← Quay lại trang sách

- 6 - ĐỪNG TƯỞNG

Ta để lại bình an cho các ngươi;

Ta ban bình an của Ta cho các ngươi;

không phải thế gian ban cho thế nào,

thì Ta cũng ban cho như vậy đâu!

Lòng các ngươi chớ xao xuyến, chớ nhát đảm (Gioan 14:27).

"Ðừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình; và kẻ thù của người ta là những người nhà mình" (Mt. 10:34-36).

Dẫu đã biết phúc âm Gioan là thành quả của những tâm hồn nghiệm xét về cuộc đời, những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, sự khổ nạn của Ngài, và sự phục sinh, nhưng khi suy tưởng về lời hứa ban sự bình an trong lúc tự vấn lòng mình, nỗi bâng khuâng nào đó triển nở dẫn đến câu hỏi, vậy sự bình an được hứa hẹn là gì; bởi sao lòng vẫn cứ như chân đạp nhằm ổ kiến lửa do muôn lo âu, bối rối về cuộc đời của mình trong cõi sống nhân sinh tràn đầy rắc rối, lắm nẻo chông gai này. Lẽ tất nhiên, làm chi có cuộc sống yên bình, phẳng lặng như ước vọng của bất cứ ai; bởi chín người thì mười ý. Nhiều khi điều mơ ước của người này lại là ách khổ ải nơi kẻ khác. Thế thì bình an là gì và bình an thế gian ban cho một người là chi hay có điểm chung nào? Và bình an Chúa ban cho một người ra sao?

Xét về niềm mơ ước bình thường, ai cũng mong muốn có cuộc sống an bình, làm lụng nuôi sống bản thân và gia đình, không phải lo lắng ưu tư, không bị e sợ viễn vông, không bị ép buộc thực hiện điều mình không muốn hoặc không thích. Nhưng cuộc đời, "Ai nên khôn không khốn một lần." Đồng thời, sinh, bệnh, lão, tử là thực tại ai cũng phải trãi qua, dù muốn trốn tránh cũng không được. Nguyễn Công Trứ đã nêu lên, "Mới sinh ra thì đà khóc chóe; trần có vui sao chẳng cười khì; khi hỉ nộ, khi ái ố, lúc sầu bi..." Đối diện với thực tại nhân sinh không thể tránh thoát, sinh bệnh lão tử; tất nhiên, bình thường con người đành chấp nhận đã được sinh ra thì phải chết dẫu cố gắng kiếm tìm những phương cách có thể thực hành để kéo dài sự sống. Thế nên, chẳng lạ gì khi nghe thấy có tổ chức tìm thuốc trường sinh, hay những lý thuyết nghiên cứu sự luyện tập thể lý hy vọng kéo dài sự sống khỏe mạnh được chừng nào hay chừng nấy. Nhưng đâu phải ai cũng cam tâm chấp nhận buông xuôi phận mình cho giòng đời, bất trắc thiên biến vạn hóa đưa đẩy. Con người là sinh vật có suy tư, sáng kiến, nên cũng đã có những người không chấp nhận thân phận giới hạn tự nhiên của kiếp nhân sinh; họ muốn sống vượt lên khỏi sự bình thường chấp nhận như bao kẻ khác; bởi đã nhận thức được kiếp người không phải chỉ là cuộc sống nhân sinh đầy giới hạn này, mà con người chính là một thực thể tâm linh, và kiếp người chỉ là giai đoạn hay phương tiện, cơ hội cho con người học hỏi, thăng tiến nhận thức nơi hành trình vĩnh cửu biến chuyển của tạo vật. Nhận thức này trở thành nguồn gốc cho mọi sự phát triển, phát minh, sáng tạo nơi cuộc đời, đem lại lợi ích không những cho chính mình mà còn đem đến cho mọi người có cuộc sống tươi đẹp hơn, và thăng tiến hơn không những nơi kiếp nhân sinh mà còn khuyến khích con người để ý nhận thức về thực thể chính mình; nếu ai đã tự đặt vấn đề giá trị thực sự của cuộc đời mình là gì, mình thực sự là chi trong giòng sinh hóa vô cùng của vạn vật, cũng như ước vọng nhận biết mình sẽ ra sao sau kiếp sống nhân sinh này.

Kinh nghiệm sinh động minh chứng, nếu một người rắp tâm theo đuổi một mục đích cao cả vượt hẳn bên trên những tính toán, ước mơ bình thường cũng như thiết yếu nơi cuộc sống, chính những sinh hoạt theo đuổi mục đích, mục tiêu này kiến tạo nơi họ một năng lực bồi bổ sức lực theo đuổi. Niềm mơ, ước muốn thực dụng, trí tưởng tượng cộng hưởng đam mê tăng thêm sức mạnh và lôi kéo con người vượt thắng những trở ngại bình thường nơi cuộc sống. Sự thể an bình tâm tưởng chan hòa bao bọc người thực hiện. Dẫu thế, cũng không thể nào tránh thoát khỏi thực tại sinh bệnh lão tử. Niềm bình an nhân sinh được coi như thế gian ban cho dẫu là kết quả của bao công sức, cố gắng, tiêu pha năng lực cũng không dầu chỉ làm giảm bớt nỗi khổ ải con người phải đối diện nơi cuộc sống khi bước vào buổi xế chiều của cuộc đời. Đã có người nhận thức được thực tại nhân sinh nên giãi bày qua nhận định; lúc còn trẻ, chúng ta có sức khỏe, có thời gian, nhưng không có tiền; vào thời buổi trung niên, chúng ta có sức khỏe, có tiền, nhưng không có thời gian, và khi hoàng hôn cuộc đời trờ tới, chúng ta có tiền, có thời gian, nhưng không có sức khỏe. Thực tại cuộc đời là thế và không thế thì không phải cuộc đời. Những ước mơ bất toàn luôn luôn đè nặng nơi tâm trí khiến nỗi bình an chẳng khi nào được coi là toàn vẹn do ước muốn luôn luôn như nải chuối được treo vào cây cọc kết chặt trên lưng con lừa đưa về phía trước. Phỏng sự thể, điều được gọi là "Thế gian ban tặng" do công sức theo đuổi của chính mình phát sinh bởi ước muốn, niềm mơ, tiêu hao tháng ngày, tiêu hao năng lực, cho dù đến mấy cũng trở thành nỗi thất vọng ê chề của kiếp nhân sinh? Không lạ gì, đã có định kiến quảng bá tạo niềm an định tâm tư bằng cách chấp nhận cuộc đời, bỏ hết, xóa hết niềm mơ, ước vọng khi đối diện, nói cho đúng, lúc phải mang những thực trạng ngoài ước muốn, và đó là đã không thể tránh thoát thì đành chấp nhận; không khác chi lời hát nào đó, "Hãy cứ yêu người mà sống, lâu dần cuộc đời cũng qua." Sự chấp nhận này đem lại bình an tâm tưởng, nhưng nơi thân xác nào khác chi, "Trói lại mà đánh, khen hay chịu đòn." Ôi nhân sinh! Ôi an bình. Nói cho đúng, sự bình an chỉ xảy đến nơi tâm tưởng dẫu con người cố gắng vùng vẫy, tranh đấu đến đâu.

Sự bình an thế tục, thế gian ban tặng là thế. Gọi là được ban tặng nhưng thực chất chính là do những cố gắng, tiêu pha năng lực để thực hiện dẫu cuối cùng vẫn đành phải cúi đầu chấp nhận những gì mình không bao giờ mơ ước, mà có chăng luôn tìm đường né tránh. Thế sự an bình được hứa ban nơi phúc âm Gioan, phúc âm của nghiệm chứng, nghiệm xét là chi, giá cả ra sao, nỗi an bình này cần điều kiện nào và con người muốn đạt được cần thi hành những sự việc chi. Nói là thi hành những sự việc, chi bởi bất cứ sự gì, ngay cả ước muốn, niềm mơ, cũng có giá phải trả. Không chịu trả giá thì muôn đời niềm mơ, ước muốn vẫn chỉ viễn vông, chẳng bao giờ biến thành hiện thực.

Phúc âm Gioan chính là thành quả của suy nghiệm, nghiệm chứng, nghiệm xét, khi con người nâng tâm hồn mình lên hòa nhập nơi hiện thực tâm linh. Nơi Tân Ước, chính thánh Phaolô đã thực hiện trình bày một cách ngắn gọn, "Đừng dập tắt Thần Khí! Chớ khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1Thes. 5:19-22). Để thực hiện nghiệm xét, ngài khuyên, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô" (Col. 2:8). Hơn kém hai ngàn năm qua, tới nay, năm 2021, lời khuyên của ngài vẫn còn chưa được để ý thực nghiệm. Tại sao có thể nói như thế? Thực tâm xét lại lòng mình, đã bao giờ mình chú tâm để ý khi nghe hoặc đọc lời khuyên này của ngài chưa, hay chính lúc đọc những hàng chữ này, chưa chắc lòng mình đã bị đánh động vì lời khuyên chẳng khác gì mộng tưởng này. Lý do, chúng ta đã bị ám ảnh từ thời ông bà ông vải rằng, "Chúng ta phải tin với giáo hội" trong khi đã không nhận biết dù chỉ định nghĩa về giáo hội đã được phân định từ Công Đồng Vatican II vào năm 1965, "Giáo hội là Dân Chúa." Ai không là dân Chúa; ai không có linh hồn, trong khi chín người, mười ý; đồng thời chúng ta cũng mù mờ không biết Tin Mừng Nước Trời là gì, không biết đức tin, lòng tin, thực sự là chi và do đó không biết cách nào để sử dụng đức tin, lòng tin như phúc âm đã mách bảo, "Này con, hãy vững lòng, lòng tin của con đã cứu chữa con"(Mt. 9:22), hay "Ông hãy đi! Ông đã tin sao, thì hãy được như vậy" (Mt. 8:13).

Đọc nơi Tân Ước, cho đến nay, không ai biết rõ thánh Phaolô đã nhận thức được từ đâu sự thể, "Anh em không biết sao: Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em" (1Cor. 3:16); hoặc, "Anh em không biết sao? Thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần (ngự) trong anh em, anh em đã chịu lấy từ Thiên Chúa, và anh em không thuộc về mình nữa" (1Cor. 6:19). Điều này đồng nghĩa với Tin Mừng đức Giêsu rao giảng, "Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mt. 1:23), dẫu phúc âm được viết từ năm 70, sau khi thánh nhân đã qua đời vào giữa tháng sáu, năm 68 AD. Thế nên, cũng chỉ có thể nói được rằng thánh nhân, qua nghiệm xét về thực thể tâm linh đã thức ngộ được sự thể này nơi mỗi người. Tương tự thế, phúc âm Gioan là thành quả của sự nghiệm chứng, nghiệm xét về cuộc đời, sự giảng dạy, sự khổ nạn, sự chết và sự sống lại của đức Giêsu.

Như vậy, sự bình an mà phúc âm Gioan nhắc đến là trạng thái bình an nơi tâm hồn, tâm tưởng của những ai nghiệm xét phúc âm, sự bình an nơi hành trình nghiệm xét, nhận thức tâm linh. Tuy nhiên, nơi Matthêu lại được viết, "Ðừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình; và kẻ thù của người ta là những người nhà mình" (Mt. 10:34-36), nghĩa là thế nào, ở phương diện chi nơi cuộc sống nhân sinh? Dẫu bất cứ ai thực sự tin nơi Thiên Chúa, tin vào đức Kitô đều mang trọng trách rao giảng Tin Mừng Nước Trời như đức Giêsu đã phải mang khi ngài hiện thân nơi nhân thế. Như vậy, vấn đề được đặt ra và đó là mình dẫu tuyên xưng, dẫu tin tưởng, cho rằng mình tin vào đức Giêsu, tin vào Thiên Chúa nhưng mình có thực sự nhận biết tin là thế nào chưa. Mình đã thực lòng nhận biết Tin Mừng ngài rao giảng là gì chưa hay chỉ nghe sao biết vậy, được dạy dỗ thế nào thì lặp lại thế đó, mình đã tự biến thành chẳng khác gì thùng rác rộng mở để người khác quăng vô bất cứ gì; mình tự trở thành thân xác biết thở nhưng ăn không tiêu, nuốt vô thế nào đành mửa ra như vậy, không hơn không kém. Tuyên xưng rằng tin vào Thiên Chúa nhưng không biết Thiên Chúa là gì nơi cuộc đời mình. Tuyên xưng rằng tin vào đức Kitô nhưng chưa bao giờ đặt vấn đề nghiệm xét phúc âm. Nói cách khác, mình chỉ biết hô lên là tin thế này, tin thế kia nhưng lòng ruột trống rỗng, chỉ bề ngoài nhai đi nhai lại những danh hiệu, quan niệm một cách vô ý thức. Suy nghĩ, đặt vấn đề như thế, làm sao chúng ta có thể đối diện với câu nói nơi phúc âm Matthêu nghịch lại với niềm tin, với ước mơ đã bao năm ấp ủ, "Ðừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo." Một điều Kitô hữu cần nên biết; đó là phúc âm được viết nơi miền Trung Đông; bởi đó kiểu cách phát biểu tất nhiên bị ảnh hưởng của lối phát biểu nơi đạo học Đông Phương chẳng khác gì lối dùng sự việc nhân sinh để diễn xuất nơi Tục Ngữ, Ca Dao Việt Nam, nói một đàng, ý tứ một nẻo. Và như thế, nếu đem dịch Tục Ngữ, Ca Dao Việt qua ngôn ngữ Tây Phương, người đọc cần nghiệm chứng, nghiệm xét mới có thể nhận thức được, chứ nếu chỉ cố hiểu theo nghĩa từ chương, Tục Ngữ, Ca Dao Việt nơi bản dịch ngoại ngữ coi chừng trở thành lố bịch không khác gì câu phúc âm đã ngược ngạo, phản niềm tin của con dân Chúa đang sống nơi nhân thế.

Như vậy, nếu để ý, phúc âm được viết để con người nghiệm chứng, nghiệm xét chứ không phải để giải thích; vì nếu giải thích, sẽ biến phúc âm thành những điều không tưởng, phi lý, phản luân lý nhân sinh, bất hiếu, bất trung, trong khi kêu gọi lòng chân thật, trung thành với niềm tin, với Thiên Chúa, và với đức Kitô. Thật đau lòng khi đọc được lời ghi chú về động từ "Ăn năn hối cải" nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước của 14 học giả Thánh Kinh, trang 184. “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Từ Hy lạp Metanoia theo nghĩa gốc là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Ở đây, chắc phải hiểu sám hối (metanoia) theo chủ đề căn bản trong Cựu Ước, cách riêng, từ ngôn sứ Giêrêmia: thay đổi hướng đi, triệt để quay về với Thiên Chúa của Giao Ước và dấn bước vào một cuộc sống mới. Đức Giêsu còn kêu gọi dân chúng lấy đức tin mà đón nhận toàn diện thông điệp Người công bố.” Thiển nghĩ, có lẽ họ không biết gì về nghiệm xét đã được thánh Phaolô đề xuất.

Thử nhày vào kịch bản của câu phúc âm để nghiệm xét, "Ðừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình; và kẻ thù của người ta là những người nhà mình" (Mt. 10:34-36). Thử hỏi, điều gì thân thiết với mình hơn cha mẹ và những người nhà mình? Nơi hành trình nghiệm xét, chỉ có mình với mình, đối diện câu phúc âm, không có cha mẹ hoặc nàng dâu, con rể, hay thằng lá, thằng cành nào hết. Vậy phúc âm nhắc đến cha mẹ, người nhà, con dâu, mẹ chồng tức là muốn nói về điều gì? Ai cũng biết hoặc đã chứng nghiệm, nơi cuộc sống, dẫu một người thân thiết đến mấy với cha mẹ, người nhà thì cũng ít nhất có đôi lúc sự bất đồng phát sinh. Lý do hoặc gốc gác của sự bất đồng từ đâu? Xin thưa, nơi ‎ý thích, ý định, quan điểm, quan niệm, thói quen, kiến thức, chủ đích hoặc tư tưởng khác nhau; vì như lẽ tự nhiên, chín người, mười ý. Cũng xin đừng quên, nơi diễn trình nghiệm xét, chỉ có tâm tưởng của mình đối diện câu phúc âm. Đồng thời cũng xin được nhắc lại lời khuyên nhủ của thánh Phaolô, "Đừng dập tắt Thần Khí! Chớ khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1Thes. 5:19-22). Và điều kiện nơi tâm trí, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô" (Col. 2:8).

Như vậy, người nhà mình, cha mẹ nơi diễn trình nghiệm xét chính là học thức, nhận định, quan điểm, kinh nghiệm, ham muốn, truyền thống, chủ đích của người trong cuộc, của chính mình trong khi nghiệm xét. Và đồng thời cũng nên biết, trong khi nghiệm xét, bất cứ tư tưởng, ý nghĩ nào xảy đến nơi tâm trí đều không đúng, không sai, chúng là sự hiện hữu, chúng chỉ trở nên đúng sai khi được nói ra mà thôi. "Ðừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo." Lời dạy nơi phúc âm không nói về cuộc sống thế nhân nhưng nói về thực trạng tâm tưởng, tâm linh, do đó luôn đối nghịch với truyền thống, ‎ý định của người nghiệm xét, tạo nên hiện trạng đối nghịch không thể hòa giải, hoặc tiếp tục theo điều nên, lẽ ngay nơi tâm tưởng hay đành chấp nhận cắt bỏ, "Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi: vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị xô vào hỏa ngục" (Mt. 5:29).

Phúc âm chỉ đường, chỉ phương pháp cho một người khi đối diện với lòng mình nơi hành trình nghiệm xét tâm linh, hành trình nhận thức Tin Mừng Nước Trời mà đức Giêsu đã rao giảng hơn kém hai ngàn năm về trước. Ai nghiệm xét, người nấy biết; có câu nói, "Người ta chỉ có thể dẫn con lừa tới giòng nước, uống nước hay không tự con lừa."