức, tâm tư người nghe hoặc đọc. Thử đặt vấn đề, bất cứ ai đang đọc những dòng chữ này, lòng dạ của quí vị hiện giờ, lúc này, đang ở đâu? Xin tạm thưa, cầu mong gần trúng, tâm tư, lòng dạ quí vị có lẽ đang muốn để ‎ý xem những dòng chữ tiếp theo tôi sẽ viết thế nào, có hợp lý, hợp tình, hợp với suy luận bình thường không, hay có chút ý đồ nào lừa đảo, đánh lận con đen, đối với quí vị. Như thế, câu, "Vì kho tàng ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó" không nói gì về kho tàng mà dùng kho tàng chỉ về ý muốn, ý định. Có thể rằng ý nghĩa của ngôn từ thay đổi theo thời gian và không gian, hoặc đôi khi dịch ngôn từ theo nghĩa đen trở thành diệt nhận thức, do ảnh hưởng bởi những điều kiện nào đó. Có lẽ cũng phải đành thông cảm cho nỗi khó khăn chẳng những nơi ngôn từ mà còn nơi tâm tư đồng thời phải hoặc bị chìm trong khuôn mẫu do ý đồ hoặc ý hướng "thánh thiện" nào đó. Phỏng sự thể chẳng nên này lại là điều kiện kích động tâm tư độc giả, một ý định cố hữu của tác giả những sách đạo học? Nhận định như vậy, câu, "Vì kho tàng ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó" mang rõ ràng ý nghĩa, "Vì ước muốn của ngươi ở đâu, thì lòng dạ ngươi cũng ở đó." Thế nên, câu lơ lửng, không đầu, không lời giải thích, chỉ có kết luận nặng nề, "Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Chúa" nói lên sự thể, "Lạc đà chui qua lỗ kim may vá còn dễ hơn là người ước muốn giàu có của cải trần gian, danh vọng thế tục, vào được Nước Thiên Chúa; vì ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi cũng ở đó." Nói cho đúng, dù cố gượng ép để bẻ quặt, bẻ quẹo, mượn lý nọ, lẽ kia để cho rằng "Lỗ kim" là cửa hay cổng nhỏ nơi hàng rào của thành Jerusalem hay lỗ kim dùng để may vá thì con lạc đà cũng không thể đi qua được dẫu bỏ hết hàng hóa đi hay không. Ước muốn, ý định, tham vọng phát xuất từ linh hồn. Khi một người chết, linh hồn vẫn theo đuổi ước muốn ý định đã và đang được mang khi còn sinh tiền. Thế mới biết, câu, "Ai có tai thì nghe" coi bộ ngây thơ, đơn sơ, nhưng hàm ý thâm trầm, chẳng dơn giản gì! Xét về thực thể tâm tư, những ai là người ước muốn giầu có, danh vọng, quyền hành thế tục? Xin thưa, chính những người bị sinh nơi số phận hẩm hiu, nghèo hèn vật chất, "Hai tay không tày lỗ miệng" mới thực sự khát khao, ước muốn giàu có cho đời đỡ khổ, bị cuộc đời chèn ép mới thèm khát, ước mơ quyền hành, danh vọng thế tục. Như vậy, thử hỏi, phỏng phúc âm đì giới nghèo, kém may mắn, bị sinh lầm thời? Đặt vấn đề như thế, có lẽ, câu hỏi nặng nề chợt chờ tới tâm tư, "Còn mình thì sao?" Ai nghiệm xét thì biết. "Ai có tai thì nghe."