- 13 - ĐỨC TIN - LÒNG TIN
Cũng như mọi Kitô hữu, tôi tin vào đức Kitô, tin vào Thiên Chúa; tin vào những gì được dạy đỗ và mọi người chấp nhận được gọi là tin. Hơn thế nữa, tôi suy tư để nhận biết những gì được coi là liên hệ đến sự hiện hữu của mình. Chẳng hạn, tôi được dạy là có linh hồn, tôi tìm đủ mọi cách, đọc một số sách đạo học Đông Phương, học hỏi cách nghiệm chứng, định tâm, hành thiền, để chứng thực được nơi tôi có một sự thể nào đó dẫu chưa bao giờ có thể đụng tới, nhìn thấy, hoặc cảm thấy tạm gọi là linh hồn. Dầu tôi không hiểu linh hồn của tôi kết hợp với thân xác tôi theo cách nào nhưng nhận biết rõ ràng sự liên kết giữa thân xác và linh hồn bất khả phân ly; như vậy, thân xác tôi, cuộc đời của tôi chỉ là phương tiện cho linh hồn tôi hoạt động. Linh hồn tôi dùng miệng để nói, tai để nghe, mắt để nhìn, bộ óc để suy nghĩ. Hoạt động của linh hồn tôi chính là tâm trí, bao gồm ước muốn, ước mơ, ý định, ý nghĩ, tham vọng, những sự tin tưởng, niềm tin, hy vọng, cầu mong, v.v... Dĩ nhiên, tin vào đức Kitô, tin vào Thiên Chúa thì Kinh Thánh là cuốn sách cần được đặc biệt tôn trọng để tham khảo, nếu không muốn nói là căn bản giải đáp những khúc mắc nổi dậy nơi tâm tư hầu thỏa mãn lòng khát vọng nhận biết thực thể, sự hiện hữu của chính mình, cũng như nhận biết do thực hành những phương pháp thực nghiệm nơi hành trình tâm linh, hành trình nhận biết của linh hồn đối với thực thể và liên hệ nơi cuộc đời nhân sinh. Tất nhiên, nhiều vấn đề, thao thức nhận biết chính mình, sự tin tưởng, ước mơ, những liên hệ giữa sự hiện hữu của tôi, linh hồn kết hợp với xác thân, với những thực thể tâm linh, vô hình, đã chẳng khác chi một cuộc trường kỳ kháng chiến, mò móc, tìm tòi, suy nghĩ, chẳng những thúc đầy tâm tư tôi tìm kiếm, suy nghiệm nơi phúc âm, vì phúc âm có những dụ ngôn, câu nói thách đố tâm trí tôi chứng thực những câu nói ấy sao có thể áp dụng một cách hợp lý, hợp tình, và hài hòa với nhận thức của tôi. Nhiều khi, chỉ một câu nói đơn giản nơi phúc âm, chẳng hạn, "Ai có tai thì nghe," đã khiến tâm trí tôi quay cuồng chẳng biết bao lâu; có thể là vài năm, nhưng không dưới năm năm. Có lẽ tôi hơi thủ cựu cộng thêm ngang bướng một chút, không chịu chấp nhận nhận biết một cách mù mờ về bất cứ vấn đề gì. Biết là biết, biết không phải là nghe nói hay chỉ hiểu. Nơi cuộc sống hữu vi, biết trồng một cây rau, một luống khoai cần phải cuốc hay cày đất chăm bón chúng. Chỉ nghe hay đọc lý thuyết, không phải là biết trồng rau, trồng khoai. Như vậy, lại phải nghiên cứu về đất đai có hợp cho trồng rau, vun khoai hay không. Nghe nói, vội tin theo, đem giống rau vô mảnh đất nơi tôi đang ở, chỉ cát pha đất sét, mà trồng, coi chừng mất váy. Từ kinh nghiệm thực tế sinh sống khiến tôi tìm kiếm sách vở viết về cuộc sống tâm linh đồng thời nhào vô interner coi những đoạn youtube trình bày về lên đồng, linh hồn người chết nhập đồng (tạm gọi như thế) vì nơi các sách nhà Phật chỉ nói về duyên chứ không nói về sự sống đời sau. Thêm nữa, nhà Phật dùng lý thuyết, hay nguyên tắc chủ thuyết luân hồi của Ấn học, hình như sự pha trộn này không hợp lý, chẳng hợp tình. Tôi đọc lung tung, ghi nốt cẩn thận, may ra kiếm được viên ngọc quí nào nơi những bãi rác, sản phẩm của các bậc thức ngộ bên Đông Phương chăng; bởi dù là người thuộc miền Đông Phương, nhưng tôi được giáo dục theo tri thức Tây Phương. Chính vì mở rộng lòng cầu may nhận biết thêm, tôi nhận ra một điều, và đó là Kinh Thánh được viết nơi miền Trung Đông nên kiểu cách, ngôn từ được sử dụng chẳng khác gì nơi cách sách vở viết về đạo học Đông Phương. Đàng khác, Kinh Thánh được triển dương bên Tây Phương, và vì Tây Phương phát triển kỹ thuật; sách kỹ thuật được viết một cách thực dụng cũng như toán số, một cộng với một bằng hai, nên Kinh Thánh thường được giải thích theo nghĩa từ chương, hay gượng ép theo luân lý; do đó nhiều câu khôn ngoan đã bị coi như huyền nhiệm; một đôi thực thể đã bị hay được mệnh danh mầu nhiệm do không thể giải thích theo nhận thức nhân sinh, thế tục. Thí dụ, bình thường, ai không tin rằng, nhận biết rằng một cộng với một bằng hai. Đã biết chắc một cộng với một bằng hai thì sao lại nói là tin. Tin hay không cũng thế thôi. Tuy nhiên, vậy một linh hồn cộng với một thân xác bằng hai hay bằng một. Nói rằng hay tin rằng bằng một cũng không thực nghiệm, bằng hai lại càng ngớ ngẩn, thì một linh hồn cộng một thân xác bằng mấy, khoa học Tây Phương chết đứng nơi đây, lý thuyết gia, lý thuyết tôn giáo đành "Cả vú lấp miệng tín đồ" hô lên huyền nhiệm, mầu nhiệm. Tất nhiên, với tính chất thủ cựu, không chịu vội tin theo, và thêm chút ngang bướng dám lao vào thế giới đạo học Đông Phương, những câu nói, những phát biểu của các bậc thức ngộ quay tôi như quay dế khiến tôi tối tăm mắt mũi và chẳng khác gì chú ngựa non háu đá; đá lung tung, thử đủ mọi kiểu nhiều khi "suýt tẩu hỏa nhập ma" nên vội mò mẫm kiếm cách giải cũng trong khu rừng thâm u vô giới hạn của đạo học Đông Phương ấy. Nào tọa thiền, nào Yoga, hít thở, dẫn khí qua các các trung tâm kinh mạch, nào quán, nào tưởng rối um lên. Còn gì nữa, mantra, niệm chú, thôi thì lắm phép, nhiều niệm, định tâm, hành thiền. v.v... Cuối cùng, tất cả cũng chỉ là định tâm nghiệm chứng, mọi sự gom lại được mệnh danh hành trình tâm linh, suy tư, suy tưởng, sử dụng tâm trí đặt vấn đề và chăm chăm chú chú chỉ một vấn đề dẫu được các bậc thức ngộ khác nhau, các tác giả nơi những địa phương, thời đại khác gọi chúng bằng những danh hiệu khác nhau. Quay cuồng với đạo học Đông Phương đầy rắc rối, lắm pháp, nhiều phép, đến khi trở lại với Tân Ước, thì nó nằm chình ình ra đó, chỉ đọc lướt qua, không thể nào nhận biết được. Đó là phương pháp được đề nghị do thánh Phaolô, "Nghiệm xét mọi sự." Tuy nhiên, nghiệm xét như thế nào cần những điều kiện gì, và phải làm sao thì Phaolô chỉ ngắn gọn tóm tắt, "Đừng dập tắt Thần Khí! Chớ khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1Thes. 5:19-22), với điều kiện, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô" (Col. 2:8). Cái điều kiện, " Chứ không theo đức Kitô" mới phiền, mới khiến tâm trí tôi quay mòng mòng chẳng khác lúc tranh đấu với những lời lẽ ngang như cua, như chọc vào tai cho điếc luôn nơi rừng đạo học, mà điếc thật. Chẳng hạn Thích Ca nói, "Trong 49 năm rao giảng, ta chưa từng nói chi!" Quả là không điếc thì cũng tối tăm mắt mũi. Nhận biết được linh hồn, nhận biết liên hệ, kết hợp, hoạt động của linh hồn với xác thân, nhận biết thực thể mình thế nào trong hành trình vĩnh cửu, và nơi cuộc sống nhân sinh, tôi lại phải đối diện với một thực thể khác, thực thể đức tin, Lm. Nguyễn Thế Thuấn và các nhà học giả Kinh Thánh nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước được in năm 1994 tại Sàigòn, gọi là "Lòng tin." Một điều hơi lạ đối với tôi đó là hình như "Đức tin, lòng tin" bị đồng hóa với sự tin tưởng, niềm tin, ước mơ, hy vọng, tham vọng hay cầu mong. Tuy nhiên, chỉ có một định nghĩa đức tin, lòng tin độc nhất nơi Tân Ước nơi thư Hipri (Hebrew), và đó là, "Tin là cách chiếm hữu những điều còn trong hy vọng, là phương thức nhận thức các thực tại người ta không thấy; vì nhờ đó các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám cho" (Hipri 11:1). Định nghĩa này coi bộ lãng đãng, nói cho qua, mù mờ, đánh lận con đen khiến tâm trí không thể nào phân định rõ ràng đức tin, lòng tin là gì, là thực thể thế nào nơi một người. Lật cuốn The New Oxford Annotated Bible, bản in năm1977, định nghĩa này được viết, "Now faith is the assurance of things hoped for, the conviction of things not seen. For by it the men of old received pine approval" (Hebr. 11:1). "Phương thức nhận thức" được dịch thành "Conviction" hình như không chỉnh. Trong khi phúc âm, cũng như nơi trường hợp của Tin Mừng Nước Trời, không có bất cứ định nghĩa nào, mà chỉ đưa lên kết luận, "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mc. 5:34; 10:52). Câu này có nghĩa lòng tin của một người ở nơi người ấy và mang quyền lực chữa trị. Phúc âm Matthêu, nơi trường hợp người hầu của viên bách quản, đức tin, lòng tin được coi như sự tuyệt đối tin tưởng nơi đức Giêsu của viên bách quản, "Ông hãy đi, ông đã tin sao thì hãy được như vậy" (Mt. 8:13). Nơi trường hợp trực tiếp, phúc âm Matthêu chỉ rõ tin đồng nghĩa với đức tin, lòng tin, khi đức Giêsu có hành động. Nơi trường hợp này có thể nói tin vào đức Giêsu, "Các ngươi đã tin sao thì hãy được như vậy" (Mt. 9:29), nhưng nơi tiếng Anh của cuốn The New Oxford, lại được viết, "According to your faith be it done to you". Và khi đức Giêsu không có hành động nào, phúc âm chỉ rõ quyền lực chữa lành phát xuất từ lòng tin, đức tin, "Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy" (Mt. 15:28). Cũng thế nơi Luca, "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con" (Lc. 8:48), và, "Hãy chỗi dậy mà đi về; lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi" (Lc. 17:19) đối với người bị phong hủi. Ngoại trừ trường hợp viên bách quản xin chữa lành cho người hầu, những sự chữa lành đều được giải thích là do đức tin, lòng tin. Không có trường hợp nào đức Giêsu nói rằng Ngài chữa, Ngài cứu. Và phúc âm cũng không nêu lên bất cứ định nghĩa đức tin, lòng tin là gì. Xét như thế, theo ý nghĩa của những ngôn từ, đức tin, lòng tin bao gồm ước muốn, ý định, sự tin tưởng, hy vọng. Đức tin, lòng tin, nơi một người mang năng lực, quyền lực chữa lành. Đức tin, lòng tin, là năng lực, quyền lực nội tại nơi một người. Nơi trường hợp ra lệnh sóng nước trên hồ êm ả, các môn đồ bị đặt vấn đề, "Sao các ngươi nhát đảm vậy, quân yếu tin" (Mt. 8:26), "Sao nhát đảm thế. Các ngươi chưa có lòng tin sao" (Mc. 4:40); trong khi bản tiếng Anh được viết, "Why are you afraid? O men of little faith" (Mt. 8:26), và, "Why are you afraid? Have you no faith" (Mc. 4:40). Hình như do lối dùng ngôn từ sao cho thuận lối nói hay thuận câu văn đã khiến người đọc hay nghe, tâm tư bị đánh đồng giữa những ngôn từ "Tin, tin tưởng" với "Đức tin, lòng tin." Thử đặt vấn đề, nơi phúc âm Gioan, Chúa Giêsu nói, "Sự sáng thế gian chính là Ta," (Gioan 8:12; NTThuấn), "I am the light of the world" (The New Oxford), trong khi phúc âm Matthêu, Ngài nói với môn đồ, "Các ngươi là ánh sáng cho thế gian" (NTThuấn), "You are the light of the world" (Mt. 5:14; The New Oxford). Nơi các dịch bản tiếng Anh, Holy Bible (1902); Holy Bible (1947); The Jerusalem Bible (1966); The New Oxford RSV (1977); New American Bible (1986), The Anchor Bible; Matthew; vol. 26 (1987), The New Jerusalem Bible (1990); đều dịch Mt. 5:14 là, "You are the light of the world." Thiển nghĩ, nên luận bàn hay loạn bàn hoặc phiếm luận hay phiếm loạn đôi chút về ngôn từ được dùng nơi câu, "Các ngươi là ánh sáng cho thế gian." Tôi chỉ có bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn (1976); không biết bản này đã được in lại từ bản phiên dịch năm nào trước đó theo lối nói xưa. Sở dĩ phải đặt vấn đề chỉ vì sự tôn trọng độc giả, tôi không muốn bất cứ ai có cảm nghĩ bị áp đặt suy tư vì mỗi người có tự do tuyệt đối suy tư nên rất kỵ bất cứ ý đồ nào, dù vì bất cứ lý do nào, làm sai lệch hay ngăn chặn diễn trình suy tư, nghiệm xét của bất cứ ai. Nơi bản dịch của cuốn Kinh Thánh Tân Ước do 14 học giả được in tại Sài gòn, hai câu này được viết, "Tôi là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12) và, "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian" (Mt. 5:14). Dẫu phúc âm Gioan chính là sản phẩm của nghiệm xét, dựa trên phúc âm nhất lãm, nên so sánh hoặc ráp nối những câu nói lẫn lộn thì chẳng khác chi "Lấy râu ông cắm cằm bà" thay vì "Lấy dâu ông ném tằm bà" (TN). Nếu có vị nào thấy không chỉnh, thì xin cứ coi sự thể này như kết quả của "loạn bàn" hay "phiếm loạn." Dẫu thế, nói rằng, "là ánh sáng cho thế gian" hay "là ánh sáng thế gian" thì ý nghĩa cũng như nhau, hoặc "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian" thì cũng chỉ dùng hơn kém một đôi từ mà thôi. Nhưng khi so sánh, "Ta là ánh sáng thế gian" (Gioan) với câu, "Các con là ánh sáng thế gian" thì ngôn từ "Ta" có nghĩa đồng nghĩa với "Các con." Điều này nói lên mỗi Kitô hữu, nói chung, hay bất cứ ai; vì ai cũng có linh hồn, dẫu nhận biết hay không, mang đồng danh phận với đức Giêsu, nói cho đúng ra, nhưng thường thì không. Thế nên, sở dĩ tôi phải ghi thêm tên những bản dịch Kinh Thánh tiếng anh dẫu chúng được xuất bản khác năm và dĩ nhiên khác nơi chốn, dịch giả, học giả; vì tất cả chúng đều được viết như nhau trong khi hai bản dịch tiếng Việt, cũng hai câu đó, sơ sơ đã hiện ra, ít nhất qua cách sử dụng ngôn từ, bốn điểm không giống nhau. Biết nói sao đây vì tôi không phải là học giả ngôn ngữ, mà là "học thiệt" nên đành bó tay. Dùng sự khác biệt nơi ngôn từ được sử dụng để nối kết sự thể có thể nên được để ý hầu nói lên mối liên hệ nhận thức về đức tin một cách hợp lý và hợp tình hơn, may ra có được nhận thức rõ ràng, đúng đắn về thực thể đức tin, lòng tin. Qua phúc âm, "Đức tin con cứu con," hay, "Lòng tin con cứu chữa con," "Ông đã muốn sao thì hãy được như vậy," những lời phân định này nói lên đức tin, lòng tin tự mang năng lực, quyền lực chữa lành. Năng lực, quyền lực này tất nhiên tự nơi ông, con, bà. Vậy sao một người có thể có năng lực, quyền lực này? Đọc phúc âm, nếu để ý, dẫu mục đích cuộc đời của đức Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời, nhưng cao điểm của phúc âm lại là đức tin, lòng tin. Điều hơi lạ, hơi đáng ngạc nhiên, lại là không có bất cứ định nghĩa nào về Tin Mừng Nước Trời cũng như định nghĩa của lòng tin, đức tin nơi phúc âm. Chỉ có một định nghĩa mù mờ về đức tin nơi thư gửi tín hữu Hipri, nếu thử phân tích, phân cốc, không biết ai thì sao, riêng tôi rơi vào trường hợp, "Không cho nói thì mếu, cho nói thì khóc" mà thôi. Thử nghiệm xét, "Tin là cách chiếm hữu những điều còn trong hy vọng, là phương thức nhận thức các thực tại người ta không thấy; vì nhờ đó các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám cho" (Hipri 11:1). "Tin là cách chiếm hữu những điều còn trong hy vọng." Chiếm hữu là có được, chắc chắn thuộc về của mình và mình biết rõ nó là gì, sử dụng thế nào, và nói theo kiểu bình dân, muốn làm gì với nó thì làm. Thích thì kè kè bên hông để sử dụng; không thực dụng thì bỏ vào tủ kiếng để khoe cho vui, hay để có cảm giác mình là thế nọ, thế kia. Nói rằng tin mình là triệu phú trong khi lục rách cả túi nọ, túi kia, vẫn chẳng thấy gì thì mình có thực sự là triệu phú không? Vậy nói "Tin là cách chiếm hữu" thì có nghĩa chỉ là mộng tưởng chăng? Tôi đã thưa trước rồi mà, mới gõ bàn phím chữ được mấy câu đã muốn bật khóc rồi bởi thay vì chiếm hữu, chợt trở thành mộng tưởng. "Những điều còn trong hy vọng;" quả là mông lung, mù mờ, đánh lận con đen; bởi cho rằng hy vọng của mọi người giống nhau hay ít nhất giống điều thánh thiện nào đó mình đang mong muốn, ước mơ! Blair Pascal có câu nói ít ai dám nghĩ tới, "Người đâu phải là vị thánh, cũng đâu phải là con thú. Và bất hạnh thay, kẻ muốn làm thánh lại làm con thú." (Cái Cười của Thánh Nhân; Thu Giang Nguyễn Duy Cần; Đại Nam xuất bản; CA, USA;?; Tr. 397). Chính ước muốn, thú tính của mình làm khốn khổ mình. Thử hỏi, hy vọng của bạn là gì? Nếu "Tin là cách chiếm hữu những điều còn trong hy vọng" thì tin đối với bạn ra sao? Chiếm hữu được chưa? Vậy cách chiếm hữu này ra sao? Câu nói nếu không rỗng tuếch, mù mờ, thì chỉ là hy vọng hão huyền. Hãy cứ có cả triệu hy vọng, ôm ấp lấy nó và chết đói với nó! Đúng là thua chén cơm nguội khi đói lòng. "Là phương thức nhận thức các thực tại người ta không thấy;" bản dịch tiếng Anh gọi "Phương thức nhận thức" là "Conviction;" tự điển trên net giải thích, "a firmly held belief or opinion." Nơi The Merriam-Webster Dictionary giải thích, "The state of being convinced." Nói rằng là "Phương thức nhận thức" nghĩa là sao? Không nói về tâm linh, hãy nói hữu vi, tin mình có tiền, "phương thức nhận thức" mình có tiền thì có tiền được chăng? Phương chi nói về "Thực tại người ta không thấy!" Giời ạ! Chỉ tin mà có thể nhận biết thực tại người ta không thấy, thực tại tâm linh, thì lại càng mông lung, mộng tưởng. Tin rằng mình có linh hồn mà không biết linh hồn mình là gì, hình dáng ra sao, màu xanh đỏ tím vàng thì tin này được hiểu như thế nào dẫu mình có linh hồn. Vậy, đã không biết gì về linh hồn của mình, chỉ tin mình có, mà mong giúp đỡ hay cứu vớt các linh hồn thì giúp cái gì. Muốn khóc thét lên cho đỡ tức mà khóc không được, càng phiền hơn! Không hiểu cái định nghĩa này nơi thư Hipri có thể làm sáng tỏ, làm bạn nắm bắt được đức tin, lòng tin của bạn hay chăng; riêng đối với tôi, nó chỉ là lý thuyết giả tưởng của một tâm hồn mộng tưởng; nói mà không biết mình nói chi. Nơi phúc âm, chỉ đức Giêsu năm lần, bẩy lượt minh xác đức tin, lòng tin nơi một người cứu, chữa, họ, hay cho người được họ cầu xin cho, (Mt. 8:13; 9:29: 15:28: Lc. 8:48: 17:19). Đức Giêsu không bao giờ nói Ngài chữa hay Chúa cứu, mà đức tin, lòng tin. Chỉ có các học giả Kinh Thánh, hoặc chúng ta hô lên Chúa chữa, Chúa cứu, Chúa làm phép lạ trong khi không nhận ra phép lạ đang xảy ra nơi mình từng giây, từng phút. Quái, không nhận ra phép lạ nơi mình mà cứ tuyên dương, tuyên xưng, phép lạ nơi khác thì thực trạng tâm hồn của mình là thế nào. Không biết linh hồn mình là gì, thế nào mà sao cứ muốn cứu rỗi các linh hồn khác, thì cứu cái gì? Không biết Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là gì mà cứ hô lên, khuyến khích người khác rao giảng Tin Mừng nghĩa là làm sao? Chỉ Chúa Giêsu minh xác về đức tin, lòng tin cứu chữa; trong khi mục đích cuộc đời của Ngài là rao giảng Tin Mừng (Lc. 4:43; Mc. 1:38; Mt. 4:23), và sai các môn đồ ra đi cũng chỉ để rao giảng Tin Mừng (Mt. 10:7; Lc. 10:9). Tất nhiên, ít nhất phải có sự liên đới nào giữa Tin Mừng và đức tin, hay còn được gọi lòng tin. Vậy Tin Mừng Nước Trời là gì, liên hệ thế nào với đức tin, lòng tin? Đặt vấn đề như vậy, trước tiên, cần nhận biết Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là gì. Để quí vị đỡ tốn công lục lọi nơi phúc âm, tôi xin được nhắc lại; không có bất cứ định nghĩa nào về Tin Mừng nơi phúc âm mà chỉ có định vị của Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa được phúc âm định vị như sau: "Biệt phái thỉnh vấn Ngài: bao giờ Nước Thiên Chúa đến, Ngài đáp lời và nói: "Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được: "Này ở đây" hay: "Ở đó" vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông".(Lc. 17:20-21). "Ví bằng Ta nhờ Thần khí Thiên Chúa mà trừ quỉ, thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi" (Mt. 12:28). Không hiểu sao Kinh Thánh Tân Ước 1994 dịch câu Lc. 17:20-21, thành ở giữa các ông; trong khi bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn lại viết, "Vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông." Dẫu biết rằng "Được ý quên lời," nhưng "ở giữa các ông" và "ở trong các ông" có sự sai biệt lớn lao nơi ý nghĩa. Ý nghĩa "Ở trong các ông" dẫn đến mức độ nào đó đồng ý nghĩa với câu nói nơi thư thứ nhất thánh Phao Lô gửi tín hữu Côrinthô, "Anh em không biết sao, anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thần khí Thiên Chúa ngự trong anh em?" (Khai Phá Tin Mừng; Tr. 289). Tôi không muốn "Bới bèo ra bọ," chỉ muốn tìm kiếm sự liên hệ giữa Tin Mừng Nước Thiên Chúa được đức Giêsu rao giảng và đức tin, lòng tin, được Ngài minh xác nên đặt vấn đề về ngôn từ được dùng nơi những bản dịch tiếng Việt trong khi thấy nơi những bản dịch tiếng Anh, các dịch giả, học giả dẫu khác nhau về thời điểm sống cũng như nơi chốn, họ dùng ngôn từ tương đối đồng nhất hơn. Như thế, nói rằng, "Nước Thiên Chúa ở giữa các ông, ở trong các ông, hay ở trên các ông," thì có nghĩa đều liên hệ tới con người, đều nằm gọn nơi ngôn từ "Emmanuel," "Thiên Chúa ở cùng chúng ta." Hơn kém hai ngàn năm qua, hàng ngày, hàng giờ, khắp nơi trên thế giới, câu, "Chúa ở cùng anh chị em" dẫu được phát biểu nơi bất cứ ngôn ngữ nào, và được trả lời, "Và ở cùng cha, thày" được thể hiện; nếu không nói ngoa, những người tham dự, tuyên xưng câu đối đáp này đã vô tình không để ý mình đang nói, đang tuyên dương, tuyên xưng gì. "Chúa ở cùng anh chị em; và ở cùng cha, thày" nếu để ý, mang nghĩa, Chúa ở cùng quí vị, ở cùng tôi, ở nơi mọi người, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Thiên Chúa hiện diện và hoạt động nơi tôi, nơi ông bà, nơi bất cứ ai; Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài; Thiên Chúa hiện thể nơi mỗi người; Thiên Chúa chính là sự sống, sự hiện hữu nơi mọi người; Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chính vì Thiên Chúa ngự trị nơi mình, đức tin, lòng tin là năng lực, quyền lực của Thiên Chúa, quyền lực, năng lực sự sống, sự hiện hữu nơi mình. Thế nên nói Chúa chữa, Chúa cứu, cũng chính là nói đức tin, lòng tin, cứu, chữa. Cùng một sự thể, chỉ khác lối phát biểu. Bởi vậy, nhận biết Tin Mừng mới có thể nhận biết đức tin, lòng tin là gì, mới có thể nhận biết phép lạ đã và đang xảy ra nơi mình bất cử giây phút nào. Con tim ngưng đập chỉ vài giây, và thế là tá hỏa tam tinh, muốn nói gì, nghĩ gì cũng không thể được. Đọc nơi đạo học Đông Phương, người ta gọi linh hồn là Thượng Đế nội tại, nào có chi khác biệt. Có khác chăng, chỉ khác ngôn từ. Đức tin, lòng tin, chính là năng lực, quyền lực sự sống, năng lực sự hiện hữu nơi mỗi người dẫu nhận biết hay không.