← Quay lại trang sách

Hồi 46 Ngàn dặm cột buồm ra ngoại vực-Chín trời mưa gió tới đầu thành

dịch giả: cao tự thanh

Hồi 46

ngàn dặm cột buồm ra ngoại vực
chín trời mưa gió tới đầu thành

hi ngẩng đầu lên nhìn ra biển, chỉ thấy khoảng mười chiếc thuyền lớn đang giương buồm thuận gió lướt mau vào đảo. Vi Tiểu Bảo thấy tình thế không hay, giật mạnh một cái, không giật được lưỡi câu ra, mà lại móc vào sau cổ đau nhói lên, lập tức sải chân chạy mau, mặc chiếc cần câu kéo xềnh xệch sau lưng, nghĩ thầm chắc là thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng đem quân tới trả nợ, trả nợ vốn là rất tốt nhưng người mắc nợ tìm tới cửa mà trước tiên lại bắn vài phát pháo, khí thế hung dữ, ắt không phải là điều hay.

Y còn chưa chạy tới trước nhà, Bành Tham tướng đã thở hổn hển chạy tới nói “Vi... Vi Tước gia... chuyện... chuyện lớn không hay, binh thuyền Đài Loan kéo tới”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Sao ngươi biết là binh thuyền Đài Loan?”. Bành Tham tướng nói “Ty chức vừa... Vừa lấy kính thiên lý ra nhìn, ở đuôi... đuôi thuyền... không phải, ở đầu thuyền sơn hình nhật nguyệt, đều là huy hiệu của nghịch... nghịch tặc họ Trịnh ở Đài Loan, mỗi chiếc cũng phải chở tới năm trăm quản, hai chiếc hai ngàn, ba chiếc cũng phải có tới sáu bảy ngàn...”.

Vi Tiểu Bảo đón lấy chiếc kính thiên lý trong tay y nhìn ra, đếm qua thấy tất cả có mười ba chiếc thuyền lớn, lại nhìn kỹ đầu thuyền, quả nhiên rõ ràng sơn huy hiệu mặt trời và mặt trăng, bèn quát “Mau đem quân bố phòng, giữ trên bờ biển, lúc địch nhân cưỡi thuyền nhỏ lên bờ thì phát lên”. Bành Tham tướng luôn miệng vâng dạ, sải chân chạy mau đi.

Bọn Tô Thuyên nghe thấy đều đổ ra, chỉ nghe tiếng pháo bình bình bình vang tới. Công chúa nói “A Kha muội tử, lúc ngươi đi Đài Loan có mang Hổ Đầu theo không?”. A Kha tức giận giẫm chân nói “Ngươi... ngươi đùa gì thế?”.

Vi Tiểu Bảo càng thêm bực dọc, chửi “Để công chúa thối tha mang Song Song của thị đi Đài Loan...”

Tô Thuyên chợt nói “Này, tại sao đạn pháo rơi xuống biển mà không thấy có cột nước?”. Chợt nghe bình bình hai tiếng, miệng pháo khói tỏa mù mịt, nhưng không có đạn pháo bắn lên bờ, cũng không có đạn pháo rơi xuống biển. Vi Tiểu Bảo thoáng sửng sốt, hô hô cười rộ, nói “Đây là pháo chào, không phải là tới làm khó chúng ta”. Công chúa nói “Tiên lễ hậu binh thôi!”. Vi Tiểu Bảo tức giận nói “Con a đầu Song Song đâu? Mau qua đây, lão tử muốn đánh vào mông nó”. Công chúa nói “Tại sao bỗng không lại đánh con gái?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ai bảo mẹ nó đáng ghét!”.

Thuyền dần dần tới gần, nhìn qua kính thiên lý thấy rõ ràng, trên thuyền kéo cờ rồng vàng Đại Thanh chứ không phải cờ nhật nguyệt Đài Loan. Vi Tiểu Bảo vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, đưa kính thiên lý cho Tô Thuyên, nói “Cô nhìn xem, thật kỳ lạ!”.

Tô Thuyên nhìn một lúc, mỉm cười nói “Đây là thủy sư của Đại Thanh, không phải của Đài Loan”.

Vi Tiểu Bảo đón ống kính nhìn tiếp, cười nói “Đúng rồi, quả thật là thủy sư của Đại Thanh. Ái chà, làm gì thế? Con mẹ nó đau quá!”. Quay đầu lại nhìn, té ra Vi Hổ Đầu mà A Kha bế đang nắm chặt cần câu ra sức kéo, lưỡi câu còn móc vào cổ Vi Tiểu Bảo, tự nhiên khiến y đau nhói lên. A Kha nhịn cười, vội nhẹ nhàng gỡ lưỡi câu ra cho y, cười nói “Xin lỗi, đừng giận”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Thằng con ngoan, mới bấy nhiêu tuổi đã có thủ đoạn của Khương Thái công, giỏi quá!”.

Công chúa hừ một tiếng, mắng “Đồ thiên vị!”.

Chỉ thấy Bành Tham tướng sải chân chạy tới kêu lên “Vi Tước gia, trên thuyền treo cờ hiệu Đại Thanh, e là có chuyện gian trá”. Vi Tiểu Bảo nói “Không sai! Chỉ cho một thuyền nhỏ chở người lên đảo, hỏi cho rõ ràng rồi sẽ nói chuyện”. Bành Tham tướng vâng lệnh chạy đi.

Công chúa nói “Nhất định là thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng giả treo cờ hiệu Đại Thanh, đây rõ ràng là thuyền Đài Loan mà”. Vi Tiểu Bảo nói “Tốt lắm, tốt lắm. Công chúa, gần đây dung mạo cô xinh đẹp lắm”, công chúa sửng sốt, nghe chồng khen mình, cũng không kìm được vui vẻ, cười khẽ nói “Thì cũng như thế, có gì đẹp hơn đâu?”. Vi Tiểu Bảo nói “Cô môi hồng mặt trắng, lông mày cong vút, giống như Hằng Nga trong Nguyệt điện xuống trần, Trịnh Khắc Sảng mà nhìn thấy nhất định sẽ rất vui vẻ”. Công chúa phì một tiếng.

Không bao lâu thuyền tới gần, buông neo đậu lại, sáu bảy tên quân thủy chèo một chiếc thuyền nhỏ vào bờ. Bành Tham tướng chỉ huy quân sĩ, giương cung lắp tên chĩa vào chiếc thuyền nhỏ. Chiếc thuyền nhỏ tới gần, người trong thuyền đưa loa lên miệng gọi “Thánh chỉ tới! Thủy sư Đề đốc Thi Quân môn truyền chỉ cho Vi Tước gia”.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, chửi “Con mẹ nó, thằng đầy tớ Thi Lang này giở trò quái gì mà lại ngồi chiến thuyền Đài Loan tới truyền chỉ. Tô Thuyên nói “Chắc là y trên biển gặp thủy sư Đài Loan, đánh nhau thắng được nên đem cả chiến thuyền Đài Loan bắt được tới đây”. Vi Tiểu Bảo nói “Nhất định là thế. Thuyên tỷ tỷ đoán việc như thần”.

Công chúa vẫn không phục, lẩm bẩm “Ta đoán là Thi Lang đầu hàng Đài Loan, Trịnh Khắc Sảng phái y tới giả truyền thánh chỉ, Vi Tiểu Bảo trong lòng vui mừng, cũng không trách mắng nữa, véo mông nàng một cái, vỗ một cái, vội vã đi xuống bãi biển tiếp chỉ.

Trong chiếc thuyền nhỏ tới quả nhiên có Thi Lang. Y đứng trên bãi cát, cao giọng tuyên chỉ. Nguyên là Khang Hy sai Thi Lang tấn công Đài Loan, trong trận Bành Hồ, thủy sư quân Trịnh đại bại, Thi Lang thừa thắng tiến vào Đài Loan. Diên Bình quận vương Trịnh Khắc Sảng của nhà Minh không đánh mà hàng, từ đó Đài Loan thuộc về bản đồ Đại Thanh. Khang Hy luận công ban thưởng, vì Thi Lang năm xưa nhàn rỗi ở Bắc Kinh không được dùng, nhờ Vi Tiểu Bảo tiến cử mà lập được đại công, nên đặc biệt thăng Vi Tiểu Bảo làm Nhị đẳng Thông Ngật hầu, gia hàm Thái tử Thái bảo, con trưởng là Vi Hổ Đầu được ấm thụ hàm Khinh xa Đô úy.

Vi Tiểu Bảo tạ ơn xong, thẫn thờ như bị mất vật gì, không nghĩ rằng Đài Loan đã bị Thi Lang bình định.

Y và Trịnh Khắc Sảng vừa gặp mặt là thành kẻ thù, sư phụ Trần Cận Nam lại bị Trịnh Khắc Sảng hại chết, lại càng căm hận thấu xương, nhưng Đài Loan vừa bình định xong, thiên hạ của nhà Đại Minh từ đó trở đi không còn tấc đất nào, cũng không khỏi có chỗ bâng khuâng. Y tuy còn nhỏ tuổi, trước nay không đọc sách, chuyện phân biệt Mãn Hán, mối thù quốc tộc gì gì đó trước nay không hề để ý, chỉ là theo Thiên Địa hội đã lâu, ngày thường nghe các huynh đệ trong hội nói rất nhiều, tự nhiên cũng cảm thấy người Mãn Châu chiếm cứ giang sơn của người Hán chúng ta là mười phần không đúng. Lúc ấy nghe nói Thi Lang đã giải Trịnh Khắc Sảng về Bắc Kinh, lại hoàn toàn không thấy vui mừng. Lại nhớ tới sư phụ suốt đời hết lòng kiệt sức, chỉ mong khôi phục thiên hạ của Đại Minh, cho dù không thành công cũng phải giữ gìn một mảnh đất của Đại Minh ngoài biển, nào ngờ sư phụ bị hại chưa bao lâu, Trịnh Khắc Sảng đã lập tức đầu hàng, sư phụ dưới suối vàng mà biết được, nhất định sẽ khóc lớn.

Vi Tiểu Bảo nhớ tới hôm trước sư phụ bị hại, cũng là vì sau khi ra sức đánh nhau với Thi Lang vô cùng mỏi mệt mới bị Trịnh Khắc Sảng ám toán sau lưng, thấy Thi Lang dáng vẻ nghênh ngang tự đắc, bất giác khí tức đầy ruột, nói “Thi đại nhân lập được công lớn này, chắc nhất định đã được phong làm quan lớn”. Thi Lang mỉm cười nói “Đội ơn hoàng thượng, phong ty chức làm Tam đẳng Tịnh Hải hầu”. Vi Tiểu Bảo nói “Chúc mừng, chúc mừng”. Nghĩ thầm “Mình vốn là Nhất đẳng Thông Ngật bá, nếu thăng một cấp là Tam đẳng Thông Ngật hầu, tiểu hoàng đế thăng luôn hai cấp, là muốn mình vẫn hơn Thi Lang, để hai người không phải đều là Tam đẳng hầu, khỏi phải khó xử”. Nhưng nghĩ tới Thi Lang đại chiến bình định Đài Loan, tình cảnh nhiệt náo tới mức nào, mà mình thì ngồi buồn chán trên cái đảo hoang Thông Ngật này, vừa ghen tỵ vừa phiền muộn, bất giác càng ngứa miệng với y.

Thi Lang thỉnh an, rồi cung cung kính kính nói “Hoàng thượng triệu kiến ty chức, ôn tồn phủ dụ, khen ngợi một hồi, sau cùng nói: Thi Lang, ngươi lần này ra quân lập công, có biết là ai tài bồi đề bạt cho ngươi không? Trước đây ngươi ở Bắc Kinh, không ai coi ngươi ra gì, là ai tiến cử ngươi thế? Ty chức tâu: Bẩm hoàng thượng, đây là Vi Tước gia bảo tấu đề bạt, hoàng thượng ban ơn. Hoàng thượng nói: Ngươi không quên gốc, như thế là được. Ngươi lập tức tới đảo Thông Ngật tuyên chỉ cho Vi Tước gia, ban ơn thăng tước, thưởng y sáng suốt biết người, lập công với triều đình. Cho nên ty chức vội vàng tới đây”.

Vi Tiểu Bảo thở dài một tiếng, nghĩ thầm “Người mình đề bạt thì lập công, chỉ có mình thì bị giam cầm trên cái đảo hoang này không nhích chân được một bước. Tiểu hoàng đế không ngừng thăng quan tước cho mình, nhưng cho dù mình được phong tới Thông Ngật vương, thì cũng có gì quý báu?”. Liền nói “Thi đại nhân, ngươi cưỡi chiến thuyền Đài Loan tới làm ta phát hoảng, cứ tưởng thủy sư Đài Loan tới đánh, nào ngờ là ngươi diễu võ dương oai”.

Thi Lang vội vàng thỉnh an, nói “Không dám, không dám. Ty chức phụng thánh chỉ, vội vàng tới gặp Tước gia, chiến thuyền Đài Loan chế tạo rất tốt, đi biển nhanh hơn nhiều, nên mới đi chiến thuyền Đài Loan tới đây”.

Vi Tiểu Bảo nói “Té ra chiến thuyền Đài Loan đi rất nhanh, nên trên đầu thuyền sơn huy hiệu mặt trời mặt trăng. Lúc nãy trong lòng ta lại đoán bậy, chỉ cho rằng Thi đại nhân muốn tự lập làm vương ở Đài Loan, nên nói thật cũng rất lo sợ”.

Thi Lang giật nảy mình, vội nói “Ty chức thật là hồ đồ, đại nhân chỉ điểm rất đúng. Ty chức làm việc sơ suất, không xóa huy hiệu trên chiến thuyền Đài Loan đi”. Thật ra đây không phải là y sơ suất, mà là y bình định được Đài Loan, muôn phần đắc ý, cưỡi chiến thuyền bắt được của Đài Loan bắc tới Thiên Tân, nam tới đảo Thông Ngật, cố ý không xóa huy hiệu Đài Loan trên đầu thuyền, để mọi người nhìn thấy là chỉ trỏ, kể lại lai lịch của chiến thuyền này, có ý khoe khoang chiến công. Không ngờ Vi Tiểu Bảo lại nói là ngờ vực y có ý tự lập làm vương ở Đài Loan, đây là chuyện tối kỵ, bất giác lưng toát mồ hôi lạnh, nghĩ thầm “Tiểu hoàng đế đối với gã thiếu niên này thủy chung mười phần sủng ái, mình thì huyết chiến mới bình định được Đài Loan, y thì nhàn nhã ngồi chơi trên đảo mà công lao vẫn lớn hơn mình, y được phong là Nhị đẳng hầu, mình thì chỉ được phong là Tam đẳng hầu. Nếu y trở về Bắc Kinh, thừa hơi nói mấy câu trước mặt hoàng thượng, thì thật là mình hỏng bét”.

Thi Lang trong lòng hoảng sợ, lập tức thu hết dáng vẻ oai vệ lúc mới bước chân lên đảo, sai bọn thuộc quan tùy tùng bước lên bái kiến. Trong đó có một người Vi Tiểu Bảo vốn rất quen, là Lâm Hưng Châu hảo thủ Địa Đường môn năm xưa theo Trần Cận Nam tới Liễu Châu. Vi Tiểu Bảo trong lòng thoáng sửng sốt “Y là tướng lãnh của Đài Loan, tại sao lại là thủ hạ của Thi Lang?”, nghe y tự báo chức hàm là Thủy sư Đô ty.

Lâm Hưng Châu từ lúc lên bờ nhìn thấy Vi Tiểu Bảo rồi, đã sớm kinh nghi bất định “Y là đệ tử của Trần quân sư, tại sao lại làm đại quan của triều đình, ngay cả Thi Đề đốc gặp y cũng cung kính như thế?”.

Thi Lang chỉ Lâm Hưng Châu và một người tên Hồng Triều làm Thủy sư Thủ bị, nói “Lâm Đô ty và Hồng Thủ bị vốn trong quân đội Đài Loan theo Trịnh Khắc Sảng Tước gia và Lưu Quốc Hiên đại nhân về hàng triều đình. Hai người này am hiểu chuyện trên biển, vì thế lần này ty chức đưa họ cùng đi, để hai người bọn họ lo liệu chiến thuyền Đài Loan”.

Vi Tiểu Bảo ồ một tiếng, nói “Té ra là thế”. Thấy Lâm Hưng Châu và Hồng Triều đều cúi đầu, trên mặt có vẻ xấu hổ.

Đài Loan từ sau khi Trịnh Thành Công khai phủ, thông thương với Nhật Bản, Lữ Tống, Tiêm La, An Nam, vô cùng giàu có. Thi Lang bình định được Đài Loan, lấy được rất nhiều trân châu dị vật của nước ngoài, mình không lấy một món, đều nộp hết lên cho triều đình. Khang Hy sai y mang một ít tới ban thưởng cho Vi Tiểu Bảo. Ngoài ra Thi Lang cũng có lễ vật của mình, nhưng toàn là thổ sản của Đài Loan như giỏ tre chiếu tre, đều là những vật thô lậu. Vi Tiểu Bảo vừa nhìn thấy, lại càng bực tức, nghĩ thầm “Trương đại ca, Triệu nhị ca, Vương tam ca, Tôn tứ ca đánh được Ngô Tam Quế, lễ vật tặng ta hậu hĩ thế nào, còn ngươi thì đem những thứ rách nát của bọn ăn mày cho ta, ta lại thèm để vào mắt à?”.

Chiều hôm ấy Vi Tiểu Bảo mở tiệc, mời Thi Lang ngồi ghế đầu, ngoài ra có bốn viên võ quan chức cao trong thủy sư cùng Lâm Hưng Châu và Hồng Triều. Rượu được ba tuần, Vi Tiểu Bảo hỏi “Lâm Đô ty, Diên Bình quận vương ở Đài Loan vốn là Trịnh Kinh Trịnh vương gia, tại sao lại biến thành thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng? Nghe nói y là con thứ hai của Trịnh vương gia, thì đâu tới lượt y làm vương gia?”.

Lâm Hưng Châu nói “Vâng. Bẩm Tước gia, ngày hai mươi tám tháng giêng năm nay Trịnh vương gia tạ thế, di mệnh đại công tử Khắc Bân nối ngôi. Đại công tử anh minh cương nghị, trước nay quân dân Đài Loan vốn vẫn kính phục. Nhưng Thái phu nhân Đổng quốc thái lại không thích y, sai Phùng Tích Phạm hành thích, giết chết y, lập nhị công tử Khắc Sảng nối ngôi. Trần phu nhân của đại công tử tới gặp Đổng quốc thái nói đại công tử vô tội. Đổng quốc thái cả giận, sai người đuổi ra, Trần phu nhân ôm xác đại công tử khóc lớn một hồi rồi treo cổ tự tử. Vị Trần phu nhân này chính là đại tiểu thư của Trần... Trần quân sư. Chuyện này thì người Đài Loan trên dưới ai cũng rất không phục”.

Vi Tiểu Bảo nghe nói con gái của sư phụ bị người ta bức tử, nhớ tới sư phụ, trong lòng chua xót, đập bàn một cái chửi “Con mẹ nó, thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng tầm thường hồ đồ, làm sao làm được vương gia?”.

Lâm Hưng Châu nói “Vâng. Nhị công tử lên ngôi rồi, phong nhạc phụ của y là Phùng Tích Phạm làm Tả Đề đốc, tất cả chính sự đều giao cho y xử lý. Người này xử sự không công bằng, luôn theo ý riêng. Có người to gan nói mấy câu công đạo đều bị y giết chết, vì thế văn võ bá quan đều dám giận không dám nói. Hồn ma của đại công tử và Trần phu nhân lại thường hiển linh, đến tháng tư, Đổng quốc thái bị hồn ma dọa nạt mà chết”.

Vi Tiểu Bảo nói “Khoái thật, khoái thật. Mụ Đổng quốc thái ấy xuống tới suối vàng, Quốc tính gia cũng không thể tha cho thị”. Lâm Hưng Châu nói “Ai nói là không phải. Chuyện Đổng quốc thái bị hồn ma dọa chết đồn ra, mọi người đều hả dạ, cả Đài Loan từ bắc tới nam, mọi người đốt pháo suốt ba ngày, nói là để xua đuổi tà ma, nhưng thật ra là ăn mừng mụ già ấy chết!”, Vi Tiểu Bảo luôn miệng nói “Thú vị thật, thú vị thật!”.

Thi Lang nói “Chuyện hồn ma cũng chưa chắc có thật, chắc sau khi Đổng quốc thái giết chết cháu nội trưởng, bức tử cháu dâu trưởng, trong lòng bất an, người già lòng sợ sinh ma, nên ngày đêm thấy ma”. Vi Tiểu Bảo nghiêm trang nói “Ma quỷ là chuyện có thật, nhất là những người chết oan, sau khi thành ma rồi, nhất định sẽ đòi mạng trả thù. Thi đại nhân, lần này ngươi bình định Đài Loan giết người rất nhiều, trong những chiến thuyền Đài Loan này nhất định có rất nhiều ma, Thi đại nhân nên cẩn thận là hay”, Thi Lang hơi biến sắc, nhưng lập tức cười nói “Ra trận đánh nhau, không thể không giết người. Nếu quân tướng địch nhân chết trận đều biến thành ma quỷ đòi mạng, thì tất cả các võ tướng đều không ai được chết yên lành”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Không phải thế. Thi đại nhân vốn là đại tướng bộ hạ của Quốc tính gia ở Đài Loan, lại trở lại giết chết tướng sĩ Đài Loan, những hồn ma đã chết đương nhiên trong lòng không phục. Chuyện này khác với các tướng quân khác chứ”.

Thi Lang im lặng, trong lòng rất bực tức. Y là người Tấn Giang Phúc Kiến, bộ thuộc của Trịnh Thành Công mười người thì có tám chín là người Phúc Kiến, nhất là người vùng Mân Nam. Y bình định được Đài Loan rồi, đã nghe không ít lời đồn đại, chửi y là Hán gian, Mãn gian, lại có người làm văn chương nặc danh, làm thơ chửi mắng châm chọc y.

Y vốn trong lòng cũng hổ thẹn, chỉ là dám giữa mặt châm chọc thế này thì chỉ có một mình Vi Tiểu Bảo.

Y với Vi Tiểu Bảo thì không biết làm sao, lập tức trút giận qua Lâm Hưng Châu, trừng mắt nhìn y một cái, nghĩ thầm “Rời khỏi đảo này, lão tử sẽ cho ngươi biết tay”.

Vi Tiểu Bảo nói “Thi đại nhân, ngươi thật may mắn, nếu Trần quân sư chưa bị hại, giúp đỡ Trịnh Khắc Bân ở Đài Loan, thì bọn Đổng quốc thái, Trịnh Khắc Sảng sẽ không cướp ngôi được. Trần quân sư thống suất quân dân Đài Loan cố thủ, trên dưới một lòng, chưa chắn ngươi đã thành công được”.

Thi Lang im lặng, nghĩ tài năng của mình quả thật còn thua xa Trần Cận Nam, nếu người này không chết, cục diện tự nhiên sẽ khác.

Hồng Triều đột nhiên nói chen vào “Vi Tước gia nói rất đúng. Tướng sĩ bách tính Đài Loan cũng đều nói thế. Mọi người oán hận Trịnh Khắc Sảng giết hại trung thần, tự phá bức trường thành, đúng là con cháu bất tiếu của Quốc tính gia”, Thi Lang tức giận nói “Hồng Thủ bị, người đã hàng nhà Đại Thanh, tại sao còn nói những lời đại nghịch bất đạo như thế?”. Hồng Triều vội đứng lên, nói “Ty chức hồ đồ, xin đại nhân thứ lỗi”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hồng lão huynh, ngươi ăn nói thành thật, cho dù hoàng thượng nghe được cũng không trách tội. Ngồi xuống uống rượu đi”, Hồng Triều nói “Vâng”. Rồi run run ngồi xuống, nhấc chén rượu lên, hai tay không ngừng run lên, rượu sánh ra ngoài mất quá nửa.

Vi Tiểu Bảo nói “Trần quân sư bị Trịnh Khắc Sảng hại chết, người Đài Loan đều biết, phải không?”. Hồng Triều nói “Vâng. Trịnh Khắc Sảng về tới Đài Loan y... y nói Trần quân sư... bị... bị...”, rồi nhìn Thi Lang một cái, không dám nói tiếp. Vi Tiểu Bảo nói “Chỉ cần ngươi nói sự thật, thì không ai trách ngươi”. Hồng Triều nói “Vâng, vâng. Trịnh Khắc Sảng và Phùng Tích Phạm hai người mang mấy tên vệ sĩ, ngồi thuyền nhỏ trôi dạt trên biển, gặp thuyền đánh cá, được họ cứu về Đài Loan. Trịnh Khắc Sảng nói Trần quân sư bị Thi tướng quân giết chết. Trịnh vương gia được tin, đau xót khóc lóc suốt mấy hôm. Về sau Trịnh Khắc Sảng soán ngôi rồi mới nói ra với mọi người, rằng Trần quân sư là do y giết chết, còn khoe khoang võ công của mình cao cường. Trong bộ hạ của Trần quân sư có rất nhiều người không phục, tới chất vấn y là Trần quân sư phạm tội gì, đều bị Phùng Tích Phạm sai người bắt giết”.

Vi Tiểu Bảo dằn mạnh chén rượu trong tay xuống bàn, chửi “Con bà nó chứ!”, đột nhiên hô hô cười rộ, nói “Hàng ngày chúng ta cứ chửi con bà người ta, bà người ta quả thật rất oan uổng, chỉ có bà Trịnh Khắc Sảng thì đúng là trời đất sinh ra vô cùng hiếm có, quả thật không có người thứ hai”.

Câu này Thi Lang vừa nghe thấy, lại cảm thấy mười phần khoan khoái. Sở dĩ y đắc tội với Trịnh Thành Công, cả nhà bị giết, đều là vì Đổng quốc thái gây ra, bèn nói “Vi Tước gia nói rất đúng, chúng ta đều chửi con bà nó. Quốc tính gia anh hùng hào kiệt, chuyện gì cũng tốt, chỉ là lấy nhầm người vợ này”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Người ngoài đều chửi con bà nó với Trịnh Khắc Sảng, nhưng trong thiên hạ chỉ có một mình Thi tướng quân là không chửi được. Công danh phú quý của Thi tướng quân đều là từ con mụ ấy mà ra đấy. Tuy cha mẹ vợ con ngươi đều bị thị giết, nhưng lại đổi được chức Thủy sư Đề đốc, tước Tam đẳng Tịnh Hải hầu thì chuyến làm ăn này kể ra cũng được”.

Thi Lang lập tức mặt mũi đỏ bừng, trong lòng giận dữ thầm chửi “Lão tử chửi con bà Vi Tiểu Bảo ngươi”, bèn cố nén giận, nhấc chén rượu lên uống một hớp lớn, nhưng hơi thở không thông, hớp rượu vừa xuống cổ, lập tức ho sặc lên một hồi.

Vi Tiểu Bảo nghĩ “Xem vẻ mặt ngươi thì trong lòng tự nhiên là đang chửi con bà ta, nhưng ngay cha ta là ai còn không rõ, thì bà nội ta là ai lại càng không rõ, ngươi muốn chửi con bà ta nhất định không chửi nhầm không xong. Trong lòng ngươi có quá nửa là muốn làm cha ta, vậy thì bà nội ta là mẹ ngươi, ngươi chửi con bà ta há không phải là chửi mẹ ngươi, một trường hồ đồ sao?”, rồi cười hề hề nhìn y.

Một viên Thủy sư Phó tướng họ Lộ trong tiệc sợ hai người bọn họ cãi nhau, bèn nói “Vi Tước gia, lần này Thi Quân môn bình định Đài Loan, toàn là dựa vào công lao liều mình tử chiến. Thi Quân môn vâng thánh chỉ, ngày bốn tháng sáu suất lãnh hơn sáu trăm chiến thuyền, hơn sáu vạn quân tấn công Đài Loan, trên biển gặp gió nghịch, đi mười một ngày mới tới Bành Hồ, ngày mười sáu đại chiến với thủy quân Đài Loan do Lưu Quốc Hiên thống lãnh, trận ấy quả thật đánh nhau mờ trời tối đất, mặt trăng mặt trời đều không còn ánh sáng, cả Thi Quân môn cũng...”.

Vi Tiểu Bảo thấy Lâm Hưng Châu và Hồng Triều đều cúi đầu, trên mặt có vẻ tức giận, đoán hai người này cũng có mặt trong trận Bành Hồ, nghĩ thầm trận này đương nhiên là Thi Lang thắng, không muốn Lộ Phó tướng nói chuyện đắc ý của y nữa, bèn hỏi “Thi tướng quân, năm xưa Quốc tính gia đánh lấy Đài Loan, cũng là bắt đầu từ Bành Hồ tấn công vào phải không?”. Thi Lang nói “Đúng thế”. Vi Tiểu Bảo nội “Lúc ấy ngươi là bộ hạ của Quốc tính gia, không biết đương thời đánh nhau ở Bành Hồ thế nào?”, Thi Lang nói “Bọn quỷ Hồng Mao không sai quân giữ Bành Hồ”.

Vi Tiểu Bảo hỏi Lâm Hưng Châu “Năm xưa Quốc tính gia ra biển đông chinh, nghe nói Lâm đại ca suất lĩnh quân khiên mây chém chân bọn giặc, không biết là chém thế nào?”. Lâm Hưng Châu nghĩ thầm “Chuyện quân khiên mây chém chân bọn giặc, mình đã kể cho y nghe rồi. Bây giờ y lại hỏi tới, tự nhiên là không muốn nghe trang sử xấu xa Thi Lang bình định Đài Loan, muốn mình nói sự tích anh hùng của Quốc tính gia và Trần quân sư. Chuyện của mình thì không nên nói nhiều, Thi Lang trong lòng căm hận, nhất định sẽ đối phó, chẳng bằng cứ tâng bốc y là hay”. Liền nói “Thi Quân môn hai lần tấn công Đài Loan, công lao quả thật rất lớn. Năm xưa Quốc tính gia tập hợp chư tướng bàn việc vượt biển đông chinh, rất nhiều tướng lĩnh đều nói Đài Loan hiểm trở khó đánh, sóng gió trên biển lại lớn, hỏa pháo của bọn quỷ Hồng Mao rất lợi hại, chuyện này quả thật rất nguy hiểm. Nhưng Trần quân sư và Thi tướng quân cực lực tán thành, rốt lại lập được công lớn”.

Thi Lang nghe y nói thế, trên mặt có vẻ tự đắc.

Lâm Hưng Châu lại nói “Đó là tháng hai năm Vĩnh Lịch thứ mười lăm...”

Thi Lang nói “Lâm Đô ty, niên hiệu nhà Tiền Minh không thể nói tới nữa, đó là năm Thuận Trị thứ mười tám nhà Đại Thanh”.

Lâm Hưng Châu nói “Vâng, vâng. Tháng hai năm ấy, Quốc tính gia dời đại bản doanh tới thành Kim Môn. Ngày mùng một tháng ba toàn quân làm lễ thệ sư tế biển. Ngày mùng mười, Quốc tính gia và Trần quân sư thống lãnh thân quân gồm chiến thuyền trong Tả Vũ vệ, Tả Hữu Hổ vệ, Kiêu kỵ trấn, Tả Tiên phong, Trung xung, Hậu vệ trấn, Tuyên Nghị Tiền Hậu trấn, Viện Tiễu Hậu trấn các lộ, tập hợp ở vũng Liệu La đợi gió. Lúc ấy lòng quân hoảng hốt, rất nhiều người sợ ra biển, Quốc tính gia và Trần quân sư, Thi tướng quân chia nhau tới các trấn khích lệ quân tâm. Đến trưa ngày hai mươi ba, trời mới yên tĩnh, sóng gió vừa yên, lúc ấy đại quân lên đường, trưa ngày hai mươi bốn thì tới Bành Hồ. Nhưng sau khi tới Bành Hồ lại có gió lớn, trên biển sóng nổi ầm ầm, mấy ngày không thể đi được. Các đảo ở Bành Hồ không có lương thực, trong quân thiếu lương, mọi người chỉ đành ăn khoai lang qua ngày, quân tâm lại náo động. Đến ngày ba mươi, quả thật không chờ được nữa, Quốc tính gia ra lệnh xuất phát, bất kể gió to sóng lớn cũng cứ đông chinh. Sau canh một đêm ấy trên súy hạm của Quốc tính gia kéo cờ súy lên, nổ ba phát pháo, chiêng trống cùng khua, chiến thuyền giương buồm tiến về phía đông. Lúc ấy mây đen đầy trời, sóng lớn trên biển như những hòn núi nhỏ xô tới trước thuyền, mưa to gió lớn, người nào cũng ướt đẫm, Quốc tính gia đứng ở đầu thuyền, tay cầm trường kiếm, quát lớn: Tận trung báo quốc, không sợ sóng gió! Mấy vạn tướng sĩ đồng thanh quát lớn: Tận trung báo quốc, không sợ sóng gió! Hô lớn mấy lần, át cả tiếng sóng gió”.

Vi Tiểu Bảo nhìn Thi Lang nói “Lúc ấy chắc Thi tướng quân cũng hô lớn chứ?”. Thi Lang nói “Lần ấy ty chức phụng mệnh trấn thủ Hạ Môn, không đi Đài Loan”, Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế, đáng tiếc, đáng tiếc!”.

Lộ Phó tướng nói “Trịnh vương gia tới Bành Hồ chẳng qua chỉ gặp sóng to gió lớn, nhưng Thi Quân môn huyết chiến ở Bành Hồ mới thật là kinh tâm động phách. Thủy sư do Lưu Quốc Hiên thống suất bố phòng ở vũng Ngưu Tâm, đảo Kê Lung trong Bành Hồ, trên bờ đắp lũy dài hai mươi dặm, mỗi lũy có một khẩu đại pháo. Lúc thủy sư Đại Thanh kéo tới, đại pháo trên bờ cùng bắn, lại có tên lửa, ống phun lửa, vô cùng lợi hại...”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Lộ Phó tướng, ta thấy ngươi cũng gan dạ không kém ta bao nhiêu”. Lộ Phó tướng nói “Không dám, ty chức làm sao dám sánh với Tước gia?”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Ngươi không bằng ta à?”, Lộ Phó tướng nói “Tự nhiên là không bằng”. Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện này mới lạ đây, ta lại cho rằng ngươi gan nhỏ như chuột, thật sai quá xa, té ra ngươi còn vô dụng hơn cả ta nữa, hô hô, kỳ lạ thật, kỳ lạ thật!”. Lộ Phó tướng đỏ bừng mặt, không dám lên tiếng.

Vi Tiểu Bảo hỏi Lâm Hưng Châu “Quốc tính gia thống lĩnh đại quân ra biển rồi, về sau thế nào?”.

Lâm Hưng Châu nói “Chiến thuyền đi hai canh trong sóng to gió lớn, đến canh ba thì đột nhiên sóng yên gió lặng, mây đen tan hết, lại qua một lúc, lại chuyển qua gió thuận, tướng sĩ reo hò như sấm, đều nói trời cao phù hộ, trận này ắt thắng. Vừa sáng ra, chiến thuyền tới ngoài cửa Lộc Nhĩ, dùng sào tre đo mức nước, không ngờ cát cao nước cạn, không sao tiến được. Quốc tính gia vô cùng lo lắng, bèn bày hương án cầu khẩn với trời, qua không bao lâu đột nhiên thủy triều dâng cao, chiến thuyền nhất tề vào cửa Lộc Nhĩ. Quân Hồng Mao trên bờ nổ pháo bắn ra. Quân Hồng Mao đắp hai tòa thành ở đó, một gọi là thành Nhiệt Lan Già, một gọi là Phổ La Dân Già...”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Tên đất của người ngoại quốc cũng cổ quái, cái gì mà Nhiệt Lai Già, Lãnh Lai Già, Nam vô Ba La Mật Đa Quan Thế m Bồ Tát già.

Lâm Hưng Châu mỉm cười nói “Lúc ấy Quốc tính gia dùng kính thiên lý nhìn ra, thấy chủ lực của quân Hồng Mao có hai chiến hạm, hai chiếc tuần dương hạm, còn có vài trăm chiếc thuyền nhỏ các đạo, lúc ấy bèn ra lệnh, sai Trấn đốc Trần Dịch suất lãnh chiến thuyền trấn Tuyên Nghị Tiền lên bờ ở cửa Lộc Nhĩ, giữ chặt bãi Bắc Sán đề phòng hạm đội của quân Hồng Mao tới cứu viện, sai Hoàng Chiêu mang năm trăm quân, hai mươi khẩu pháo liên hoàn chia làm ba đội tới bày trận ở bãi Côn Thân đóng ở phía nam quân địch, phái ty chức suất lãnh năm trăm quân khiên mây đi vòng qua thành Quỷ Tử đánh giết tới bên trái bãi Côn Thân, lại phái Tiêu Củng Chấn mang hai mươi khoái thuyền, vừa thấy hạm đội của quân Hồng Mao tới đánh Côn Thân thì giả như lên bờ đánh thành, lớn tiếng hò hét để cản trở. Các tướng được lệnh, chia nhau xuất phát, đại pháo trên thuyền cũng bắn trả. Bên kia Trần quân sư suất lãnh thủy sư bao vây đánh rát hai đại hạm của quân Hồng Mao, nổ pháo bắn rát, tiếng hò hét ầm ầm, trên mặt biển khói lửa mù mịt, đánh nhau hơn một giờ, chợt ầm ầm mấy tiếng vang rền, một đại hạm của quân Hồng Mao bị quân ta bắn chìm, về sau mới biết đó là chiếc Cụ Khắc Đức Á, là chiến hạm tinh nhuệ trong thủy sư Hồng Mao. Còn chiếc Mã Lợi Á kia cũng bị hỏng nặng, chạy ra biển lớn phía đông không biết đi đâu. Hai chiếc tuần dương hạm của quân Hồng Mao cũng rút lui. Lúc ấy huynh đệ do Tần Dịch suất lãnh đã gặp quân bộ của bọn quỷ Hồng Mao, người nào cũng ra sức xông lên, người Hồng Mao tuy súng đạn lợi hại nhưng thấy quân ta anh dũng xông lên, hoảng sợ không còn lòng dạ nào đánh nhau, thua chạy vào thành. Quân ta lên bờ ở Xích Khảm, đánh thẳng tới thành Phổ La Dân Già”

Vi Tiểu Bảo rót một chén rượu, hai tay bưng lên đưa qua Lâm Hưng Châu, nói “Lâm đại ca, đánh rất hay, ta kính ngươi một chén”[52].

Lâm Hưng Châu đứng lên đón lấy, cảm ơn uống cạn, rồi nói tiếp “Quân ta lên bờ ở Xích Khảm xong, người Trung Quốc ở đó nhao nhao tới đón mừng, rất nhiều người mừng quá phát khóc, đều nói: Cứu tinh của chúng tôi tới rồi. Vi Tước gia, Trịnh Thái sư lão thái gia của Quốc tính gia vốn làm nghề buôn bán không vốn trên biển, Đài Loan chính là sào huyệt cũ của lão nhân gia người, về sau lão nhân gia người dắt bọn huynh đệ thủ hạ trở về Trung Nguyên, Đài Loan bị quân binh Hà Lan và Tây Ban Nha chia nhau chiếm cứ. Bọn quỷ Hà Lan ở phía nam, bọn quỷ Tây Ban Nha ở phía bắc, hai bên tranh giành nhau, Tây Ban Nha thua, toàn bộ Đài Loan đều bị Hà Lan chiếm cứ. Người Trung Quốc chúng ta trên đảo bị bọn quỷ Hà Lan tàn hại. Bộ hạ cũ của Trịnh Thái sư có vị huynh đệ tên Quách Hoài Nhất, là bậc anh hùng hảo hán. Y ở lại trên đảo không đi, thấy người Trung Quốc bị bọn quỷ Hồng Mao hà hiếp, ngấm ngầm hẹn ước với bọn huynh đệ, thông báo cho người Trung Quốc các nơi, định ngày Trung thu khởi sự, giết toàn bộ bọn quỷ Hồng Mao trên đảo. Không ngờ có tên Hán gian tên Phổ Tử đi bẩm báo cho bọn quỷ Hồng Mao...”.

Vi Tiểu Bảo đập bàn chửi “Con bà nó, chuyện của người Trung Quốc đều do bọn Hán gian làm hỏng”.

Lâm Hưng Châu nói “Đúng thế. Quách Hoài Nhất đại ca vừa thấy Phổ Tử bỏ trốn, biết là sự tình đã hỏng, lập tức suất lãnh hơn một vạn sáu ngàn người Trung Quốc tiến đánh thành Phổ La Dân Già, phóng hỏa đốt chết bọn quan quân Hồng Mao giữ thành. Bọn quỷ Hồng Mao điều động đại quân phản công, súng đạn lợi hại. Người Trung Quốc chúng ta ngoài vài khẩu súng, đều là dùng đại đao, thương sắt, lưỡi cuốc, côn gỗ làm võ khí, đánh nhau một trăm năm mươi ngày ở thành Xích Khảm, Quách Hoài Nhất đại ca bất hạnh bị đại pháo của bọn quỷ Hồng Mao bắn chết...”. Vi Tiểu Bảo kêu lên “Ái chà, thế thì hỏng bét”. Lâm Hưng Châu nói “Đúng thế. Quách đại ca vừa chết, rắn không đầu không bò được, người Trung Quốc thua chạy khỏi thành, huyết chiến bảy ngày bảy đêm cạnh Đại Hồ, người Trung Quốc bị chết hơn bốn ngàn, phụ nữ trẻ con cũng thà chết không chịu khuất phục, bị giết hơn năm trăm người.

Phàm những ai bị bọn quỷ Hồng Mao bắt được, phụ nữ thì bị ép làm doanh kỹ, đàn ông nếu không phải là ngũ mã phân thây, thì dùng que sắt từ từ đốt chết...”.

Vi Tiểu Bảo cả giận, kêu lên “Bọn quỷ Hồng Mao tàn nhẫn như thế, còn tàn độc hơn quân Thanh tàn sát ở thành Dương Châu chúng ta!”.

Thi Lang và Lộ Phó tướng ngớ mặt nhìn nhau, chỉ còn cách cười gượng, đều nghĩ thầm “Gã thiếu niên này ăn nói quả thật không biết nặng nhẹ”.

Lâm Hưng Châu nói “Đó là chuyện tháng tám năm Vĩnh Lịch thứ sáu...”. Hồng Triều bấm đốt ngón tay tính rồi nói “Năm Vĩnh Lịch thứ sáu chính là năm Thuận Trị thứ bảy... tám... chín, năm Thuận Trị thứ chín”. Lâm Hưng Châu nói “Phải không? Sau trường đại thảm sát ấy, người Trung Quốc ở Đài Loan và bọn quỷ Hồng Mao thế không cùng sống, bọn quỷ Hồng Mao chỉ cần một cớ nhỏ là giết bừa người Trung Quốc. Vì thế mọi người vừa thấy đại quân của Quốc tính gia, đúng là Bồ tát xuống cứu mạng, trai gái già trẻ nhao nhao tố khổ với bọn ta. Đúng tối hôm ấy, Thái thú Quỳ đại nhân của bọn quỷ Hồng Mao sau khi thua lớn, giận lây qua người Trung Quốc, đem hết người Trung Quốc ở Côn Thân, bất luận già trẻ lôi ra bắn hết, giết chết hơn năm trăm người. Hôm sau Quốc tính gia phái quân đánh thành Phổ La Dân Già. Trần quân sư bày ra kế sách, luyện quân giáp mây lăn tròn vào chém chân bọn quỷ Hồng Mao, nên hạ được thành Phổ La Dân Già”.

Vi Tiểu Bảo nói “Đây cũng là công lao của lão huynh”. Lâm Hưng Châu nói “Đây toàn là diệu kế của Trần quân sư, chứ ty chức không có công lao gì”. Lại nói “Quốc tính gia chỉ huy quân tấn công trú sở của Quỳ Thái thú Hồng Mao là thành Nhiệt Lai Già. Trên thành bắn pháo ra ầm ầm, quân ta bị thương vong rất nhiều. Nhưng tướng quân Mã Tín và tướng quân Lưu Quốc Hiên vẫn hăng hái hạ được Côn Thân. Quốc tính gia thấy các huynh đệ thương vong quá nhiều, lúc ấy bèn đắp lũy dài bao vây thành Nhiệt Lai Già, đem đại pháo bắn vào thành. Không bao lâu chiến thuyền các trấn Tả Vệ, Tiền Xung, Trí Vũ, Anh Binh, Du Binh, Điện Binh trong thủy sư lộ thứ hai của quân ta cũng đều đánh tới, thanh thế rất lớn. Quốc tính gia một mặt sai quân khai khẩn ruộng đất, một mặt vây chặt thành. Bao vây năm tháng, đột nhiên viện binh của quỷ Hồng Mao từ Ba Đạt Duy Á tới, quân Hồng Mao trong thành xông ra giáp công. Thủy lục đại chiến, quân ta hăng hái xông lên, nước biển đều bị máu nhuộm biến thành màu đỏ”.

Vi Tiểu Bảo vỗ bàn khen “Lợi hại thật, lợi hại thật!”, nhìn qua Thi Lang nói “Tiếc là lúc ấy Thi tướng quân đang ở Hạ Môn, nếu không thì trong mấy trận đại chiến ấy, giết con mẹ nó mấy trăm tên quỷ Hồng Mao, thì mới kể là anh hùng hảo hán thực sự”. Thi Lang im lặng.

Vi Tiểu Bảo hỏi Hồng Triều “Hồng đại ca, lúc ấy ngươi đánh ở mặt nào?”.

Hồng Triều nói “Lúc ấy ty chức là thuộc hạ dưới trướng tướng quân Lưu Quốc Hiên, hợp quân với thủy sư do tướng quân Trần Trạch thống lĩnh bao vây tấn công viện binh của quân Hồng Mao, đại chiến ở một dải Bắc Sán Vĩ. Quân Hồng Mao chiến hạm rất lớn, súng đạn lợi hại, đạn pháo của quân ta bắn lên chiến thuyền của Hồng Mao đều bị vỏ sắt hất ra, không sao làm chúng tổn thương. Lâm Tiến Thân Lâm tướng quân ở trấn Tuyên Nghị Tiền thấy chi trì không được, đích thân suất lãnh hai trăm quân cảm tử, thân mang thuốc súng, liều chết nhảy lên chiến hạm của bọn quỷ Hồng Mao, phá hỏng đại pháo trên đó. Bọn quỷ Hồng Mao thấy chúng ta dũng mãnh tấn công không sợ chết như vậy đều hoảng sợ rối loạn, quân ta giết chết một tên hạm trưởng của bọn quỷ Hồng Mao, bắt sống hai chiến hạm chủ lực, thủy sư của quân Hồng Mao tan vỡ. Trên bờ Trần quân sư dẫn quân đại chiến, cũng thu được toàn thắng, về sau Trần quân sư mổ trên người lấy ra được bảy viên đạn chì của quân Hồng Mao”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hà, sư phụ ta không chết vì súng đạn của quân Hồng Mao mà lại chết dưới kiếm của con mẹ nó thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng. Thi tướng quân, nam tử hán đại trượng phu, tóm lại phải đánh bọn quỷ ngoại quốc mới tính là giỏi. Người Trung Quốc giết người Trung Quốc, cho dù có giết được nhiều cũng không kể là hảo hán được, ngươi nói có phải không?”. Thi Lang hừ một tiếng, im lặng không đáp.

Lâm Hưng Châu nói “Bọn quỷ Hồng Mao thua liền mấy trận, lại định tới đốt lương thực của quân ta, nhưng lần nào cũng bị Trần quân sư biết được, chỉ là nhử gà không được lại mất gạo. Thái thú Hồng Mao khốn khổ giữ cô thành, bó tay không còn cách nào, bèn sai người vượt biển, liên lạc với Tổng đốc Mân Chiết nhà Đại Thanh là Lý Suất Thái, xin y phái binh cứu viện. Vị Lý đại nhân này cũng rất thú vị, gửi thư mời bọn quỷ Hồng Mao phái binh tới Phúc Kiến trước, đánh dẹp quân của Quốc tính gia đang đóng giữ ở một dải Kim Môn Hạ Môn, rồi quân Đại Thanh sẽ tới cùng tấn công Đài Loan. Lúc ấy quân Hồng Mao tự mình không giữ được mạng, như con rùa rụt cổ trong thành Nhiệt Lai Già, làm sao phái quân đi đánh Kim Môn, Hạ Môn?”

Vi Tiểu Bảo nói “Bọn quỷ Hồng Mao nói chuyện như đánh rắm, bọn họ thủy chung đâu có tới đánh Kim Môn, Hạ Môn phải không? Đại Thanh chúng ta nói ra là nhớ lời, về sau há không phái quân đánh Đài Loan sao? Chỉ có điều chậm mất hai ba mươi năm, cũng không quan hệ gì. Lúc Thi tướng quân đem quân đánh tới Đài Loan, không biết có bọn quỷ Hồng Mao trong ứng ngoài hợp không?”.

Thi Lang đã không nhịn nổi nữa, đứng phắt dậy, tức giận nói “Vi Tước gia, huynh đệ với ngươi là nhất điện chi thần, đều làm quan của nhà Đại Thanh, tại sao ngươi ăn nói khủng khỉnh, cứ châm chọc huynh đệ như thế?”.

Vi Tiểu Bảo ngạc nhiên nói “Ờ, chuyện này mới lạ đây, ta châm chọc Thi tướng quân lúc nào? Thi tướng quân không tư thông với người ngoại quốc thì rất tốt. Mà nếu muốn tư thông với người ngoại quốc, thì ta thấy vẫn còn kịp mà. Thi tướng quân tay cầm trọng binh, quỷ Hồng Mao, quỷ Tây Ban Nha, quỷ Bồ Đào Nha, quỷ La Sát đều rất thích kết giao với ngươi đấy”.

Thi Lang trong lòng hoảng sợ “Không xong! Thằng tiểu quỷ này chỉ cần tố cáo với hoàng thượng một lần, vu hãm mình tư thông với ngoại quốc, thì một đời mình sẽ bị hủy hoại trong tay y”, nhưng mới rồi nhất thời nổi nóng, mở miệng vô lễ, bất giác vô cùng hối hận, vội cười lấy lòng nói “Huynh đệ uống quá vài chén, nên có xúc phạm, xin Vi Tước gia tha tội”.

Vi Tiểu Bảo thấy y nổi giận, vốn cũng hơi sợ sệt, đến khi thấy y dịu nét mặt xin lỗi, biết y sợ mình liền cười nói “Thi tướng quân nếu quả muốn tự lập làm vương ở Đài Loan thì cứ đem huynh đệ giết trước mà bịt miệng là được, để ta khỏi bẩm báo với hoàng thượng. Còn nếu chẳng qua chỉ là lớn tiếng hò hét, lên cơn nổi giận thì huynh đệ tuy nhát gan cũng không sợ đâu”.

Thi Lang sắc mặt trắng bệch, rời chỗ ngồi vái dài một vái, nói “Vi Tước gia, đại nhân không nhớ lỗi tiểu nhân, ty chức hoang đường, xin nhận trách phạt. Có điều chuyện tự lập làm vương, tư thông ngoại quốc thì ty chức quyết không có ý ấy. Ty chức một lòng một dạ ra sức vì hoàng thượng, đặt chữ trung lên đầu, quyết không hai lòng”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Mời ngồi, mời ngồi. Chúng ta cứ chờ xem”, rồi quay qua nói với Lâm Hưng Châu “Ngươi kể chuyện còn hay hơn các tiên sinh kể chuyện, hồi Quốc tính gia huyết chiến Đài Loan, Hồng Mao quỷ té cứt vãi đái này về sau thế nào?”.

Lâm Hưng Châu nói “Lúc ấy tin Quốc tính gia suất lãnh đại quân đánh được Đài Loan đã truyền vào nội địa, Hoàng Ngô Hoàng đại nhân bèn dâng lời với triều đình đề ra cái gọi là Kiên bích thanh dã Bình hải ngũ sách”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng Ngô là ai?”, Lâm Hưng Châu nhìn Thi Lang một cái, ấp úng mấy tiếng, không trả lời ngay. Thi Lang nói “Vị Hoàng đại nhân này vốn là thuộc hạ của Quốc tính gia, làm chức Tổng binh, sau khi y quy thuận triều đình, quan vận hanh thông, lúc qua đời đã được phong là Nhất đẳng Hải Trừng công”, Vi Tiểu Bảo nói “Hà, té ra nguyên là một tên đại Hán...”, chữ “gian” cuối cùng lại nuốt trở vào. Thi Lang mặt đỏ bừng, nghĩ thầm “Ngươi chửi ta là Hán gian, nhưng ta thấy ngươi cũng là người Mãn Châu giả, mọi người không phải ai cũng như nhau sao?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Gã Hoàng Ngô này có kế sách kỳ diệu gì vỗ mông ngựa hoàng đế mà được phong tới tước công? Bản lãnh của y không nhỏ đâu? Cách thức của y chúng ta cũng nên rèn luyện, học tập cho khéo”.

Lâm Hưng Châu nói “Năm xưa Quốc tính gia phái Hoàng Ngô phòng thủ Hải Trừng, y lại đem Hải Trừng đầu hàng triều đình, các tướng sĩ không chịu quy hàng đều bị y giết chết. Lúc ấy triều đình đang không có cách nào bắt Quốc tính gia, đột nhiên có một viên đại tướng của đối phương suất lãnh quân đội, đem cả thành trì quy hàng, triều đình mười phần mừng rỡ, vì thế đặc biệt phong thưởng”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế. Y hiến kế sách gì thế?”. Lâm Hưng Châu thở dài nói “Vị Hoàng đại nhân này quả thật là làm hại bách tính đến khổ. Bình hải ngũ sách của y, điều thứ nhất là dời tất cả bách tính ở ven biển vào nội địa, cho Kim Môn, Hạ Môn và Đài Loan không được tiếp tế. Điều thứ hai là thiêu hủy tất cả thuyền bè ở ven biển, trở đi không một tấc gỗ nào được đưa ra biển. Điều thứ ba là giết Trịnh Thái sư cha của Quốc tính gia. Điều thứ tư là khai quật lăng mộ tổ tiên của Quốc tính gia, phá hủy phong thủy của y. Điều thứ năm là dời tất cả quan binh bộ thuộc cũ của Quốc tính gia vào khai khẩn đất hoang trong nội địa, để khỏi sinh hậu hoạn”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hà, kế sách của thằng đầy tớ ấy quả thật tàn độc”.

Lâm Hưng Châu nói “Chứ không phải sao? Lúc ấy hoàng đế Thuận Trị vừa băng hà, hoàng thượng lên ngôi, vẫn còn nhỏ tuổi, Ngao Bái một mình nắm đại quyền. Thằng gian tặc Ngao Bái này thấy Bình hải ngũ sách của Hoàng Ngô, cho rằng mười phần có lý, bèn hạ lệnh từ Liêu Đông tới Trực Lệ, Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến cho tới Quảng Đông, suốt vùng duyên hải không cho ai ở gần bờ biển ba mươi dặm, tất cả thuyền bè đều phải đốt sạch, lúc ấy ngàn ngàn vạn vạn bách tính ở duyên hải lưu ly thất sở, không sống được qua ngày”.

Thi Lang lắc đầu nói “Kế sách ấy của Hoàng Ngô cũng rất quá đáng. Đến khi kim thượng đích thân coi chính sự, Vi đại nhân bắt được Ngao Bái, mới thủ tiêu lệnh cấm hải. Nhưng bách tính bảy tỉnh vùng duyên hải đã nếm đủ mùi đau khổ. Lúc ấy triều đình ra nghiêm lệnh, phàm bách tính vượt quá ranh giới, bắt được là lập tức chém đầu. Rất nhiều dân nghèo không sống được, ra bờ biển bắt cá, không biết bị giết bao nhiêu mà kể. Trịnh Thái sư cũng bị giết lúc ấy. Ngao Bái còn đặc biệt sai Thượng thư bộ Binh Tô Nạp Hải tới huyện Nam An Tuyền Châu Phúc Kiến đào mồ họ Trịnh”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngao Bái tự xưng là dũng sĩ, mà lối làm việc lại không ra sao. Có bản lĩnh thì cứ đánh nhau một trận với Quốc tính gia. Dời bách tính ở duyên hải vào nội địa, không phải là nói rõ sợ người ta sao? Hoàng thượng yêu thương bách tính, nếu kế sách của Hoàng Ngô trình lên hoàng thượng, thì y không bị chém đầu không xong”. Thi Lang nói “Đúng thế. Hoàng Ngô chết sớm, tính ra là may cho y”.

Lâm Hưng Châu nói “Tin Trịnh Thái sư qua đời truyền tới Đài Loan, Quốc tính gia sợ dao động quân tâm, nói đó là lời bịa đặt, không được tin theo, nhưng theo lời thân binh nói thì Quốc tính gia thường nửa đêm khóc lóc. Quốc tính gia lại nói với Trần quân sư và mấy vị đại tướng rằng mấy điều kế sách ấy của Hoàng Ngô quả nhiên rất tàn độc, may là đã đánh Đài Loan, nếu không thì hơn mười vạn đại quân không sao đứng chân được ở Kim Môn, Hạ Môn. Lúc ấy bọn ta vây đánh đã lâu, quân Hồng Mao mấy lần định phá vây đều bị đánh lùi. Lúc ấy Quốc tính gia truyền lệnh, trước tết phải hạ thành Nhiệt Lai Già”. Y quay qua hỏi Hồng Triều “Là tổng tấn công ngày hai mươi hai tháng mười một phải không?”.

Hồng Triều nói “Đúng, hôm ấy mưa to gió lớn, đại pháo các nơi trên lũy đất của chúng ta nhất tề bắn rát, bắn sụp một góc tường thành, đồn bảo phía đông phía tây hành đều bị bắn nát. Quân Hồng Mao liều mạng xông ra, nhưng bị giết mấy trăm người lại phải lui vào, Quỳ Thái thú Hồng Mao bèn kéo cờ trắng đầu hàng. Lúc ấy người Trung Quốc ở Đài Loan đều muốn trả thù, muốn giết hết bọn quỷ Hồng Mao. Quốc tính gia hiểu dụ bách tính, nói Trung Quốc chúng ta là nước lễ nghĩa, địch nhân đã đầu hàng thì không được giết, chuẩn y mười bốn điều khoản trong hàng thư của Thái thú Hồng Mao, cho y suất lãnh tàn binh bại tướng lên thuyền rời Đài Loan, trốn về Ba Đạt Duy Á. Bọn quỷ Hồng Mao chiếm cứ Đài Loan từ năm Thiên Khải thứ tư nhà Đại Minh, chiếm đóng ba mươi tám năm, đến năm Vĩnh Lịch thứ mười lăm... cũng chính là ngày hai mươi chín tháng mười một năm Thuận Trị thứ mười tám thì Đài Loan trở về bản đồ Trung Quốc”.

Lâm Hưng Châu nói “Quốc tính gia ra lệnh không cho giết quân Hồng Mao đầu hàng, nhưng bách tính Trung Quốc căm hờn không chịu nổi, nhao nhao chửi bới ném đá vào chúng. Bọn trẻ con còn đặt vè để hát. Quân Hồng Mao người đứt tay kẻ cụt chân, cúi đầu ủ rũ, không dám nói một câu. Lúc binh thuyền của họ nhổ neo, kéo cờ hàng lên, lại bắn pháo chào, nói là tạ ơn không giết của Quốc tính gia”. Vi Tiểu Bảo nói “Hay lắm! Người Trung Quốc chúng ta thật rất có oai phong. Hỏa pháo của bọn quỷ Hồng Mao lợi hại như thế, đánh được Đài Loan quả thật rất không dễ, rất không dễ!”. Hồng Triều nói “Quốc tính gia đổi thành Nhiệt Lai Già là trấn An Bình, thành Phổ La Dân Già đổi tên là phủ Thừa Thiên, vĩnh viễn làm trọng trấn của Đài Loan”.

Lộ Phó tướng nói chen vào “Thi Quân môn lấy Đài Loan, đi theo con đường cũ của Quốc tính gia năm xưa, từ cửa Lộc Nhĩ tiến vào...”. Vi Tiểu Bảo xua xua tay ngắt lời y, ngáp một cái thật lớn, nói “Người Trung Quốc đánh bọn quỷ Hồng Mao tháo chạy ra biển thì nghe mới sướng tai, chứ người mình đánh người mình, trước sau chẳng qua cũng chỉ đến thế. Thi tướng quân, chúng ta uống rượu cũng nhiều rồi, đi nghỉ thôi”. Thi Lang đứng lên nói “Vâng. Đa tạ Tước gia ban rượu, ty chức xin cáo từ”.

Vi Tiểu Bảo vào nội đường, kể chuyện cản trở lời Thi Lang, tóm lại là không cho y khoe khoang chiến công đánh Đài Loan, sáu vị phu nhân nghe thấy đều buồn cười. Chỉ có A Kha im lặng không nói gì, nghĩ thầm nếu năm xưa lấy Trịnh Khắc Sảng, thế ắt cũng bị bắt sống với y về Bắc Kinh, vợ kẻ vong quốc không khỏi bị chịu nhục lớn. Hôm trước nhìn thấy Trịnh Khắc Sảng cưỡi thuyền rời đảo Thông Ngật, đối với sự còn mất sống chết của y đã không còn quan tâm gì nữa, lúc ấy nghe y mất nước đầu hàng, lại càng không để ý, nhưng nhớ lại chuyện xưa, mình lại có thể bị phong thái dung mạo của y mê hoặc như thế, biết rõ người ấy là hạng tử đệ khố gấm không có khí cốt, không ra gì, mà mình lại như mù lòa, đối với y một mảnh thâm tình, bây giờ nhớ lại vẫn thấy vô cùng hổ thẹn.

Công chúa nói “Hoàng đế ca ca đối xử với người ta quá khoan dung, thằng đầy tớ Trịnh Khắc Sảng đầu hàng, lại phong cho y tước công nhất đẳng, hơn cả Tiểu Bảo, thật khiến người ta bất phục”.

Vi Tiểu Bảo xua tay nói “Không hề gì, không hề gì, Quốc tính gia là đại anh hùng hảo hán, hoàng thượng nể mặt Quốc tính gia mới phong cháu nội của y làm tước công nhất đẳng. Chứ nếu chỉ dựa vào bản lĩnh của Trịnh Khắc Sảng, thì chỉ phong cho y làm sâu róm nhất đẳng thôi”.

Trưa hôm sau, Vi Tiểu Bảo mời riêng Lâm Hưng Châu, Hồng Triều hai người ăn tiệc, hỏi lại tình hình Thi Lang tấn công Đài Loan.

Nguyên quân Thanh cùng quân Đài Loan huyết chiến mấy ngày ở vũng Ngưu Tâm, đảo Kê Lung, hôm đầu tiên Thi Lang bị thua, về sau viện binh của quân Thanh kéo tới, lại đánh lớn, chiến thuyền Đài Loan bị đốt cháy đại bại, tướng sĩ tử thương hơn một vạn người, chiến thuyền hoặc bị đánh chìm hoặc bị đốt cháy, tổn thất ba trăm chiếc. Lưu Quốc Hiên suất lãnh tàn quân lui về Đài Loan.

Thi Lang suất lãnh thủy sư tấn công Đài Loan, cửa Lộc Nhĩ nước cạn, chiến thuyền không vào được, đậu trên bờ biển mười hai ngày, đang lúc vô kế khả thi, đột nhiên mù lớn đầy trời, thủy triều dâng cao, chiến thuyền quân Thanh nhất tề kéo vào. Đài Loan trên dưới ai cũng hoảng sợ, đều nói “Năm xưa Quốc tính gia nhân thủy triều dâng lên ở cửa Lộc Nhĩ mà đánh lấy được Đài Loan, bây giờ thủy triều ở cửa Lộc Nhĩ lại dâng cao, địa thế hiểm trở đã bị mất, đây là ý trời, có đánh nữa cũng vô dụng”.

Trịnh Khắc Sảng được tin thủy sư của quân Thanh đã qua cửa Lộc Nhĩ, hoảng sợ run bần bật. Phùng Tích Phạm khuyên y đầu hàng, tự nhiên y ưng thuận ngay, chỉ là sợ Thi Lang muốn trả thù riêng, làm khó con cháu họ Trịnh, nên còn ngần ngừ. Lúc ấy Lưu Quốc Hiên gửi thư cho Thi Lang, nói đầu hàng thì được, nhưng phải bảo toàn cho con cháu của Quốc tính gia, nếu không thì quân dân trên toàn Đài Loan cảm niệm ơn nghĩa của Quốc tính gia, sẽ chiến đấu tới người cuối cùng. Thi Lang lập tức gửi thư trả lời, bảo đảm quyết không nhớ thù cũ, nếu không thì trời người cùng giết, tuyệt tử tuyệt tôn. Lúc ấy Trịnh Khắc Sảng, Phùng Tích Phạm, Lưu Quốc Hiên bèn suất lãnh văn võ bá quan ở Đài Loan ra hàng.

Từ khi tôn thất nhà Minh Đoan vương Chu Xung Quế tự sát tuẫn quốc, kế đó năm người cùng tử tiết chết theo, nhà Minh tới đó là chấm dứt.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Con cháu của vị hoàng đế nhà Minh này tự sát tuẫn quốc, năm người vợ cùng chết theo họ. Nếu Vi Tiểu Bảo mình tự sát, không biết trong bảy người vợ có mấy người chết theo? Song Nhi thì nhất định sẽ chết theo, công chúa thì nhất định thứ lỗi không chết theo được. Còn năm người kia có quá nửa sẽ gieo xúc xắc để quyết định sống chết. Phương Di lúc gieo xúc xắc nhất định sẽ giở trò gian lận, bảo người chết là mình là đồ Dê đực”.

Lâm Hưng Châu lại nói sau khi Thi Lang đem quân lên bờ cũng rất thủ tín, hoàn toàn không làm khó con cháu họ Trịnh, còn đích thân tới tế Diên Bình quận vương Trịnh Thành Công, khóc lớn một lúc. Hồng Triều nói “Trong bài văn tế của y có câu: Từ khi Đồng An hầu vào Đài Loan, đất Đài Loan mới có người ở. Được ban họ mở đất, bắt đầu trở thành cương giới, không ông thì ai? Nay Lang nhờ uy linh thiên tử, sức lực tướng sĩ, lấy được đất này, không tru diệt kẻ mất nước là vì chức phận trung thành với triều đình mà báo đáp cho cha anh. Duy Lang xuất thân bộ ngũ, cùng kẻ được ban họ có duyên cá nước, giữa đường vì chuyện hiềm khích, trở thành oán thù. Lang và kẻ được ban họ tuy thế đã thành kẻ thù, nhưng tình vẫn là chúa tôi. Kẻ sĩ cùng khốn trong bụi lau, vì nghĩa mà có chuyện không làm. Ơn riêng nghĩa chung, chỉ thế mà thôi. Mấy câu ấy được truyền tụng một thời”. Vi Tiểu Bảo nói “Y ky lý cô lô nói những gì thế?”, Hồng Triều nói “Kẻ sĩ cùng khốn trong bụi lau là chỉ Ngũ Tử Tư, năm xưa Ngũ Tử Tư diệt nước Sở, đào mộ Sờ Bình vương, đánh vào xác ba trăm roi để trả mối thù giết hại cha anh. Thi Lang nói y quyết không làm chuyện như thế”.

Vi Tiểu Bảo cười nhạt nói “Hừ, y dám à, tuy Quốc tính gia đã chết, nhưng y còn sợ gần chết. Y phá hoại cơ nghiệp Trịnh gia, chỉ sợ anh hồn của Quốc tính gia tìm y làm khó dễ, nên tới miếu thờ Quốc tính gia dập đầu nài nỉ. Người này rất gian hoạt, các ngươi đừng mắc lừa y”. Lâm Hồng hai người đồng thanh khen phải.

Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện Ngũ Tử Tư thì ta đã được xem diễn rồi, có một vai Ngũ Tử Tư qua cửa quan, trong một đêm mà đầu bạc trắng, có phải không?”. Hồng Triều nói “Vâng, vâng, T