- 2 - NGHIỆM XÉT MỌI SỰ
Hãy nghiệm xét mọi sự, điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ dưới bất cứ hình thức nào" (1 Thes. 5:19-22).
01- Đặc tính và nhận thức tổng quát tính chất của Phúc Âm.
02- Diễn trình thực nghiệm suy nghiệm những câu nói Phúc Âm.
03- Nghiệm xét là gì, phương pháp thực dụng.
04- Định tâm, áp dụng thực hành.
Điều quan trọng nhất chúng ta cần biết đó là chúng ta tin theo Chúa Giêsu, và Phúc Âm được chúng ta tôn trọng như lời của Chúa. Thực ra, các Phúc Âm Matthew, Marco, Luca, và Gioan đều được viết trong khoảng từ năm 70 tới năm 100, 110 theo dương lịch, sau khi Chúa Giê su đã về trời.
Vào năm 36 dương lịch thánh Phao lô bị đức Giê su bắt cóc trong khi ông đang rong ruổi trên đường đi Damascus để tìm bắt những người rao giảng và tin theo đức Giêsu. Sau đó, ông bắt đầu và tiếp tục rao giảng về đức Giêsu cho tới năm 68 dương lịch. Trong năm cuối 68 này, ngài bị tù tại Roma, viết 2 thư 1&2 Timôthy. Như thế, 5 thư mục vụ của thánh Phao lô được viết trước Phúc Âm. Sau nhiều thời gian tìm hiểu qua một số sách vở được viết giải thích về đạo học Đông Phương và những phương pháp giúp thức ngộ, chứng ngộ, nhận thức, hầu thỏa mãn lòng khát vọng sao cho thăng tiến nơi hành trình tâm linh, nói cách khác, làm sao nhận biết mình thực sự là gì, liên hệ thế nào với thực trạng hiện hữu hữu hình và vô hình. Tôi nhận thấy phương pháp được thánh Phao lô đề nghị nơi thư thứ nhất gửi Thesalonian, "Hãy nghiệm xét mọi sự, điều gì lành hãy giữ lấy và hãy kỵ điều dữ dưới bất cứ hình thức nào," (1 Thes. 5:19-22) là nguyên tắc thiết yếu, cần và đủ để suy nghiệm Phúc Âm. Tôi muốn nói suy nghiệm, nghiệm xét, nghiệm chứng, chứ không phải là suy niệm. Suy niệm là dựa vào để theo. Niệm là công cụ để giúp định tâm, chú tâm vào một vấn đề. Suy nghiệm, nghiệm xét, nghiệm chứng, tất nhiên cần định tâm.
Sự suy nghiệm, nghiệm chứng về Phúc Âm qua quan điểm nhận thức về một đạo học chứ không đặt Phúc Âm hạn hẹp nơi quan điểm của bất cứ tôn giáo nào. Một điều rõ ràng ai cũng có thể nhận biết nếu để tâm đôi chút và chân thành đặt vấn đề. Đó là, tôn giáo là một tổ chức nhân sinh, quy tụ những người cùng một niềm tin. Vì là tổ chức nhân sinh nên tôn giáo bao gồm nhiều phương diện nhân sinh để quảng bá, phát triển sao cho có nhiều người tin theo; đồng thời vì là tổ chức nhân sinh, muốn phát triển cần nhu cầu tiền bạc để chi dụng tùy theo điều kiện sinh sống. Tôn giáo phát xuất từ nhận thức đạo học. Phúc Âm là một trong những đạo học được phát sinh từ miền Trung Đông. Để ý một chút, chúng ta thấy, đạo học phát sinh nơi vùng, miền, nào trên thế giới thì tôn giáo sẽ có cùng tôn chỉ với đạo học đó phát sinh. Chẳng hạn, Ấn học phát sinh Ấn giáo; Phật giáo là con đẻ của Phật học; Lão học sinh ra Lão giáo.
Dĩ nhiên, mọi đạo học, chủ thuyết, kinh sách, mọi tư duy, đều do con người kiến tạo. Nói cách khác, không có con người sẽ không có gì và tất cả đều vì con người mà có. Những danh hiệu Thiên Chúa, Thượng Đế, Ông Trời, Ông Xanh, hoặc những tên gọi khác nhau chỉ là những danh hiệu. Thí dụ, nói đến danh hiệu xe hoặc người; nếu chúng ta dùng búa, kìm, hoặc những dụng cụ đặc biệt để tháo mở chiếc xe, không có bất cứ món đồ nào nơi đống đồ vừa được tháo ra đó được gọi là chiếc xe cả. Cũng như đem một xác chết mổ xẻ banh ra, tan nát hết cả thân xác, chúng ta cũng không kiếm được phần tử nào nơi những phần bầy nhầy xương thịt đó được gọi là người. Như vậy, ngôn từ xe hoặc người chỉ là danh hiệu được đặt ra để ám chỉ một sự thể, thực thể nào đó. Một điều rõ ràng, minh xác, đó là nói về thực phẩm chỉ khiến thính giả thêm đói bụng; muốn no bụng phải ăn thực phẩm. Tương tự như thế, nói về Thiên Chúa, Thương Đế, hay bất cứ ngôn từ nào chỉ để ám chỉ về một thực thể tối thượng, chúng ta chỉ có thể nói về danh hiệu chứ không thể nào nói bất cứ gì về thực thể tối thượng ấy. Nói cho đúng, chúng ta chỉ có thể nói về những gì không phải là thực thể tối thượng. Đối với thực thể tối thượng, chúng ta sẽ không thể nói gì được. Thánh Augustin có câu nói, "Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu. Chúng ta không thể nói gì về Thiên Chúa. Tất cả những gì chúng ta có thể nói về Thiên Chúa chỉ là sự tưởng tượng."
Từ Phúc Âm, phát sinh Chính Thống giáo, Công giáo, Tin Lành, Thệ Phản (Anh Giáo), Methodish... Thực ra, không thể biết được có bao nhiêu giáo phái Tin Lành; vì hệ thống Tin Lành chẳng khác gì hệ thống Phật giáo. Họ kiến tạo nhiều loại giáo phái; có những giáo phái các vị rao giảng được huấn luyện theo một hệ thống tổ chức, và cũng có những giáo phái tự phát. Ai đó, có cuộc đời dễ thở, tự cảm thấy được thôi thúc và dám liều mình rao giảng nhận thức của mình về phúc âm, được nhiều người tin theo tạo thành một giáo phái, tự đặt tên, không lệ thuộc bất cứ giáo phái nào, khi nào không còn ai tin theo thì tự tan rã.
Phúc Âm được viết nơi miền Trung Đông nhưng được phát triển từ bên Tây Phương. Sự thể này không khác gì Phật học phát sinh nơi Ấn Độ nhưng lại được phát triển bên Trung Hoa do Đạt Ma sư tổ đem qua. Nói tổng quát, ngôn ngữ nơi Á Đông thường được phát biểu theo kiểu ám định; nói đàng đông nhưng ý đàng tây chẳng khác gì tục ngữ ca dao. Trong khi Tây Phương phát triển Phúc Âm theo nghĩa từ chương, do đó, đã hơn hai ngàn năm qua Phúc Âm vẫn cứ được coi như những lời huyền nhiệm; đại khái, Phúc Âm thường được rao giảng theo nghĩa đen khiến thính giả cứ bị rối tung lên vì câu Phúc Âm này đối nghịch với câu kia hoặc mang tư tưởng hữu vi ngạo ngược khiến chúng ta đành chấp nhận kính nhi viễn chi; Chúa phán Chúa nghe, cha giảng, cha nghe đến nỗi đã có những câu, "Mỗi cha một lý đoán." Đàng khác, lại có những trường hợp cấm giáo dân không được đọc Kinh Thánh như ngày xưa; có lẽ vì sợ bí, chín người, mười ý khiến đấng rao giảng ngọng miệng không thể nào trả lời được. Hoặc đã có những quan niệm ai không tin theo giống mình thì bị kết án. Chẳng hạn kinh đọc ngày chủ nhật nơi sách thuộc địa phận Bùi Chu ngày xưa, mà nay chúng ta vẫn thường đọc, "Ai chẳng thông công cùng hội thánh ấy thì chẳng được rỗi linh hồn; mà linh hồn là tính thiêng liêng." Chúng ta theo tôn giáo được phát sinh từ Phúc Âm, thế mà chúng ta không biết gì về Phúc Âm, và làm sao áp dụng Phúc Âm nơi cuộc sống. Chúng ta không theo Phúc Âm vì không thể thực hành Phúc Âm theo nghĩa từ chương; có được giảng giải thì lại gói gọn lời Phúc Âm nơi lãnh vực luân lý. Thí dụ, quý vị nghĩ gì khi đối diện câu, "Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi. Nếu tay các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì chặt mà quăng chúng đi." Đã có lần khi suy nghiệm về câu này nơi nhà thờ vắng lặng, tôi bật cười thành tiếng; vì trộm nghĩ Chúa Giêsu chọc quê chúng ta nhát gan không dám thực hành những lời ngài dạy; vì nếu không, tất cả những tín đồ Kytô giáo đều trở thành đui mù, què cụt v.v... trong khi tôi thấy nơi những hình ảnh, các đấng giáo phụ, các hàng giáo phẩm thuộc các giáo phái của Kytô giáo đều đẹp lão, lành lặn, và lại được xưng tụng Chúa chọn. Tôi cười lớn vì đã tưởng tượng đến hình ảnh một nhà thờ đầy những người khuyết tật vì chân thành áp dụng Lời Chúa theo nghĩa đen nơi cuộc đời của họ. Riêng tôi, tôi cảm thấy mình hơi thông minh đôi chút vì đã không nghe lời phúc âm xúi dại để móc mắt, chặt tay theo nghĩa từ chương.
Nhận thấy mình cũng thông minh như bao dân Chúa từ xưa đến nay, đã không dại dột áp dụng lời Phúc Âm theo nghĩa đen nơi cuộc đời, nơi thân xác mình, tôi lại phải đối diện với câu Phúc Âm, "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo, kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi." Bị ảnh hưởng bởi những công án, những phát biểu ngổ ngáo của các bậc đạt đạo, các bậc chân sư, các bậc thức ngộ, được ghi lại nơi sách vở viết về đạo học Đông Phương, một ý nghĩ đến với tâm trí tôi. Đó là đức Giêsu đã không giữ điều Ngài đã dạy nếu chúng ta cho rằng Phúc Âm là lời Ngài nói. Ngài đã đem của thánh cho chó nên bị chó đóng đanh treo trên thập giá. Và nếu ngài thực hành lời ngài dạy thì sao chúng ta có Phúc Âm. Đến khi tôi biết được Phúc Âm là những lời khôn ngoan dạy con người về tiến trình thức ngộ tâm linh, mà chúng ta thường gọi là hành trình đức tin hay hành trình tâm linh, được sắp xếp, cộng thêm một vài diễn trình để đúc kết thành câu truyện cuộc đời Chúa Giêsu; tôi mới nhận ra Chúa Giêsu liều mạng bởi lòng tha thiết muốn nhân loại thức ngộ, nhận chân về thực thể con người mình thế nào, liên hệ với cõi giới vô hình ra sao, đồng thời nhận biết mình sẽ đi về đâu sau khi thân xác qua đi.
Mới thoạt suy nghiệm về câu, "Của thánh đừng cho chó." Tôi trộm nghĩ, Phúc Âm coi mình như loài chó. Những quý vị nào được sinh trưởng nơi Việt Nam, và lúc này đã đang thuộc vào mùa thu của cuộc đời sẽ thấy, bất cứ ai cho rằng hay nói mình là chó, tâm trạng mình sẽ bực bội, giận dữ như thế nào; nếu không muốn nói rằng kẻ đó sẽ trở thành kẻ thù truyền kiếp của mình, và nếu có bất cứ cơ hội nào, chúng ta sẽ sẵn sàng và nhanh nhẩu trả thù, chẳng những một lần mà muôn ngàn lần; và dĩ nhiên, sống để dạ, chết mang theo. Thời đó, tôi đã thực sự nhận ra các kinh sách đạo học, các công án, các lời nói ngổ ngáo của những bậc thức ngộ nói thẳng với mình, mà Phúc Âm coi mình như chó thì không bực điên lên sao có thể là người. ít nhất, phải biết tôn trọng tín đồ, tôn trọng tôi một chút chứ; đàng này coi tôi như loài chó thì tôi cần gì phải nghiệm, phải chứng cho mất thời giờ, tốn công sức suy nghĩ. Tuy nhiên, thực lòng mà nói không sợ quý vị phê phán; đó là nếu ai đọc câu này mà không cảm nhận được sự bực bội vì Phúc Âm coi mình như loài chó thì làm ơn đặt lại vấn đề; nếu không, sẽ chẳng bao giờ ngộ được. Một điều tôi cần lưu ý quý vị, theo đạo, cũng chỉ giống như con kiến bò quanh miệng ly. Nếu không nghiệm chứng Phúc Âm, rồi sẽ ra đi như đã bao người từ xưa tới giờ theo đức Kitô mà không biết Tin Mừng ngài rao giảng là gì; không biết mình sẽ đi về đâu; và suốt đời chỉ lo sợ nên cầu mong lên thiên đàng dẫu đã chẳng biết thiên đàng là gì. Không nghiệm chứng Phúc Âm, chúng ta theo tôn giáo sợ hãi, lo âu viễn vông. Khổ ơi là khổ; chúng ta tin thật Thiên Chúa yêu thương mình vô bờ bến mà cứ sợ bị phạt vì những lỗi lầm một cách vô minh thì là thế nào? Lòng ruột mình luôn luôn mang nặng lo sợ nghịch với niềm tin thì còn gì khốn khổ hơn nơi cuộc đời. Thực ra, cảm thấy cô đơn giữa muôn người đã khốn khổ không thể nào diễn tả; đàng này thực tâm tin tưởng lòng yêu thương của Chúa đối với mình, với mọi người, mà cứ lo ngay ngáy bị Chúa phạt thì còn gì khổ ải hơn không!
Tin thật Chúa yêu thương tôi nhưng Phúc Âm coi tôi như loài chó thì chẳng lẽ Phúc Âm viết bậy? Quý vị đang nghe đừng vội kết án những lời chân thực được nói lên từ ý nghĩ khi đối diện với tâm tình bị Phúc Âm phỉ báng mà tôi diễn tả thành lời. Như chúng ta nhận biết; tư tưởng, ý nghĩ trong đầu mình, tự nó không đúng, không sai, nó hiện hữu. Thực ra, nếu không nhận biết tâm tình thực sự của mình thế nào, sẽ không thể suy nghiệm Phúc Âm, không thể suy nghiệm đạo học. Thời gian trôi, tôi không nhớ được phải là mấy năm nhưng chắc chắn không quá sáu năm, ba câu, "Của thánh đừng cho chó, chớ quăng châu ngọc trước miệng heo," và câu, "Hãy làm cho người khác những gì các ngươi muốn người khác làm cho các ngươi," cùng với câu, "Người biết không nói, kẻ nói không biết" cứ luẩn quẩn trong tâm trí tôi. Riêng câu, "Người biết không nói" đã hành hạ tôi cỡ gần mười năm vẫn chưa chịu buông tha.
Một hôm, tôi đến nhà người em, thấy nơi tường bên cạnh cửa ra vào có dán miếng giấy nhỏ ghi câu nói, "Đừng nói vào tai kẻ ngu xuẩn, kẻo nó khinh thị nét tinh tế của lời con nói" (CN. 23:9). Tôi thấy câu này quá hay, quá đúng. Hỏi ra mới biết, người em tôi vì lòng chân thành nói về chuyện gì đó không hợp tai thiên hạ nên bị phê bình, do đó in câu Cách Ngôn này dán ngay nơi cửa ra vào để tự nhắc nhở không nên vì lòng ngay để rồi bị khốn. Khi về lại đến nhà, tôi mở sách Cách Ngôn (Proverbs) kiếm thêm được hai câu, "Đừng đàm luận với kẻ ngu xuẩn, kẻo cả con nữa, con cũng sẽ trở nên giống nó," và câu, "Như con chó trở lại đống nó vừa mửa, kẻ ngu dại sẽ trở về với sự điên rồ của nó." Tôi thấy mấy câu nơi sách Cách Ngôn rất thực tế và rõ ràng trúng chóc với thực tại nhân sinh, nhưng lòng ruột vẫn cứ bị khúc mắc với câu Phúc Âm "Của thánh cho chó..."
Thế rồi một hôm, cỡ ba giờ chiều, tôi ghé vô quán phở của một cặp vợ chồng trẻ xấp xỉ ba mươi mấy; tôi quen biết cặp vợ chồng này đã lâu và ăn uống không phải trả tiền. Vô tình gặp lúc vắng khách, hai vợ chồng đang dùng lý luận phân giải quan niệm đối với sự ăn mặc của đứa con gái 14 tuổi. Vì quen biết đã lâu và thường hay ghé qua uống cà phê; thế là tôi bị trở thành quan tòa phân xử quan niệm giáo dục con cái của đôi bên. Chị vợ cho rằng nó là con gái mới lớn phải ăn mặc đàng hoàng, khiêm nhu. Vào thời này, giới trẻ đang đua đòi theo mốt "Punk." Anh chồng có quan niệm cởi mở hơn, cho rằng cháu đã lớn, kiểu cách ăn mặc, tóc tai xanh đỏ cho hợp với bạn bè, nếu không sẽ bị coi là lập dị, cô đơn nơi trường lớp. Nói qua, nói lại, bất chợt tôi hỏi chị, - Chị có thương anh ấy không? Chị trả lời, - Không thương mà có với nhau mấy đứa con à. Đoạn tôi lại ngớ ngẩn hỏi, - Chị thương anh ấy thế nào, đến độ nào? Và được trả lời, - Hỏi gì ngớ ngẩn; thương thì chỉ biết là thương chứ sao mà có thể nói. Tôi nhớ rõ, năm ấy là năm 1994. Tôi chợt nhận ra ý nghĩa câu nói "Người biết không nói, kẻ nói không biết." Câu nói nơi Lão học khúc mắc tôi mười một năm. Câu nói về chuyện xảy ra nơi chính bản thân mình chứ không phải nói về người khác. Nhờ nhận thực được những câu nói đôi khi như ngớ ngẩn, rất đơn giản, xảy ra nơi chính mình nhưng không được để ý mà tôi nhận ra khi phải đối diện với những câu ngớ ngẩn hoặc quá quắt nơi đạo học, muốn nghiệm chứng, nghiệm giải chúng, cần tự đặt mình vào những vị thế của câu nói và để ý tâm tình mình phản ứng, biến chuyển ra sao thì mới có thể nghiệm được sự khôn ngoan ẩn chứa nơi câu nói đó.
Áp dụng phương pháp đó vào câu Phúc Âm, "Của thánh đừng cho chó, chớ quăng châu ngọc trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi," tôi mới nhận ra nét thâm trầm tuyệt vời của câu nói. Đem so sánh với ba câu nơi sách Cách Ngôn, câu Phúc Âm thật tuyệt vời. Mới nghe hoặc đọc thì bực điên người, nhưng nếu đặt mình vào những vai trò nào đó nơi câu nói, gom lại cả ba câu nơi sách Cách Ngôn không thể so sánh. Tôi phải nín nhịn, không dám giải thích vì nếu giải thích tôi sẽ bị mang tội cướp cơ hội nghiệm chứng để thức ngộ của bất cứ ai. Đành chấp nhận xin lỗi mà học theo tổ Huy Sơn của nhà Phật.
Câu truyện được cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần ghi lại trong cuốn Phật Học Tinh Hoa được trích từ Truyền Đăng Lục như sau, "Xưa Hương Nham hòa thượng tham học ở Bách Trượng thiền sư. Ông là bậc tuyệt thế thông minh, khôn ngoan lanh lợi, phàm hỏi một, trả lời đến mười. Thế mà khi tổ Huy Sơn hỏi, 'Lúc cha mẹ chưa sinh ra ta, vậy thử nói một câu xem sao!' thì tâm thần mờ mệt, chả còn biết trả lời ra sao được cả. Ông ta bèn trở về liêu, đem những sách vở bình nhật đã học mà đọc lại từ đầu chí cuối, mong tìm cho được câu trả lời, nhưng rốt cuộc cũng chẳng tìm thấy. Chán nản, liền than: 'Toàn bánh vẽ, chẳng thể nào án vô!' Nhiều lần ông khất cầu Tổ Huy Son nói ra cho biết thì tổ Huy Sơn trả lời, 'Nếu ta nói ra cho ngươi biết, nhất định sau nầy ngươi sẽ mắng ta vì đó chỉ là cái biết của ta, không ăn thua gì đến ngươi cả!' Hương Nham tức mình, đem tất cả kinh luận ra mà đốt hết rồi qua đất Nam Dương học nơi Tuệ Trung quốc sư. Ông khổ công nghiên cứu lâu ngày chầy tháng. Một hôm đi phát cỏ chặt cây, vô ý liệng một miếng mảnh sành đánh trúng vào thân cây trúc, liền nghe phát ra một tiếng ngân lạ lùng, bỗng liền khoát nhiên tỉnh ngộ! Ông vội vàng trở về tắm gội, đốt hương ngưỡng vọng về nơi tổ Huy Sơn mà rằng: 'Hòa thượng thật là bậc Đại Từ, ân ngài còn hơn cha mẹ sinh thành. Nếu lúc trước vì ta mà ngài nói ra thì ngày nay sao ta được sự đắc ngộ này!" (PHTH. Tr. 80-81).
Khi nghiệm xét bất cứ sự việc gì chúng ta cần tìm hiểu, thử đàng nọ, thử đàng kia, ngoại trừ những công việc chuyên môn đã thực nghiệm không biết bao lần nên khi gặp sự việc xảy ra chúng ta biết ngay lý do. Tôi gặp hai trường hợp nhớ đời. Chiếc xe của tôi không nổ máy; tôi nghĩ rằng nó hư cục đề và nhờ người thợ máy quen thay cục đề. Thay cục đề xong mới biết rằng bình điện không giữ điện. Ruột đau con xót nhưng biết nói chi đây. Một chuyện khác, nơi nhà người quen thường nấu cơm cho tôi ăn ké, hệ thống nước nơi bồn rửa chén chẳng hiểu sao bị rò. Thử tới, thử lui, tôi thấy nước chảy dọc theo dây nước dùng để rửa những vật dụng lớn chẳng hạn nồi, xoong nấu phở quá khổ. Thứ này rất ít khi được dùng, tôi nghĩ (mù mờ tưởng tượng chiếc dây nước bị lủng do vết rạn vì quá lâu ngày). Tôi bèn khóa nước, cắt phăng phần móp méo của dây nước, cho rằng chính lốt méo mó đó bị rạn nên nước bị rò, đoạn gấp đôi phần ống còn lại lấy "claim" xiết chặt. Và nó cứ tiếp tục rò. Tôi im lặng không dám nói năng chi về hành động phỏng đoán ngu muội của mình.
Có một người quen đi ngang đường, thấy xe của tôi đậu đó nên ghé vô định nói đôi chuyện. Ông ta có nhiều nhà thuộc loại bình dân cho thuê nên hay phải sửa những rò rỉ bất thường nơi bồn rửa chén hoặc nơi phòng tắm. Đã quá quen nghề, ông ta đòi dùng mấy khăn tắm lót trên nền nhà và nơi hộc tủ phía dưới bồn rửa chén đoạn nằm ngửa nhìn xem nơi nào nước bị rò. Lòng tôi thậm phục ông ta vì ông ta tương đối giầu có mà không quản ngại chui rúc dưới bồn rửa chén để tìm hiểu sự thể như thế nào. Và cuối cùng ông ta phán, thay bộ mới bởi nó lâu ngày, các "roong" cao su mòn nên rò. Nếu bộ mới cùng hàng hiệu với bộ rò rỉ này thì cỡ gần hai trăm. Nếu hôm nào đó đi theo ông tới tiệm bán đồ thặng dư thì giá chỉ cỡ vài chục nhưng phải lái xe hơn tiếng đồng hồ. Bà chủ nhà đã lớn tuổi, tiền hưu dưỡng chẳng được bao nhiêu nên có vẻ ngại ngùng do đó bày tỏ ý định dùng chậu nhỏ hấng nước đỡ vì chỉ khi mở nước mới rò. Cỡ tuần lễ sau khi tôi tới ăn trưa, bà chủ nhà chỉ cho tôi nước chảy phun lên theo vòi nước, tôi thử xoáy phần nối cho chặt lại và thế là mọi sự trở nên như mới ngoại trừ ống nước tôi đã lỡ cắt. Tôi học được bài học không nên tin vào bất cứ gì khi nghiệm xét cho dù chính mắt mình trông thấy.
Áp dụng nơi nghiệm xét tâm linh theo lời dạy của thánh Phao lô, "Nghiệm xét mọi sự," khi đặt vấn đề về bất cứ câu nói nào, cũng không nên bị lệ thuộc bất cứ quan niệm, thói quen hay kinh nghiệm, học thức, hay lời giảng dạy, khôn ngoan nào. Nên áp dụng sự tò mò của đứa con nít tìm hiểu, phá tung cả đồ chơi điện tử để xem xét. Đó là hành động nghiệm xét với tâm hồn mở rộng chưa bị ảnh hưởng bởi bất cứ quan niệm, thói quen, hay chiều hướng tâm tư nào.
Nơi hành trình thăng tiến tâm linh, chúng ta phải đối diện với những câu nói ngang ngược khiến đầu óc rơi vào trạng thái rối mù tạm gọi là khoảnh tối hay góc tối tâm trí. Suy nghĩ cách nào, kiểu nào, cho dù ngay nơi những phương diện tâm sinh lý, xã hội hoặc bất cứ lý thuyết khôn ngoan nào cũng bị bế tắc. Thí dụ, nơi cuốn Nam Hoa Kinh, phần Huệ Thi, có câu nói, "Lửa thì không nóng, nhưng tại mình cảm thấy nó nóng." Phúc Âm còn nói bạo hơn, "Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi." Thử hỏi ai dám thực nghiệm hay thực chứng sự thể này! Bỏ lời Phúc Âm thì được nhưng móc mắt sẽ không ai thực hiện. Nghe chuyện kể, có chú tu sinh kia đang học lớp trung học. Thời xưa, các chú học xong thành chung (lớp chín) là vô hai năm triết cộng thêm bốn năm thần học, và nếu được bề trên chọn sẽ đỗ cụ. Dĩ nhiên, quan niệm tu trì ngày xưa là huấn luyện con người theo và trở thành những khuôn mẫu nhất định nào đó, và điểm quan trọng nhất là nhân đức trong sạch. Đồng thời mọi sự cám dỗ cứ đổ thừa cho quỷ dẫu chẳng biết "quỷ gì!" Nơi tuổi cơ thể đang thời phát triển mạnh nhất của con người ở giới vị thành niên, tạm gọi là tên quỷ nào đó, cứ ngày đêm kích thích trong khi sự giáo dục đã không nhận biết sự thể phát triển tâm sinh lý con người mà chỉ nhấn mạnh cũng như khuyến khích đàn áp thay vì nhận biết để đưa ra phương cách giải quyết. Vì bị quấy nhiễu quá bạo về tâm sinh lý trong thời kỳ thân xác phương cương phát triển, chú tu sinh đã đi đến quyết định cắt phăng cái phương tiện thằng quỷ kích thích nơi chú ta. Tôi không để ý đến kết cục đã xảy ra thế nào. Tuy nhiên, câu chuyện này đã vô tình giúp tôi ngộ được câu nói được cụ Nguyễn Duy Cần ghi lại nơi cuốn Cái Cười Của Thánh Nhân, "Cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương." Khi thoạt mới đọc công án này, tôi thực sự cảm thấy chấn động. Tác giả là một người Tây Phương đã phát ngôn quá bạo. Sau đôi phút lấy lại bình tĩnh tôi tự đặt mình vào câu nói, mới nhận thấy tác giả đâu nói gì về Thượng Đế hay quỷ vương, mà nói về chính tôi. Nếu vị nào đã tự ngộ được câu nói này có lẽ chẳng nên phí thời giờ đọc chia sẻ của tôi về Phúc Âm. Lý do, vị ấy đã ngộ được Phúc Âm muốn nói gì và Tin Mừng Nước Trời là gì; vì những gì tôi chia sẻ chỉ là phương tiện hay cơ hội khuyến khích thính giả thức ngộ Phúc Âm mà thôi, và điểm tới chính là ngộ được Tin Mừng Nước Trời; từ đó sẽ nhận ra đức tin là gì nơi con người, nơi cuộc đời mình.