← Quay lại trang sách

- 7 - YÊU THƯƠNG

Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta. 38 Kẻ không vác lấy khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với Ta. 39 Kẻ cố tìm sự sống mình, thì sẽ mất; còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta, thì sẽ gặp lại" (Mt.10:37-39; Gioan 12:25).

Còn Ta, Ta bảo ngươi: hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; 45 ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Ðấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác. Vì nếu các ngươi mến yêu những kẻ yêu mến các ngươi, thì các ngươi có công gì? Há những người thu thuế cũng không làm thế sao? (Mt. 5:44-46).

Cũng chỉ trong phúc âm Matthêu, đã nêu lên hai trường hợp đối nghịch không thể hòa giải, không hợp lý, hợp tình; sao một người theo đức Giêsu có thể thực hành trong cuộc sống. Một đàng phúc âm đòi hỏi con người phải nên yêu thương kẻ thù địch, đàng khác lại khuyên nếu yêu thương những người thân thiết nhất với mình thì không đáng để theo đức Giêsu. Phúc âm muốn con người trở nên lật lọng hay sao? Không lật lọng thì đóng kịch tùy thời tùy nơi? Nghiệm làm sao, xét thế nào để áp dụng lời phúc âm trong cuộc đời? Hiểu cách nào, lý luận cách chi để có thể chấp nhận một cách hài hòa, hợp tình hợp lý để kẻ theo đức Giêsu có được sự an bình ít nhất nơi tâm tưởng tránh cảnh lương tâm cắn rứt trong niềm tin vào phúc âm?

Đã có giải thích cho rằng Chúa Giê su muốn những người theo Ngài, yêu mến Ngài hơn yêu mến cha mẹ, anh em ruột thịt trong gia đình (Kinh Thánh Tân Ước; Phần chú giải; Tr. 184; Saigon; 1994). Thử hỏi, cha mẹ, anh em ruột thịt trong gia đình là những người thân thiết thân cận nhất trong cuộc đời một người mà phải dứt bỏ thì sao có thể yêu mến Chúa là đấng vô hình không thể đối diện hoặc rờ tới được. Như thế, bình thường nhận định, những kẻ dùng danh hiệu theo Chúa, theo đức Kitô để trốn tránh bổn phận với gia đình, với người thân, gia quyến thì lòng ruột họ như thế nào, có chút liêm sỉ nào không. Chủ trương theo Chúa, theo lý tưởng cao vời, cứu giúp các linh hồn trong khi không biết linh hồn của mình là thế nào, liên hệ và ảnh hưởng với thân xác, cuộc đời mình ra sao thì tuyên bố, tuyên xưng hy sinh cuộc đời mình, dứt bỏ mọi trọng trách, nhiệm vụ, nơi gia đình, gia tộc để cứu các linh hồn thì chỉ có thể đánh lừa được một số người ngu ngơ, cuồng tín chứ không đánh lừa được bàn dân thiên hạ.

Phúc âm muốn nói gì khi phát biểu, "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta?" Yêu mang nghĩa chi nơi phúc âm? Cha mẹ mang vị thế nào nơi cuộc đời một người? Con trai, con gái đóng vai trò nào nơi tâm tình các bậc làm cha, làm mẹ hoặc liên hệ ra sao đối với một người? Nơi hành trình đức tin, hành trình thực nghiệm nhận thức liên hệ tâm linh với đức Giêsu sao lại được so sánh với liên hệ nhân sinh, liên hệ trần tục thế gian nơi gia đình, thân thuộc? Phúc âm nhắc đến liên hệ thế tục này nơi phương diện nào khi so sánh xứng đáng hoặc không xứng nơi hành trình nhận thức tâm linh? Phỏng ai là người có thể có cuộc sống liên hệ với đức Giêsu như liên hệ với thân thuộc máu mủ gia đình? Và nếu đã không thể có liên hệ nơi phương diện tâm linh, liên hệ đức tin đồng đẳng với liên hệ nhân sinh, phúc âm nêu lên sự so sánh nơi phương diện nào?

Đặt vấn đề như vậy, điều rõ ràng đó là phúc âm dùng sự thể, sự việc nhân sinh thế tục để ám định về sự việc tâm linh; vì nơi hành trình tâm linh, hành trình đức tin chỉ được giới hạn trong suy tưởng, nghiệm xét, nghiệm chứng, đặt vấn đề về thực trạng tâm hồn chứng thực sự liên hệ của mình với niềm tin thường được hiểu nhầm là đức tin. Nếu đã thực sự nghiệm xét được Tin Mừng Nước Trời là gì, một người sẽ nhận biết đức tin chính là thực thể quyền lực của Thiên Chúa, quyền lực sự sống, quyền lực sự hiện hữu bẩm sinh nơi mình. Niềm tin, ước vọng, ước mơ, hy vọng, chỉ là diều một người mong muốn đạt tới hay được ban cho. Thế nên, hành trình đức tin là diễn trình nhận thức sự thể thực trạng của một tâm hồn, không phải diễn trình đạt tới hoặc được ban cho điều mình mong muốn. Nói cách khác, một người được sinh ra, có cuộc đời, tất nhiên được bẩm sinh với sự sống, với sự hiện hữu, và vì ngoài Thiên Chúa sẽ không có gì hiện hữu. Như thế, Thiên Chúa chính là sự sống, sự hiện hữu nơi một người. Chúng ta thường hiểu nhầm câu, "Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài" (Sáng Thế 1:27). Vì Thiên Chúa là sự sống, sự hiện hữu, nên câu này cần được hiểu, "Thiên Chúa hiện thể thành con người theo hình ảnh của Ngài." Như vậy mới có thể nghiệm được câu "Tất cả là một." Mọi sự, mọi vật đều là hiện thể của Thiên Chúa dưới những dạng thức khác nhau. Con người là hiện thể của Thiên Chúa dưới hay qua dạng thức nhân sinh. Mọi sự, mọi vật đều mang sự hiện hữu; không có sự hiện hữu, sao có thể nhận biết. Tư tưởng, ‎ý nghĩ dẫu không được nhận thấy bằng mắt nhưng có sự nhận biết đều mang sự hiện hữu.

Nơi hành trình tâm linh, sự nhận biết, nhận thức chỉ trong giới hạn suy tư, suy tưởng, suy nghiệm, nghiệm xét, nghiệm chứng, tâm tình, ước muốn, ước mơ, hy vọng, mơ tưởng, tham vọng, v.v... Thử hỏi, nơi cuộc sống nhân sinh, dẫu tình thân thiết đối với một người như cha mẹ, con cái vẫn có những xung khắc hoặc bất đồng nhiều khi xảy ra. Những sự xung khắc, bất đồng này bắt nguồn từ đâu? Xin thưa, chính nơi quan niệm, ước muốn, ước mơ, ý định, tham vọng; nói cách khác chính nơi tâm tư của một người. Sự xung khắc này có khi giết chết tình thân nơi gia đình giữa cha mẹ với con cái, hoặc vợ chồng như sự việc thường xảy ra vào thời đại này. Sự thể này không cần phải minh chứng vì ai cũng có thể nhận biết hoặc thực chứng trong cuộc đời dẫu sự việc phát sinh do bất cứ lý do nào. Tất nhiên, những lý do đều phát sinh nơi tâm tưởng con người trong cuộc.

Phúc âm nói về diễn trình nhận thức tâm linh nên dùng sự thân thiết gia đình, cha mẹ, con cái để ám chỉ về những nhận biết, kinh nghiệm, học thức, nơi tâm tư của người nghiệm xét. Nơi diễn trình nghiệm xét, một người đối diện với sự thể được nghiệm xét với một tâm hồn tự do tuyệt đối, không lệ thuộc bất cứ gì dù giáo điều, truyền thống, sự khôn ngoan tự nhận biết hay được dạy dỗ, hoặc kinh nghiệm, do thực chứng hoặc đọc nơi sách vở như Phaolô đã giãi bày, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô" (Col. 2:8). "Theo đức Kitô," ngôn từ nghe thật đơn giản, mộc mạc nhưng bao gồm những lời dạy nơi phúc âm không đơn giản chút nào mà ngược lại cần được, "Đừng dập tắt Thần Khí! Chớ khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1Thes. 5:19-22). Chẳng hạn, "Ðừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình; và kẻ thù của người ta là những người nhà mình" (Mt. 10:34-36. Hoặc, "Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi: vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị xô vào hỏa ngục" (Mt. 5:29). Lời phúc âm thoạt mới đọc hoặc nghe, tưởng nói về cuộc sống hữu vi, nhưng không, lời phúc âm chỉ nói về thực trạng tâm tưởng và những gì xảy đến nơi tâm tưởng nơi diễn trình nghiệm xét. Thế nên, đâu phải vô lý mà bẩy lần phúc âm nhắc đi nhắc lại đến độ nhàm tai người nghe hoặc đọc, "Ai có tai thì nghe" (Mt. 11:15; 13:9, 43; Mc. 4:9, 23; 7:16; Lc. 14:35). Ai là người không có tai? Cái tai có thể nghe tự nó được không? Khi nghiệm xét, đối diện với sự thể, thực thể được nhắm tới, bất cứ những gì xảy đến nơi tâm tư, hãy để nó tự nhiên đến và tự nhiên ra đi. Tâm tư, tâm trạng người nghiệm xét không tranh đấu, không xua đuổi, hay lệ thuộc bất cứ gì, chỉ đối diện sự thể, thực thể mình nhắm tới.

"Kẻ cố tìm sự sống mình, thì sẽ mất; còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta, thì sẽ gặp lại" (Mt.10:39). Câu này nơi phúc âm Gioan được ghi, "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời!" (Gioan 12:25). Đọc phúc âm, chúng ta thấy, ngôn từ được trình bày nơi phúc âm Gioan là kết quả của nghiệm xét trong khi Phúc Âm Nhất Lãm (Ba phúc âm Matthêu, Marcô, và Luca) dùng sự việc, sự thể nhân sinh để trình bày diễn trình nghiệm xét. Phúc Âm Nhất Lãm đưa ra một sự kiện thế tục, hữu vi, nhân sinh dẫu ý nghĩa vẫn ám định nhưng câu kết, câu tóm tắt mang ý nghĩa vượt hẳn lên và được đặt vào phương diện tâm linh. Chẳng hạn nơi đoạn 10 của Matthêu được giáo đầu, "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta. 38 Kẻ không vác lấy khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với Ta," rồi mới kết luận, " Kẻ cố tìm sự sống mình, thì sẽ mất; còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta, thì sẽ gặp lại;" trong khi phúc âm Gioan không giáo đầu chi hết, chỉ đương đường nói lên, "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời!" (Gioan 12:25). Hay, nơi Gioan được viết, "Ta để lại bình an cho các ngươi; Ta ban bình an của Ta cho các ngươi; không phải thế gian ban cho thế nào, thì Ta cũng ban cho như vậy đâu! Lòng các ngươi chớ xao xuyến, chớ nhát đảm" (14:27). Trong khi phúc âm Matthêu được giáo đầu, "Ðừng sợ những kẻ giết được xác, nhưng không thể giết được hồn; hãy sợ Ðấng có thể diệt được cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục. Hai con chim sẻ há không bán một đồng tiền sao? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha các ngươi! 30 Cả những sợi tóc trên đầu các ngươi cũng đã cộng sổ rồi! Vậy đừng sợ! Các ngươi quí giá hơn nhiều con chim sẻ! Vậy phàm ai xưng Ta ra trước mặt người đời, thì Ta cũng xưng kẻ ấy ra trước mặt Cha Ta, Ðấng ngự trên trời. 33 Còn ai chối Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ chối kẻ ấy trước mặt Cha Ta, Ðấng ngự trên trời. Ðừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình, mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình; và kẻ thù của người ta là những người nhà mình" (Mt. 10:28-36). Phúc âm Gioan chỉ nói lên kết quả của diễn trình nghiệm xét, ai nghiệm xét sẽ gặp kết quả đó. Phúc Âm Nhất Lãm trình bày về diễn trình nghiệm xét để dẫn người nghiệm xét biết cần nên thế nào nơi tâm tư khi những sự việc xảy ra nơi tâm tư lúc suy tưởng, nghiệm xét; nếu tách rời Phúc Âm Nhất Lãm thành những câu nói riêng biệt và sắp xếp những câu nói tương đồng lại với nhau theo từng nhóm.

Nơi phúc âm Gioan được viết, "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời!" (Gioan 12:25). Ngôn động từ "Yêu" chỉ về phần tâm tư, ‎ý nghĩ, ý muốn thay vì hành động hữu vi; trong khi nơi phúc âm Matthêu lại bày tỏ, "Kẻ cố tìm sự sống mình, thì sẽ mất; còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta, thì sẽ gặp lại" (Mt. 10:39). Cũng chỉ nơi bản dịch do Lm. Nguyễn Thế Thuấn, ngôn từ được dùng chỉ rõ phần nào đặc tính cách biệt của hai phúc âm Matthêu và Gioan. "Ai yêu mạng sống mình" nói lên coi mạng sống mình là hơn. "Kẻ cố tìm sự sống mình" mang nghĩa cho rằng con người chỉ có cuộc sống nhân sinh mà thôi nên cố tìm, cố bảo vệ cuộc đời hữu vi. Thực ra, ai cũng nghĩ rằng, cho rằng, hay tin tưởng rằng, hoặc có niềm tin vì được dạy dỗ; hay nghe người ta nói rằng mình có linh hồn, nhưng thử hỏi, đã bao giờ, hay được mấy lần mình đặt vấn đề để suy tư, tìm hiểu linh hồn mình là gì, thế nào, liên hệ với thân xác, với những thực tại tâm linh ra sao? Tin rằng hay cho rằng mình có linh hồn nhưng không biết mình có hay chăng; điều này nói lên mình thế nào; phỏng có phải mình chẳng tin gì hết, chỉ nói theo người khác cho qua. Và như thế, đem so sánh với niềm tin, sự tin tưởng vào Thiên Chúa, vào đức Kitô mà không bao giờ đặt vấn đề tìm hiểu, nhận thức về điều mình tin tưởng thì sự thể nói rằng tin hay có đức tin nghĩa là gì đối với cuộc đời mình. Phỏng có khác chi đặt niềm tin vào thần sấm sét, thần cây, thần gỗ giống như những điểm tựa tâm tư cho tạm yên lòng khi phải đối diện với cuộc đời nhân sinh đầy bất trắc này không? Nhận thức thực thể "Tin" như vậy, hai lối phát biểu, "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất" và "Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất" có lẽ sẽ không thấy gì khác biệt. Ôi, niềm tin, đức tin, sự tin tưởng, ước vọng, ước mơ nơi con người đã bị đánh đồng do không suy nghiệm, suy tưởng, nghiệm xét, nghiệm chứng, mà ra. Có thể nói thế nào, giải thích ra sao đối với người không nghiệm xét, suy tư? Dùng phương pháp nào để giãi bày, để mình ăn họ có thể no bụng. Chẳng lạ gì phúc âm phải than lên một cách bất nhã, "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo: kẻo chúng lấy chân đạp mất và quay lại chúng cắn xé các ngươi" (Mt. 7:6).

"Còn Ta, Ta bảo ngươi: hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Ðấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác" (Mt. 5:44-45).

Yêu cha mẹ, anh em, con cái trong gia đình thân thuộc thì không đáng theo đức Giêsu, nếu hiểu theo nghĩa từ chương; nay phúc âm lại khuyến khích yêu thương kẻ thù của mình, khẩn cầu cho những kẻ bắt bớ, hành hạ mình, thì lại được coi như con cái Chúa. Đối diện với hai quan điểm trên theo nghĩa đen, chúng ta mới nhận chân ra được phúc âm không nói gì về sự vật và sự việc thế tục, nhân sinh, nhưng chỉ dùng chúng như phương tiện, cơ hội, ngõ hầu giúp người nghiệm xét nhận thức hiện trạng tâm hồn mình đang diễn biến, trãi qua, và cần và nên có phản ứng như thế nào.

Con người được sinh ra, muốn yêu và muốn được yêu là lẽ tự nhiên chẳng khác chi đàn ông thích đàn bà và ngược lại. Tất nhiên, trong cuộc sống, mọi người phải tiếp tục sinh tồn, cần làm lụng và kiến tạo cuộc sống mỗi ngày một tốt hơn, dễ thở hơn, và nếu nói cho đúng hơn là chung tay với người khác cùng nhau xây dựng cho cuộc đời của mình cũng như người khác thăng tiến hơn chẳng những nơi phương diện vật chất hữu vi mà còn thăng tiến nơi lãnh vực tâm linh. Xã hội, tôn giáo, đoàn thể. ngay cả phong trào, được kiến tạo do liên hệ nhân sinh, và tất cả những phát minh, sáng kiến, quan niệm đều phát xuất từ con người, tự nơi suy tư, trầm tưởng, hay ước mơ, tưởng tượng vì lợi ích cá nhân hoặc ảnh hưởng tới cuộc sống người khác.

Chuyện thường tình thì "Chín người, mười ý," nơi liên hệ cuộc sống. Đàng khác, một chương trình phát triển lúc này, nơi đây đã chắc gì đem lại lợi ích cho người khác trong khi phong tục tập quán cũng như quan niệm, nhận định không gì liên hệ, đôi khi đối nghịch với hoàn cảnh phát triển nơi đây, lúc này. Lẽ đương nhiên, bất đồng ý kiến phát sinh đồng thời kiến tạo đối nghịch gây dựng kẻ thù. Dẫu biết rằng, "Giết người đi thì ta ở với ai" nhưng thực trạng tâm tư khó bề chấp nhận khi đối diện hay gặp gỡ hoặc nghe nói về những gì được gọi "kẻ thù" lên tiếng liên hệ tới mình. Nơi cuộc đời, ai không có một số người được mình yêu thích và đồng thời cũng có những người dù chỉ mới gặp, mình đã cảm thấy không nên gần gũi hoặc quen biết. Phúc âm khuyên điều không tưởng nếu hiểu theo nghĩa từ chương bình thường, "Hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi." Nói qua phương diện niềm tin và theo nghĩa từ chương, Chúa có yêu mến kẻ thù của Ngài không? Đặt vấn đề như vậy, quan niệm kẻ thù mang ý nghĩa gì nơi cuộc sống thế nhân và nơi phương diện tâm linh. Câu trả lời được gói gọn trong câu phúc âm, "Ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Ðấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác" (Mt. 5:45). Câu này chứng tỏ Chúa không có kẻ thù nơi thế giới nhân sinh; Ngài coi ai cũng là con cái và đối xử với họ như nhau, lành dữ, thiện ác nơi thế giới nhân sinh không có gì đáng nói và nơi thực thể sự việc được phát sinh do cách đối xử được gọi là tự nhiên nơi cuộc đời. Đúng, sai, phải, trái, chỉ hiện hữu nơi quan niệm nhận thức nhân sinh. Đúng với người này, đôi khi làm hại hay đụng chạm người khác, những kẻ cùng hưởng năng lực cũng như hiệu quả của ánh mặt trời hoặc mưa rơi từ trên cao. Thực ra, luật lệ chỉ giúp con người sống nhận thức hơn nhưng vì không muốn hoặc coi thường hay không sử dụng hồng ân nhận thức con người tự cho mình lệ thuộc luật lệ. Luật lệ giúp điều hòa lợi ích nhân sinh.

Có câu nói, "Trí giả tự xử, ngu giả quan phân," tất cả đều phát sinh tự con người vì không có con người, không có gì để nói; thế nên, tất cả đều phát sinh tự nơi mình; vấn đề chính yếu mình có tự nhận thức hay không; mình có biết trân trọng sử dụng hồng ân suy tưởng, nhận thức, nghiệm xét; nói cách khác, mình có để ý khả năng bẩm sinh nhận thức để sử dụng hay không? Sự thể này chẳng khác chi đã bao năm sinh sống, mình đã chưa bao giờ đặt câu hỏi để tự trả lời, mục đích cuộc đời của mình là gì, hay chỉ tự chấp nhận như một lẽ thường, được sinh ra thì phải sống, dùng mọi cách để tiếp tục sống, và sống để chờ chết, và thế là hết; sống như chưa bao giờ hiện hữu trên cõi đời này? Ôi, có cuộc đời để làm chi?

Nói về yêu thương, ai cũng muốn yêu và muốn được yêu. Điều này ai cũng cảm nhận, nhận thức được; mà gốc gác của yêu thương lại chính nơi tâm tư, nơi linh hồn một người. Phỏng người muốn yêu và muốn được yêu vì đã không biết yêu thương chính mình. Một người cố gắng sống yêu thương mọi người nhưng không thể yêu thương hoặc chạy trốn yêu thương chính họ thì có thể thực sự yêu thương được ai? Hay chỉ dùng người khác hầu lấp khoảng trống không biết yêu thương chính mình? Điều này quả hợp với câu của danh nhân nào đó, "Kẻ thù tệ hại nhất của tôi là chính tôi." Yêu thương thì tôi không dám nói tới nhưng điều hiển nhiên tôi nhận biết đó là tôi không thể dạy chính mình. Thánh Phaolô cũng đã phải than lên, "Điều tôi làm ra, tôi không biết; vì điều tôi muốn, tôi không thi hành, nhưng tôi lại làm chính điều tôi ghét. Song nếu tôi làm điều tôi không muốn, tức là tôi đồng ‎í với lề luật là lề luật hẳn là lương hảo. Đã thế, tôi không còn phải tôi làm ra điều đó, song là sự tội cư ngụ trong tôi. Vì tôi biết rằng trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi, chẳng có gì lành cư ngụ: muốn thì vừa tầm cho tôi, mà làm ra sự thiện thì không. Sự lành tôi muốn, tôi không làm; còn sự dữ không muốn, tôi lại thi hành. Nhưng nếu tôi làm điều tôi không muốn, thì không phải chính tôi làm ra nó, song là sự tội cư ngụ trong tôi" (Rom. 7:15-20).

"Còn Ta, Ta bảo ngươi: hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi;" Kẻ thù của mình là chính mình thì mến yêu kẻ thù địch là cần phải biết tôn trọng chính mình. Sự việc này đòi hỏi mình cần biết mình như thế nào, thực sự ra sao, xấu, tốt, thiện lương, ma giáo, ma mãnh nơi cấp độ chi. Chúng ta biết rõ, kẻ chẳng ra gì thường hay nổ bậy để che dấu mặc cảm tự ty. Như thế, một người cần nghiệm xét công án, "Tôi là ai" một cách chân thành. Nơi hành trình, diễn trình nghiệm xét, tất cả mọi sự xảy ra đều trong tư tưởng; bất cứ những gì xảy đến nơi tư tưởng làm phiền hà diễn trình suy tư, hành trình đối diện với sự thể tâm tư đang nhắm tới đều là kẻ thù, làm hại chủ thể suy tư. Nơi hành trình suy tư, nghiệm xét, tâm tư hành giả chỉ đối diện sự thể suy tư, không lệ thuộc bất cứ sự khôn ngoan, kinh nghiệm, học thức, tri thức nào. Còn lệ thuộc bất cứ điều gì đều rơi vô trường hợp thánh Phaolô căn dặn, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô" (Col. 2:8). Kẻ thù cũng là mình, thánh cũng là mình; vì tất cả chỉ xảy đến nơi tâm tư của mình. Muốn yêu mến kẻ thù cần phải biết mình là ai.