← Quay lại trang sách

- 11 - MƯỜI NÀNG TRINH NỮ (Mt. 25:1-13)-BA NGƯỜI LÀM CÔNG (Mt. 25:14-28)

Khởi đầu cho dụ ngôn Mười Nàng Trinh Nữ, phúc âm được viết, "Bấy giờ về Nước Trời, thì cũng như mười trinh nữ, ai nấy cầm đèn của mình đi đón lang quân." Như vậy, dụ ngôn Mười Nàng Trinh Nữ chủ đích nói về Nước Trời; đồng thời phúc âm Matthêu thêm, "Thì cũng như." Thì cũng như theo phương diện, trường hợp nào, lại cần được nghiệm xét, suy tư. Đại khái dụ ngôn nói về sự việc phái đoàn của lang quân bị trễ nên các trinh nữ trong thời gian chờ đợi đã rơi vào giấc ngủ. Đến khi phái đoàn của chàng rể đi ngang, các trinh nữ được đánh thức gia nhập, thì đèn của năm trinh nữ hết dầu; nên bị bỏ lại trong khi họ đi mua dầu. Riêng năm trinh nữ khác có đem thêm dầu theo được tham dự tiệc cưới; sự thể này có nghĩa năm trinh nữ đem thêm dầu được chọn làm cung nữ nơi hoàng triều. Năm nàng trinh nữ đi mua dầu đến trễ sau khi cửa hoàng cung đã đóng lại được trả lời, "Ta không biết các ngươi. Vậy các ngươi hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào."

Câu kết luận của dụ ngôn nói lên mục đích, "Vậy các ngươi hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào" để nhận biết, nhận thức Nước Trời; sự thể này thuộc về tâm trí. Như thế, câu hỏi được đặt ra, tỉnh thức nơi tâm trí là thế nào, thực trạng tâm trí con người cần ra sao để có thể đón nhận, nhận biết, nhận thức về Nước Trời?

Xét về trạng thái tâm trí, tỉnh thức mang nghĩa suy nghĩ, suy tưởng, tính toán, nghiệm xét, nghiệm chứng. Nơi trường hợp đón chàng rể, lang quân, của dụ ngôn, tất nhiên, mười nàng trinh nữ đã được chọn để gia nhập tiệc cưới, được chọn làm cung nữ nơi hoàng triều. Theo tục lệ ngày xưa của Do Thái, nghi thức rước dâu được thể hiện vào buổi tối; do đó các nàng cần mang theo đèn. Năm nàng được dụ ngôn gọi là khôn ngoan đã suy tính có thể phái đoàn rước dâu bị trễ vì lý do nào đó nên mang theo dầu. Riêng năm nàng bị dụ ngôn mệnh danh là "Khờ dại," chỉ nghe sao biết vậy, không suy tính, không đặt vấn đề về những trường hợp nào đó có thể xảy ra nơi tiến trình rước dâu nên trong khi chờ đợi, rơi vào giấc ngủ và đồng thời không để ý, quên không tắt đèn nên hết dầu và đã không được tham dự tiệc cưới, không được gia nhập hàng cung nữ của hoàng triều.

Trở lại với lời giới thiệu nơi dụ ngôn, "Bấy giờ về Nước Trời, thì cũng như mười trinh nữ, ai nấy cầm đèn của mình đi đón lang quân," dụ ngôn nói về tâm trí của những ai muốn nhận biết, nhận thức về Nước Trời, Nước Thiên Chúa, cần biết suy tư, suy nghĩ, nhận định. Nói theo thánh Phaolô là cần "Đừng dập tắt Thần Khí! Chớ khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1Thes. 5:19-22)? Có lẽ năm nàng trinh nữ khờ dại ngày ấy không biết gì về lời khuyên của thánh Phaolô. Điều này đúng sự thật vì khi đức Giêsu rao giảng Tin Mừng thì thánh Phaolô chưa bị bắt cóc; chỉ sau khi đức Giêsu sống lại, và trên đường đi Damascus bắt những kẻ tin theo đức Giêsu, thánh Phaolô mới bị ngã ngựa. Quả là thiệt thòi cho năm nàng khờ dại, và những ai không biết hoặc không để ý nghiệm xét Tin Mừng.

Đối với năm nàng trinh nữ khờ dại, không chịu suy nghĩ, tính toán nên đã mất cơ hội ngàn năm một thuở cũng như mọi người, cho đến nay vẫn chưa biết Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là gì. Chuyện cũng thường thôi vì biết, nhận thức được Tin Mừng Ngài rao giảng hay không, đâu ảnh hưởng chi đến cuộc sống nhân sinh. Thế nên vấn đề được đặt ra đó là Tin Mừng Nước Trời là gì, quan trọng, ảnh hưởng, và đem lại cho con người những gì đến nỗi cả ba phúc âm, Luca, Matthêu, và Marcô đểu được nhắc đến “Nhưng Ngài bảo họ: 'Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến. Và Ngài đã rao giảng trong các hội đường nước Yuđê.” (Lc. 4:43; Mc. 1:38; Mt. 4:23); đồng thời đức Giêsu sai các môn đồ ra đi rao giảng cũng chỉ với cùng mục đích (Mc. 3:14; Mt. 10:7; Lc. 10:9).

Dẫu con người cao rao, tuyên dương, tuyên xưng, về đức Giêsu thế nào thì cũng chỉ là chuyện của loài người. Đức Giêsu đã hoàn thành mục đích của Ngài là rao giảng Tin Mừng cho nhân thế dù thế nhân nhận biết hay không; chẳng khác chi năm nàng trinh nữ khờ dại, được gọi nhưng đã không được gia nhập tiệc cưới bởi đã không suy nghĩ nên lỡ cơ hội. Thế nhân cho đến nay, hơn kém hai ngàn năm vẫn chưa biết, chưa nhận thức được Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là gì; chỉ biết ca lên theo thánh Phaolô, "Quả vậy, Đức Kitô đã không sai tôi đi thanh tẩy, mà là rao giảng Tin Mừng; không phải bằng sự khôn ngoan của khoa ngôn ngữ, kẻo thập giá của Đức Kitô bị ra hư không trống rỗng" (1Cor. 1:17). Và, "Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh Thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh Thánh" (1Cor. 15:3). Chúng ta tin theo thánh Phaolô, tuyên xưng, tuyên dương đúng như ngài rao giảng; lặp lại những gì ngài đã tuyên dương, không cần biết thế nào, "Vì chưng trong khi Do Thái đòi có dấu lạ, và Hy Lạp tìm sự khôn ngoan; thì chúng tôi lại rao giảng một vị Kitô đã bị đóng đinh Thập giá, cớ vấp phạm cho Do Thái, sự điên rồ đối với dân ngoại" (1Cor. 1:23), và "Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh Thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh Thánh" (1Cor. 15:3). Mà không để ý, không cần biết, "Còn chúng tôi, chúng tôi có tư tưởng của Đức Kitô" (1Cor. 2:16). Có tư tưởng của đức Kitô là thế nào? Có khi nào chúng ta đặt vấn đề hay chẳng bao giờ!

Nơi trường hợp ba người làm công, một người được trao cho 5 nén vàng, người khác hai nén, và người thứ ba chỉ có một nén. Người được trao 5 nén làm sinh lợi 5 nén khác; tương tự, người được trao 2 nén cũng làm sinh lợi 2 nén khác và được tưởng thưởng. Riêng người thứ ba chỉ được trao một nén và đã không làm sinh lợi gì bởi đã đem nén vàng chôn giấu, nên bị kết án là "Tôi tớ bất hảo và lười biếng" (Mt. 25:31).

Thử đặt vấn đề, giả sử cả ba người nơi cuộc đời điên đảo ngày nay, đem vàng làm thương mại và đều bị lừa đảo hết thì sẽ bị kết án thế nào. Người được trao một nén vàng có lẽ không tài kinh doanh, lại được nghe đây đó hoặc đã từng đối diện với sự hà khắc của chủ nên đem chôn vàng. Như vậy, lý do chôn vàng chính vì e sợ chứ không phải vì lười biếng; bởi nếu đã lười biếng đâu cần tốn công đem chôn. Như thế, người này bị kết án lười biếng nơi phương diện nào?

Phúc âm nêu lên dụ ngôn ba người làm công ám định về sự nhận biết, nhận thức về mục đích rao giảng của đức Giêsu. Sự nhận biết, nhận thức về Tin Mừng tùy thuộc khả năng nghiệm xét, suy tư, suy tưởng của mỗi người. Không suy tư, nghiệm xét, được gọi là lười biếng, nếu nói theo dụ ngôn. Đem chôn giấu có thể mang nghĩa tôn trọng, kính ngưỡng, nhưng không dám suy tư, nghiệm xét, hoặc không để ý suy tư. Thử đặt mình nơi vị thế người được trao một nén vàng. Chấp nhận mình dốt nát, không dám suy tư vì sợ sai lầm, vì được dạy "Chúng ta phải tin với giáo hội." Thực tế minh chứng, tin với giáo hội chỉ là lặp lại những gì đã được rao giảng và nghe, hiểu dẫu không nhận biết. Thế nên, dẫu có bị kết án trầm luân sa hỏa ngục muôn đời muôn kiếp thì cũng đành cắn răng, nếu chết non; nơi trường chết già, răng rụng hết thì muốn cắn răng cũng chẳng còn răng mà cắn, la lên không ai nghe, nên đành chấp nhận rơi vào trường hợp "Trói lại mà đánh, khen hay chịu đòn." Ai nhận thấy mình khôn ngoan hơn người được trao chỉ một nén vàng cần đặt lại vấn đề; mình có nghiệm xét để nhận biết Tin Mừng Nước Trời đức Giêsu rao giảng hai ngàn năm trước là gì. Nếu không, có lẽ sẽ bị kết án nặng nề hơn, và đó là khinh chê hồng ân suy tư được ban cho, tội phạm đến Thánh Thần. Thực tế minh chứng, ai cũng khôn ngoan, suy tư, tính toán tuyệt vời nơi cuộc sống thế nhân, nhưng ít để ý suy tư về những câu nói nơi phúc âm. Hơn nữa, phúc âm được viết nơi miền Trung Đông, theo kiểu ám định giống Tục Ngữ, Ca Dao của dân Việt; dùng sự vật, sự việc hữu vi, ám định về chuyện khác nơi phương diện nào đó. Trong khi Tây phương phát triển phúc âm thì lại quen thói hoặc không để ý nên trình bày, mà giải nghĩa phúc âm theo kiểu kinh viện, từ chương. Thế nên đôi khi minh chứng phúc âm tự đối nghịch. Chẳng hạn, nơi phúc âm Gioan được viết, "Ta để lại bình an cho các ngươi; Ta ban bình an của Ta cho các ngươi; không phải thế gian ban cho thế nào, thì Ta cũng ban cho như vậy đâu! Lòng các ngươi chớ xao xuyến, chớ nhát đảm (Gioan 14:27). Nơi phúc âm Matthêu lại có đoạn, "Ðừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình; và kẻ thù của người ta là những người nhà mình" (Mt. 10:34-36). Nghe hay đọc phúc âm mà không suy tư, đặt vấn đề, nghiệm xét, suy tưởng thì có bị kết án đến mấy cũng chẳng nói được gì.

Đọc phúc âm nếu để ý suy nghĩ sẽ nhận ra phúc âm được viết không phải để được giải thích mà là để nghiệm, để suy tư; vì sự nhận biết, nhận thức không thể học được, chỉ có thể ngộ. Muốn ngộ, muốn nhận biết, nhận thức cần suy tư, nghiệm xét, cần học theo lời khuyên của thánh Phaolô, "Đừng dập tắt Thần Khí! Chớ khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1Thes. 5:19-22).