← Quay lại trang sách

Hồi 48 Ngọc Môn không đặt quan Đô hộ-Đồng trụ còn nêu cột tướng quân-

dịch giả: cao tự thanh

Hồi 48

ngọc môn không đặt quan đô hộ
đồng trụ còn nêu cột tướng quân

êm ấy Vi Tiểu Bảo và Song Nhi nghỉ lại trong phòng ngủ ở phủ Tổng đốc, lò sưởi đốt thật lớn, chăn đơn nệm gấm, lai láng tình xuân.

Đây là nơi y từng đi qua, mở nắp cái rương lớn cạnh giường lên nhìn, thấy trong rương có quân phục và súng. Song Nhi mỉm cười nói “Tướng công nhìn tới cái rương, lại mong công chúa La Sát chui ra, phải không?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Cô là công chúa Trung Quốc, so với công chúa La Sát còn hay hơn nhiều”. Song Nhi cười nói “Đáng tiếc là công chúa Trung Quốc đang ở Bắc Kinh chứ không phải ở đây”. Vi Tiểu Bảo nói “Song Nhi ngoan, hôm nay chúng ta có tính là đại công cáo thành chưa?”. Song Nhi nhoẻn miệng cười, hai má đỏ lên, nàng tuy làm vợ chồng với Vi Tiểu Bảo đã lâu nhưng lúc chồng nói đùa vẫn có ý xấu hổ.

Vi Tiểu Bảo ôm chặt lưng nàng, hai người cùng ngồi lên giường. Vi Tiểu Bảo hỏi “Cô chắp tấm bản đồ, tốn không ít tâm huyết, rốt lại chúng ta cũng đã tới núi Lộc Đỉnh, hoàng thượng phong ta làm Lộc Đỉnh công, tòa thành này có quá nửa cũng sẽ giao cho ta thống quản. Dưới núi này có cất giấu vô số vàng bạc châu báu, chúng ta thong thả đào lên, Vi Tiểu Bảo ta có thể đổi tên là Vi Đa Bảo rồi”. Song Nhi nói “Tướng công đã có rất nhiều vàng bạc, dùng mấy đời cũng không hết, có nhiều châu báu hơn cũng chỉ vô dụng. Ta thấy thôi cứ làm Vi Tiểu Bảo cũng được”.

Vi Tiểu Bảo khẽ hôn lên má nàng một cái, nói “Đúng, đúng! Trong mấy hôm nay ta đã quyết định chủ ý, nếu muốn đào lấy châu báu, chỉ sợ đào đứt long mạch của người Mãn Châu, hại chết hoàng đế. Trước nay hoàng đế đối xử với ta rất tốt, nếu hại chết y thì không khỏi có chỗ không phải với y. Nếu không đào thì lại cảm thấy tiếc. Thôi thế này, chúng ta tạm thời không đào kho báu lên, chờ khi nào hoàng thượng ngự giá lên trời, chúng ta lại thiếu cơm ăn, lúc ấy hãy đào cũng không muộn”.

Nói tới đó chợt nghe trong chiếc rương gỗ có tiếng lách cách khẽ vang lên. Hai người đưa mắt nhìn nhau, chăm chú nhìn vào cái rương nhưng qua một lúc cũng không thấy có động tĩnh gì. Vi Tiểu Bảo khẽ vỗ vào tay Song Nhi ba cái, Song Nhi bước ra mở cửa phòng, bốn tên thân binh canh cửa khom người nghe lệnh. Vi Tiểu Bảo chỉ vào cái rương gỗ, hạ giọng nói “Trong đó có người!”.

Bốn tên thân binh giật nảy mình, sấn tới cạnh cái rương, giở nắp ra, nhưng thấy trong rương chứa đầy đồ vật quần áo. Vi Tiểu Bảo lấy tay ra hiệu, bọn thân binh bới đồ vật ra, bới tới đáy rương thì lộ ra một miệng hang, đúng lúc ấy bình một tiếng vang rền, dưới hang có một phát súng bắn ra. Một tên thân binh a một tiếng, vai bị trúng đạn, ngã ngửa ra phía sau.

Song Nhi vội kéo Vi Tiểu Bảo một cái ra phía sau mình. Vi Tiểu Bảo chỉ chỉ cái lò sưởi, ra hiệu lật lại. Một tên thân binh bước qua bưng cái lò sưởi lên, trút luôn xuống miệng hang.

Chỉ nghe trong hang có người la lên bằng tiếng La Sát “Đừng trút than xuống, đầu hàng!”, kế ho sặc sụa không ngớt. Vi Tiểu Bảo dùng tiếng La Sát nói “Vứt súng lên trước, rồi bò lên sau”, trong miệng hang có một khẩu súng ngắn vứt lên, kế đó một tên quân La Sát thò đầu lên. Một tên thân binh nắm tóc y kéo lên, một tên thân binh khác đưa đao kề vào cổ y, tên lính ấy hàm râu bị cháy vẫn chưa tắt, rát quá kêu be be ầm lên, vô cùng thảm hại bò ra. Vi Tiểu Bảo nói “Ở dưới còn có ai không?”, dưới hang có người kêu lên “Còn một người nữa! Đầu hàng, đầu hàng”. Vi Tiểu Bảo quát “Ném võ khí lên” ở miệng hang bạch quang chớp lên, một thanh mã đao ném ra, kế đó một đám than lửa nhô lên, nguyên là tên lính La Sát ấy đầu tóc bị cháy.

Bọn thân binh bảo vệ ngoài cửa nghe trong đại soái có chuyện, lại mấy người nữa chạy vào. Bảy tám tên thân binh giữ chặt hai tên quân La Sát, phủi tắt lửa trên tóc trên râu hai người, trói quặt hai tay ra sau lưng.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên chỉ vào một tên quân La Sát kêu lên “Ồ, ngươi là Vương Bát Tử Kê”, tên quân ấy trên mặt lộ vẻ vui mừng, nói “Vâng, vâng, đại nhân trẻ con Trung Quốc, ta là Hoa Bá Tư Cơ”, tên La Sát còn lại cũng kêu lên “Đại nhân trẻ con Trung Quốc, ta... ta là Tề Lạc Nặc Phu”. Vi Tiểu Bảo nhìn y chăm chú hồi lâu, thấy bộ râu của y bị cháy lỗ chỗ, trên mặt của bị bỏng vừa đỏ vừa sưng, nhưng cuối cùng cũng nhận ra được, cười nói “Phải rồi, ngươi là Trư La Nhụ Phu!”, Tề Lạc Nặc Phu cả mừng kêu lên “Đúng, đúng, đại nhân trẻ con Trung Quốc, ta là bạn cũ của ngươi”.

Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu là vệ sĩ của công chúa Tô Phi Á. Năm trước họ cùng đi với Vi Tiểu Bảo từ thành Nhã Khắc Tát lên Mạc Tư Khoa.

Hai người cùng quân hỏa thương trong Lạp cung tạo phản, lập được công lao không nhỏ. Sau khi công chúa Tô Phi Á chấp chưởng quốc chính, ban thưởng cho họ, tất cả vệ sĩ của mình đều được thăng làm Đội trưởng, trong đó có bốn người tới phương đông định lập công cướp bóc. Lúc thua quân mất thành, một người chết trận, một người chết cóng. Còn lại hai người rón rén chui vào địa đạo, định ra thành bỏ trốn, nào ngờ miệng địa đạo ngoài thành đã bị lấp kín, hai người tiến thoái đều khó, rốt lại hình tích bị bại lộ. Năm xưa Vi Tiểu Bảo gọi hai người bọn họ là Vương Bát Tử Kê và Trư La Nhụ Phu[56]. Hai người làm sao biết được ý tứ, chỉ nói là trẻ con Trung Quốc phát âm không đúng, gọi thì cũng lên tiếng. Nghe công chúa gọi y là “Trẻ con Trung Quốc”, lúc đầu cũng gọi theo như thế, đến khi Vi Tiểu Bảo lập công, công chúa phong tước vị cho y, các vệ sĩ lại gọi y là “Đại nhân trẻ con Trung Quốc”.

Vi Tiểu Bảo hỏi rõ chuyện đã qua, sai thân binh cởi trói, mang rượu thịt ra khoản đãi.

Bọn thân binh sợ dưới địa đạo còn có gian tế, bèn xuống lục soát một lượt, biết rõ trong phòng ngoài chỗ này ra thì không còn địa đạo tường đôi nào khác, lúc ấy mới lui ra. Đội trưởng thân binh trong lòng sợ sệt, luôn miệng nhận tội, nghĩ thầm quả là may mắn bằng trời, nếu hai tên quân La Sát này nửa đêm từ địa đạo chui ra định trốn, đâm chết Vi đại soái, thì mình không bị cả nhà chết chém tịch biên gia sản không xong.

Hôm sau Vi Tiểu Bảo gọi Hoa Bá Tư Lạc và Tề Lạc Nặc Phu hai người tới hỏi han tình hình của công chúa Tô Phi Á gần đây. Hai người nói công chúa điện hạ tổng lý triều chính, vương công đại thần, tướng quân chủ giáo toàn nước La Sát ai cũng không dám chống đối. Hai vị Sa hoàng còn nhỏ tuổi, mọi chuyện đều nghe lời chị. Tề Lạc Nặc Phu nói “Công chúa điện hạ rất nhớ đại nhân trẻ con Trung Quốc, dặn bọn ta nghe ngóng tin tức của ngươi, bảo bọn ta gặp được ngươi thì mời ngươi tới Mạc Tư Khoa chơi, công chúa sẽ có trọng thưởng”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ không biết đại nhân trẻ con Trung Quốc đem quân tới đây đánh nhau, nếu không thì mọi người thân thiết, là bạn bè tốt, trận này cũng không cần đánh nhau nữa”. Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi bịa đặt, lừa dối!”. Hai người đều thề thốt, nói đó là sự thật, quyết không phải giả.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Hoàng thượng vốn muốn mình nghĩ cách giảng hòa với nước La Sát, không ngại gì sai hai thằng đầy tớ này về nói với công chúa Tô Phi Á”. Bèn nói “Ta muốn viết một lá thư, các ngươi đưa về cho công chúa, có điều ta không biết chữ La Sát ngoằn ngoèo như con giun, các ngươi viết thay ta thôi”. Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu ngớ mặt nhìn nhau, đều có vẻ khó khăn, hai người bọn họ chỉ biết cưỡi ngựa bắn súng, còn nói tới việc cầm bút viết chữ thì cũng một khiếu không thông. Tề Lạc Nặc Phu nói “Đại nhân trẻ con Trung Quốc muốn viết thư tình, thì hai người bọn ta không làm được. Bọn ta... bọn ta đi tìm giáo sĩ viết giúp”, Vi Tiểu Bảo ưng thuận, sai thân binh dắt hai người đi tìm trong bọn tù binh La Sát.

Qua không bao lâu, hai người dắt một giáo sĩ râu quai nón xồm xoàm tới. Lúc ấy phần lớn quân lính La Sát đều không biết chữ, giáo sĩ theo quân ngoài việc cầu nguyện Thượng đế, khích lệ sĩ khí, còn có một chức trách trọng yếu khác là viết giúp thư gửi về nhà cho tướng sĩ. Viên giáo sĩ kia mặc trang phục quân Thanh, quần áo quá chật, bó sát vào người, trông rất buồn cười. Y sợ sệt run rẩy, theo hai viên Đội trưởng tham kiến Vi Tiểu Bảo, nói “Thượng đế ban phúc cho đại tướng quân đại tước gia Trung Quốc, cầu cho đại tướng quân Trung Quốc cả nhà bình an”.

Vi Tiểu Bảo cho y ngồi, nói “Ngươi viết cho ta một lá thư, gửi công chúa Tô Phi Á của các ngươi”. Viên giáo sĩ luôn miệng vâng dạ. Thân binh đã bày văn phòng tứ bảo ra trên bàn. Viên giáo sĩ cầm bút lông, giở giấy ra, cong cong queo queo viết chữ La Sát lên, nhưng cảm thấy bút lông quá mềm, nét bút lúc to lúc nhỏ, nói không hết sự khó khăn, nhưng không dám có nửa câu bình luận về bút mực Trung Quốc, chỉ sợ vị tướng quân Trung Quốc này nổi giận.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi viết thế này: Từ sau khi chia tay, thường nghĩ tới công chúa, chỉ mong cưới được công chúa làm vợ...”. Viên giáo sĩ hoảng sợ giật nảy mình, bàn tay lỏng ra, ngọn bút lông quẹt lên tờ giấy một vệt mực lớn. Tề Lạc Nặc Phu nói “Vị đại nhân trẻ con Trung Quốc này rất được công chúa điện hạ Tô Phi Á ưa thích. Công chúa điện hạ rất yêu thương y, thường nói người tình Trung Quốc hơn người tình La Sát gấp hàng trăm lần”. Y muốn lấy lòng Vi Tiểu Bảo, không khỏi có chỗ nói tăng thêm lên. Viên giáo sĩ luôn miệng vâng dạ, nói “Vâng, vâng, hơn gấp hàng trăm lần, hàng trăm lần”. Y tâm thần bất định, văn tứ bế tắc, nhưng lại không dám cầm bút ngẫm nghĩ, chỉ đành dùng lối ăn nói sáo rỗng thường ngày viết ra, đều là lời lẽ lẳng lơ của tướng sĩ La Sát gởi cho vợ con, người tình ở quê thường ngày. Nào là “Quả tim thân yêu”, “Đêm qua anh mơ thấy em”, “Hôn em một vạn cái”, không như nhau mà đầy đủ.

Vi Tiểu Bảo thấy y ngòi bút chạy như bay, vô cùng thỏa mãn, nói “Quân La Sát cô tới chiếm đất đai Trung Quốc, giết chết rất nhiều bách tính Trung Quốc. Đại hoàng đế Trung Quốc rất tức giận, sai ta đem quân tới, bắt sống hết quân tướng của cô. Ta muốn chặt họ ra từng mảnh từng mảnh, nướng lên làm món Hà thư ni khắc...”. Viên giáo sĩ lại giật nảy mình, a một tiếng, nói “Lạy Chúa tôi!” Vi Tiểu Bảo nói tiếp “Có điều nể mặt công chúa cô, tạm thời không cắt không nướng. Nếu cô ưng thuận từ nay về sau quân La Sát không xâm phạm cương giới Trung Quốc ta nữa, Trung Quốc và La Sát sẽ làm bạn tốt. Nếu ngươi không nghe lời, ta sẽ sai quân tới giết sạch đàn ông La Sát, cô sẽ không còn có người đàn ông La Sát nào để ngủ chung nữa. Cô muốn có đàn ông ngủ chung, thì thiên hạ chỉ có người Trung Quốc thôi”.

Viên giáo sĩ trong lòng rất không cho là đúng, nghĩ thầm “Thiên hạ ngoài đàn ông La Sát không phải chỉ có đàn ông Trung Quốc, câu này rất không có lý”. Lại cảm thấy loại ngôn ngữ vô lễ như thế quyết không thể nói với công chúa, quyết ý đổi viết thành mấy câu vừa cung kính vừa thân mật, đoán là vị tướng quân Trung Quốc này cũng không sao biết được. Nhưng y là người cẩn thận, sợ bị nhìn ra chỗ sơ hở, nên mấy câu ấy đều viết thành tiếng Lạp Đinh, viết xong bất giác trên mặt lộ nét tươi cười.

Vi Tiểu Bảo lại nói “Bây giờ ta sai Vương Bát Tử Kê và Trư La Nhụ Phu đưa thư này tới cho cô, lại tặng lễ vật cho cô. Cô muốn làm tình nhân hay địch nhân của ta, là do tự cô quyết định thôi”.

Viên giáo sĩ lại sửa câu cuối cùng thành cực kỳ cung kính, viết “Tiểu thần Trung Quốc nhớ nhung ngưỡng mộ hậu ân của điện hạ, kính cẩn dâng cống vật, để tỏ lòng trung. Tiểu thần còn sống năm nào, cũng đều là bề tôi trung thành của điện hạ. Chỉ mong hai nước hòa hiếu, những quân dân La Sát bị bắt làm tù binh được trở về nước cũ, thì đó là ân đức vô lượng của điện hạ”. Câu cuối cùng là xuất phát từ lòng riêng của y, nghĩ nếu hai nước hòa nghị không thành, thì mình và đám hàng quân La Sát thế ắt chết nơi đất khách quê người, vĩnh viễn không được về nước.

Vi Tiểu Bảo đợi y viết xong, nói “Hết rồi. Ngươi đọc lại một lượt cho ta nghe”. Viên giáo sĩ hai tay cầm tờ giấy đọc, đọc tới những câu mình sửa vẫn nói theo nguyên ý của Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo vốn cũng chỉ biết tiếng La Sát rất có hạn, nghe ra tựa hồ cũng không sai gì lắm, đâu ngờ tới việc y dám tùy ý sửa đổi? Bèn gật gật đầu nói “Tốt lắm”. Rồi lấy ấn vàng “Phủ viễn đại tướng quân chi ấn” ra đóng mực son lên lá thư. Lá thư này là thư tình không ra thư tình, công văn không ra công văn hợp thành.

Vi Tiểu Bảo sai giáo sĩ ra ngoài lãnh thưởng, sai sư gia trong đại doanh cho lá thư vào phong bì, trên phong bì viết tên công chúa Tô Phi Á bằng chữ Trung Quốc. Viên sư gia kia chấm đẫm mực ngòi bút, dòng thứ nhất viết “Đại Thanh quốc Phủ viễn đại tướng quân Lộc Đỉnh công Vi phụng thư”, dòng thứ hai viết “Ngạc La Tư quốc Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Hà Cố luân trưởng công chúa điện hạ”. Hai chữ “La Sát” trong kinh Phật là ma quỷ, dùng gọi nước Nga là có ý khinh thường, nên trong văn thư đều gọi là “Ngạc La Tư”. Viên sư gia kia lại biết ba chữ “Tô Phi Á” rất không trang nhã, chữ Phi kia khiến người ta nghĩ tới câu “Phương thảo phi phi” (Cỏ thơm bời bời), tựa hồ châm chọc nàng toàn thân đầy lông, vì thế viết thành Tô Phi Hà, đã hợp với điển “Lạc hà dữ cô vụ tề phì” (Ráng chiều và cò lẻ cùng bay), lại có nghĩa “Phi hà phốc diện” (Ráng bay trùm mặt). “Cố luân trưởng công chúa” là phong hiệu tôn quý nhất của các công chúa nhà Thanh, chị hoàng đế là trưởng công chúa, con gái hoàng đế là công chúa, cô gái này là Nhiếp chính vương, lại là chị của hai vị Sa hoàng, tự nhiên là công chúa đứng đầu. Chỉ nghe Vi Tiểu Bảo cười nói “Công chúa La Sát có một chuyện với ta, mấy năm không gặp, không biết cô ta ra sao?”. Viên sư gia liền viết sau phong bì hai hàng “Phù hòa Nhung Địch, quốc chi phúc dã. Như lạc chi hòa, vô sở bất giai, thỉnh dữ tử lạc chi” (Phàm hòa với Nhung Địch, là phúc của nước vậy. Nếu vui chuyện hòa, không gì không hay, xin cùng người cùng vui), nghĩ đây là câu trong Tả truyện, chỉ tiếc La Sát là nước Nhung Địch, chưa chắc đã hiểu được kinh truyện của Trung Hoa thượng quốc mình, ý nghĩa song quan trong đó lại càng không hiểu được, lông mày đẹp cho thằng mù ngó, không khỏi có chỗ đáng tiếc ngọc sáng vứt ra chỗ tối.

Vi Tiểu Bảo không những không hiểu được hàm nghĩa của chữ Trung Quốc trong câu “Ngạc La Tư quốc Cố luân trưởng công chúa Tô Phi Hà”, mà ngay cả câu “Đại Thanh quốc Phủ viễn đại tướng quân Lộc Đỉnh công Vi”, ngoài chữ Vi họ của mình và chữ Đại thì không biết chữ nào, thấy viên sư gia viết sau phong bì hai hàng chữ, bèn nói “Đủ rồi, đủ rồi. Ngươi viết chữ rất đẹp, hơn cả gã râu xồm La Sát”.

Y dặn viên sư gia chuẩn bị một phần lễ vật trọng hậu, may là đều lấy được trong thành Nhã Khắc Tát, không phải tốn kém gì. Lại gọi hai viên Đội trưởng Hoa Bá Tư Cơ, Tề Lạc Nặc Phu tới bảo họ chọn trong đám hàng binh La Sát lấy một trăm người làm hộ vệ, lập tức đưa thư về Mạc Tư Khoa. Hai viên Đội trưởng mừng rỡ quá lòng mong mỏi, không ngừng khom lưng cám ơn, lại nắm tay Vi Tiểu Bảo, liên tiếp hôn vào mu bàn tay y. Vi Tiểu Bảo mu bàn tay bị râu hai người cọ vào vừa nhật vừa ngứa, nhịn không được hô hô cười rộ.

Thành Nhã Khắc Tát nhỏ, không đủ cho đại quân đóng, lúc ấy Vi Tiểu Bảo bàn bạc với Khâm sai và Sách Ngạch Đồ, sai hai người Lang Thân, Lâm Hưng Châu dẫn hai ngàn quân giữ thành, đại quân kéo về nam chia đóng ở hai thành Ái Hồn và Hô Mã Nhĩ chờ chỉ dụ. Vi Tiểu Bảo lúc lên đường trịnh trọng dặn hai tướng Lang Thân, Lâm Hưng Châu quyết không được đào giếng, đào địa đạo trong thành Nhã Khắc Tát.

Đại quân về nam. Bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Bằng Xuân đóng ở thành Ái Hồn, Tát Bố Tố suất lãnh một cánh quân khác đóng ở thành Hô Mã Nhĩ. Vi Tiểu Bảo sai hàng binh La Sát đổi mặc trang phục quân Thanh, sai người dạy tiếng Trung Quốc cho, bắt họ học thật thuộc những câu “Hoàng đế vạn tuế vạn vạn tuế”, “Thánh thiên tử vạn thọ vô cương”, “Hoàng đế Trung Quốc đức ban bốn bể, hoàng ân hạo đãng”, sau đó sai quân áp giải về Bắc Kinh, muốn họ hô lớn trên đường phố ở kinh thành, lúc triều kiến Khang Hy lại càng phải lớn tiếng reo hò, nói nếu hô càng vang rền, hoàng thượng ban thưởng càng trọng hậu.

Qua hơn hai mươi ngày, Khang Hy ban chiếu thư xuống, khen ngợi tướng sĩ xuất chinh, thăng Vi Tiểu Bảo làm Nhị đẳng Lộc Đỉnh công, các tướng sĩ còn lại đều được thăng thưởng. Khâm sai truyền chỉ đưa một cái hộp gỗ sơn đen cho Vi Tiểu Bảo, là hoàng thượng ngự tứ. Vi Tiểu Bảo dập đầu tạ ơn, mở nắp hộp ra, không kìm được ngẩn người. Trong hộp là một cái bát ăn cơm bằng vàng, trên khắc bốn chữ “Công trung thể quốc”, chính là cái bát năm xưa Thi Lang tặng y, chỉ là hoa văn vết chữ đều bị sứt mẻ, lại được tu sửa hoàn chỉnh.

Vi Tiểu Bảo nhớ năm xưa cái chén vàng này để trong phủ Bá tước ở Đồng Mạo Nhi Hồ đồng, đêm ấy lúc hoảng sợ chạy trốn hoàn toàn không mang theo, vừa ngưng thần nhớ lại đã hiểu lý do. Nhất định là đêm ấy sau khi phủ Bá tước bị pháo bắn tan nát, quân sĩ Tiền phong doanh đã lập biên bản thu nhặt những đồ vật trong phủ trình lên hoàng đế. Cái bát vàng này tuy bị hư hại nhưng chưa vỡ nát. Khang Hy sai thợ tu bỗ, lại ban cấp cho y, ý tứ tự nhiên là nói: Cái bát vàng của ngươi đã bị vỡ một lần, lần này phải bưng cho khéo, đừng để vỡ nữa. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Tiểu hoàng đế đối với mình rốt lại cũng có nghĩa khí, chúng ta có qua có lại, mình cũng không đào long mạch của y”. Đêm ấy mở đại yến khoản đãi Khâm sai, các tướng cùng ngồi bồi tiếp, ăn tiệc xong đánh bạc.

Lại qua hơn một tháng, Khang Hy lại có thượng dụ gởi tới, lần này thì nghiêm khắc quở phạt, nói Vi Tiểu Bảo làm việc bậy bạ, muốn quân La Sát hô lớn “Vạn thọ vô cương” thì rất vô vị. Trong thượng dụ nói “Làm bậc nhân quân chăn dân phải thể theo lòng trời, yêu thương lê dán. La Sát tuy là nước man di ngoài giáo hóa, nhưng tiểu dân cũng là người, đã hàng phục quy thuận, không nên khinh khi làm nhục. Ngươi là đại thần, phải khuyên nhà vua nhân đức thương dân. Nếu trẫm có ban ơn cho mọi người thì không đáng gọi là minh quân, nhưng nếu kiêu nịnh tàn ngược, thì vạn thọ vô cương chỉ làm khổ thiên hạ mà thôi. Đại thần xiểm nịnh, đặt nhà vua vào chỗ bất đức thì không tội gì lớn hơn, nên lấy đó làm răn”.

Vi Tiểu Bảo lần này vỗ mông ngựa lại thành sờ dái ngựa, rất là mất mặt, may là y da mặt dày, cũng không để ý gì, trước mặt viên Khâm sai truyền chỉ lớn tiếng chửi mình đáng chết, nghĩ thầm “Thiên hạ lại có người không thích đội mũ cao à? Nhất định lần này quân La Sát nói tiếng Trung Quốc không hay, hoàng thượng nghe thấy lăng líu không ra sao, nên y mới tức giận”. Bèn gọi mấy viên giáo thụ dạy tiếng Hoa cho quân La Sát tới chửi cho một trận. Sau khi chửi xong lại mở sòng đánh bạc với họ, gieo được vài ván xúc xắc, đã quên hết những lời giáo huấn của Khang Hy.

Thấm thoắt vài tháng, đông qua xuân tới. Vi Tiểu Bảo đóng quân ở thành Ái Hồn tuy thoải mái, nhưng nhớ bọn vợ con là A Kha, Tô Thuyên và Hổ Đầu, nhiều lần sai thân binh đưa lễ vật về nhà. Sáu vị phu nhân cũng đều gởi quần áo thức ăn tới. Mọi người biết y không biết chữ, nên cũng không gửi thư, chỉ sai thân binh nhắn miệng, nói trong nhà lớn nhỏ đều bình an, mong đại soái sớm khải hoàn trở về.

Hôm ấy trong kinh lại có thượng dụ ban xuống, sai Vi Tiểu Bảo và Sách Ngạch Đồ làm Nghị hòa đại thần, bàn bạc ký kết hòa ước với nước La Sát, lại phái Đô thống Hán quân Liêm Hoàng kỳ Nhất đẳng công Đông Quốc Cương, Hộ quân thống lĩnh Mã Lạt, Thượng thư A Nhĩ Nê, Tả Đô Ngự sử Mã Tề bốn người cùng tới giúp đỡ.

Đông Quốc Cương tuyên chỉ xong, lại lấy ra một tờ công văn tuyên đọc, chính là quốc thư của hai vị tiểu Sa hoàng nước La Sát gởi Khang Hy, lúc ấy đã được giáo sĩ Hà Lan truyền giáo ở Bắc Kinh dịch ra chữ Hán. Trong quốc thư nói:

“Kính phụng thượng quốc Hoa Hạ, hoàn vũ mênh mông, suất lãnh hiền thần cùng lo trị nước, chia vạch cương thổ, Mãn Hán kiêm quản, thanh danh lẫy lừng, đại thánh hoàng đế nói: Trước đây giao cho A Liệt Khắc Tịch Mễ Hãn La làm đại hãn, từng sai bọn Ni Quả Lai mang thư và lễ vật tới thông hiếu với thiên triều, vì không biết điển lễ Trung Quốc, lời lẽ cử chỉ thô lậu không văn nhã, đã khoan hồng tha tội cho. Còn như ca ngợi hoàng đế, thì sơ xuất thất lễ, cũng vì là người ở xa, điển lễ vốn chưa nhìn thấy, may không trách tội. Thư của hoàng đế ban cho ngày trước, hạ quốc không ai hiểu được, chưa hiểu lý do. Đến khi bọn Nê Quả Lai trở về hỏi lại, chỉ nói đại thần thiên triều không chịu trả bọn Căn Đặc Mộc Nhĩ bỏ trốn, lại kết tội quấy nhiễu biên cảnh. Gần đây nghe hoàng đế ra quân, nhọc nhằn tới biên giới, có chỗ mất ý thông hiếu. Nếu quả dân ở biên giới của hạ quốc gây hấn làm loạn, thiên triều sai sứ tỏ ý, tự nhiên sẽ nghiêm trị tội ấy, cần gì phải nhọc công dấy động can qua? Nay được chiếu chỉ mới hiểu rõ đầu đuôi, đã ra lệnh cho tướng sĩ hạ quốc phái đi đến lúc ấy không được giao phong. Kính xin trả lại những người làm loạn ở nước tôi, sẽ mang về chính pháp, sai sứ thần tới bàn việc phân định biên giới, trước hết sai bọn Mạt Khởi, Phật Nhi Ngụy Ngưu Cao, Nghi Phiên, Pháp Nga La Ngõa ngày đêm mang lễ vật và thư tới. Xin triệt thoái quân đang vây thành Nhã Khắc Tát, viết thư rõ ràng, hiểu dụ cho hạ quốc, thì mọi sự êm đẹp, vĩnh viễn hòa mục. Đại thần thượng quốc là Vi Tiểu Bảo các hạ, năm xưa có quen biết với Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Á điện hạ hoàng tỷ của ta, giá lâm tới kinh sư Mạc Tư Khoa, giúp đỡ dẹp loạn, có công lớn với hạ quốc, đó là ơn huệ của thượng quốc, vua tôi hạ quốc thật không dám quên. Kính dâng đại thánh hoàng đế bệ hạ lễ vật trọng hậu, lễ vật kém trọng hậu hơn thì dâng cho đại thần Vi Tiểu Bảo các hạ, để tỏ ý thành tín hòa mục của hạ quốc”[57].

Đông Quốc Cương đọc xong quốc thư, sư gia giải thích ý tứ trong lá thư cho Vi Tiểu Bảo và các tướng. Đây là thông lệ trong quân, văn thư qua lại, chữ nghĩa có lúc sâu sắc khó hiểu, có nhiều tướng lĩnh cầm quân không biết chữ, cho dù học hành vài năm thì hiểu biết cũng rất có hạn, văn thư qua lại trong quân lại có liên quan tới quân cơ đại sự, nếu hiểu lầm thì can hệ rất lớn, vì thế trong quân chế Mãn Châu có quy định chức sư gia giải thích văn thư.

Đông Quốc Cương cười nói “Vị nữ vương Nhiếp chính nước La Sát này rất nhớ tình nghĩa cũ của Vi đại soái, lễ vật gởi tới quả không ít. Hoàng thượng sai huynh đệ mang theo ở đây, giao cho đại soái thu nạp”, Vi Tiểu Bảo chắp tay nói “Đa tạ, đa tạ”, lại nói “Người La Sát không hiểu lễ tiết, không nói lễ vật của mình nhỏ mọn mà lại khoe khoang nói lễ vật rất trọng hậu, lễ vật tặng cho hoàng thượng rất trọng hậu, lễ vật tặng ta thì không trọng hậu bằng, cũng không sợ người ta chê cười”.

Đông Quốc Cương nói “Vâng. Bọn hàng binh La Sát mà Vi đại soái dâng về kinh, hoàng thượng đích thân tra hỏi, phát hiện trong bọn quân sĩ có một viên quan lớn La Sát...”. Vi Tiểu Bảo a một tiếng, kêu lên “Có chuyện đó à?”. Đông Quốc Cương nói “Người này mười phần giảo hoạt, trà trộn trong đám quân sĩ, hoàn toàn không động thanh sắc. Hôm ấy hoàng thượng thẩm vấn đám hàng binh, có một giáo sĩ truyền giáo người Hà Lan làm thông dịch, hỏi tới đoạn sau, hoàng thượng nói mấy câu bằng tiếng Lạp Đinh với viên giáo sĩ. Trong bọn hàng binh La Sát có một tên trên mặt đột nhiên có vẻ kinh ngạc. Hoàng thượng hỏi y có biết tiếng Lạp Đinh không, tên quân ấy không ngừng lắc đầu. Hoàng thượng dùng tiếng Lạp Đinh nói: Lôi tên này ra chém đầu. Tên lính ấy biến sắc, quỳ xuống xin tha, nhận là biết tiếng Lạp Đinh”.

Vi Tiểu Bảo hỏi “Tiếng Lạp Đinh là tiếng gì? Lời người La Sát bọn họ nói lúc kéo trang đinh[58] gánh quân lương thì làm sao hoàng thượng biết được?”. Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng thông minh trí tuệ, không gì không biết. Lời người La Sát nói lúc kéo trang đinh cũng biết”. Vi Tiểu Bảo nói “Tại sao tiếng người La Sát nói lúc bình thời thì hoàng thượng không biết, mà lúc họ kéo trang đinh hoàng thượng lại biết?”.

Đông Quốc Cương không sao trả lời, cười nói “Đạo lý ở trong đó thì chúng ta đều không hiểu. Lần sau đại soái triều kiến hoàng thượng, cứ tự mình dập đầu thỉnh vấn thôi”. Vi Tiểu Bảo gật gật đầu, hỏi “Vậy người La Sát ấy về sau thế nào?”, Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng thẩm vấn tỉ mỉ, người ấy cuối cùng không sao che giấu, lần lượt thổ lộ tất cả. Nguyên là người ấy tên Á Nhĩ Thanh Tư Cơ, là Đô Tổng đốc của cả hai thành Ni Bố Sở, Nhã Khắc Tát”.

Mọi người nghe thấy đều không kìm được cùng a một tiếng. Vi Tiểu Bảo nói “Chức quan của thằng đầy tớ ấy không nhỏ đâu”. Đông Quốc Cương nói “Chứ không phải sao? Trong những quan lại nước La Sát phái tới phương đông thì y là lớn nhất. Hôm thành Nhã Khắc Tát bị hạ, nhất định là y đổi mặc y phục quân sĩ, đến nỗi bị y qua mặt”, Vi Tiểu Bảo lắc đầu cười nói “Hôm hạ thành Nhã Khắc Tát, tướng quân, quân sĩ, quan lớn, quan nhỏ người La Sát đều cởi hết quần áo, nhìn đi nhìn lại thì người nào cũng thế, quả thật không có gì khác nhau. Không biết được là làm quan lớn nhỏ thế nào, nói năng cũng như nhau. Huynh đệ... huynh đệ không nhận ra được đại quan của họ, cũng không phải là lỗi lầm của bọn ta”.

Các tướng hô hô cười rộ, giải thích cho Đông Quốc Cương biết tình hình hôm hạ thành Nhã Khắc Tát.

Đông Quốc Cương cười nói “Té ra là thế, thế thì cũng không trách được. Hoàng thượng nói: Vi Tiểu Bảo bắt được Đô Tổng đốc hai thành Ni Bố Sở, Nhã Khắc Tát, công lao không nhỏ, có điều y lại cho rằng người này là quân sĩ bình thường, làm việc cũng quá hồ đồ, lấy công trừ tội, chuyện này không thưởng cũng không phạt”. Vi Tiểu Bảo đứng lên, cung kính nói “n điển của hoàng thượng, nô tài vô cùng cảm kích”

Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng thẩm vấn A Nhĩ Thanh Tư Cơ, hỏi liên tiếp sáu ngày, quân chính đại sự, cương vực vật sản của nước La Sát đều hỏi tỉ mỉ. Hoàng thượng quả thật là trời sinh anh minh, lại phát hiện được trên người A Nhĩ Thanh Tư Cơ một bí mật. Theo Vi đại soái nói, người ấy lúc bị bắt, trên không có mảnh vải nào, không ngờ y lại có cách giấu giếm một văn kiện bí mật”.

Vi Tiểu Bảo chửi “Con bà nó, con gà chết này thật là quỷ kế đa đoan, lần sau mà gặp y, không nhìn kỹ y không được. Văn kiện bí mật ấy là cất giấu ở chỗ nào, chẳng lẽ ở... Ở...”.

Đông Quốc Cương nói “Trước khi hàng binh La Sát triều kiến hoàng thượng, tự nhiên đều bị Ngự tiền thị vệ lục soát khắp người, râu tóc đều bị sờ hết, tất cả quần và giày cũng đều phải cởi ra. Người Phiên bang lòng dạ khó lường, nếu giấu giếm hung khí trong người, thì làm sao được? Gã Á Nhĩ Thanh Tư Cơ này đương nhiên cũng bị lục soát, trên thân thể cũng không có vật gì lạ. Nhưng hoàng thượng quan sát tỉ mỉ, thấy trên vai phải y có một khối lồi lên, lại thỉnh thoảng liếc mắt vào đó, bèn hỏi y trên tay trái có vật gì. A Nhĩ Thanh Tư Cơ kéo tay áo lên, trên tay băng bó, nói là bị thương lúc ở thành Nhã Khắc Tát. Hoàng thượng bảo y bước tới gần, dùng sức bóp cánh tay y một cái. A Nhĩ Thanh Tư Cơ ối chao một tiếng, nhưng trong thanh âm lại không tỏ vẻ đau đớn gì lắm”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Thú vị thật, thú vị thật! Vậy thì gã La Sát ấy bị thương chỉ là giả”. Đông Quốc Cương nói “Chứ không phải sao? Hoàng thượng lập tức sai thị vệ cởi lớp băng trên cánh tay y ra. A Nhĩ Thanh Tư Cơ mặt xám như tro, hoảng sợ run bắn cả người. Vi đại soái, ngươi đoán trong lớp băng là giấu vật gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi vừa nói là văn kiện bí mật, chẳng lẽ là bó trong lớp băng ấy sao?”. Đông Quốc Cương vỗ tay cười nói “Đúng thế. Chẳng trách hoàng thượng thường khen ngươi thông minh, quả nhiên đoán một lần là đúng ngay. Dưới lớp băng của gã Á Nhĩ Thanh Tư Cơ rõ ràng là một văn kiện, là mật dụ của Sa hoàng nước La Sát gởi y. Hoàng thượng bảo giáo sĩ Hà Lan dịch ra, phó bản của bản sao ở đây”, rồi rút trong bọc ra một tờ công văn, cao giọng đọc:

“Ngươi nên nói với hoàng đế Trung Quốc: Đại quân chủ hoàng đế thống trị Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư kiêm đại vương nhiều nước Nga hoàng bệ hạ, oai danh vang tới nơi xa, đã có quân vương nhiều nước chịu thần phục dưới sự thống trị của đại quân chủ hoàng đế bệ hạ. Hoàng đế Trung Quốc y cũng nên xin nhận ân huệ của đại quân chủ thống trị Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, thần phục dưới sự thống trị của đại quân chủ hoàng đế bệ hạ. Đại hoàng đế bệ hạ nhất định sẽ thương yêu hoàng đế Trung Quốc trong hoàng ân hạo đãng, lại che chở cho, để khỏi bị địch nhân xâm chiếm, hoàng đế Trung Quốc y cứ một mình thần phục đại quân chủ bệ hạ, chịu ở dưới sự thống trị tối cao của Nga hoàng bệ hạ, vĩnh viễn không thay đổi, tiến cống phú thuế cho đại quân chủ, đại quân chủ hoàng đế bệ hạ sẽ ưng chuẩn cho những người thần thuộc tự do buôn bán ở Trung Quốc và trong hai nước, vì thế hoàng đế Trung Quốc y nên để cho sứ thần của đại hoàng đế bệ hạ đi lại không ngăn trở, lại gửi thư phúc đáp cho đại hoàng đế bệ hạ”[59].

Đông Quốc Cương đọc một câu, Vi Tiểu Bảo chửi một tiếng “Đánh rắm!”. Đến khi y đọc xong, Vi Tiểu Bảo đã chửi hơn mười tiếng “Đánh rắm”.

Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng dụ rằng: Người La Sát dã tâm sôi sục, rất là vô lễ. Hoàng đế gởi đạo mật dụ ấy là cha của hai Sa hoàng hiện nay, y đã chết rồi. Lúc ấy y không biết người Trung Quốc chúng ta lợi hại. Bây giờ người La Sát đã nếm mùi đau khổ, chắc không còn dám ngông cuồng như trước nữa. Có điều lúc họ nghị hòa, nhất định sẽ vừa cứng vừa mềm, không thể coi thường”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng thế. Hoàng thượng đã dặn dò rồi, chúng ta hung dữ đánh vài tát, đá vài cước, rồi sẽ vỗ vỗ vai, vuốt vuốt lưng họ”. Đông Quốc Cương nói “Nhiếp chính nữ vương gì đó rất giảo hoạt, cô ta giả như không biết thành Nhã Khắc Tát đã bị chúng ta hạ, nói đã hạ lệnh cho quân La Sát không được giao phong với chúng ta. Nhưng trong quốc thư lại để lòi đuôi, xin hoàng thượng giao lại những người La Sát bị bắt cho họ chính pháp”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Làm gì có chuyện tiện nghi như thế? Cô ta đưa tới cho ta mấy tấm da điêu, mấy viên bảo thạch, mà lại muốn chúng ta thả hết quan quân của cô ta à?”.

Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng dặn người La Sát đã xin giảng hòa thì nghị hòa với họ cũng không hề gì, có điều chúng ta phải mang đại quân tới, thề ước dưới thành”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Cái gì là thề ước dưới thành?”. Đông Quốc Cương nói “Hai nước giao binh, quân chúng ta bao vây thành trì Phiên bang, Phiên bang cầu hòa, soạn thảo hòa ước ngay dưới thành, như thế gọi là thề ước dưới thành. Bọn Phiên bang tuy nói đầu hàng nhưng vẫn không chịu nhận thua đâu”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế. Thật ra nếu chúng ta ra quân đánh thành Ni Bố Sở, cũng không phải chuyện khó”.

Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng dụ rằng đánh thắng La Sát thêm vài trận nữa vốn là việc đã nắm chắc. Có điều La Sát là nước lớn hiện nay, thống hạt rất nhiều nước nhỏ. Nếu họ thua to ở phương đông, mất hết oai phong, các nước nhỏ thần thuộc sẽ không phục. Đến lúc ấy thì nước La Sát không mang đại quân tới báo thù không xong, sẽ chiến tranh liên miên, gây ra tai họa, không biết đánh nhau đến năm nào tháng nào mới xong. Hoàng thượng tra hỏi Á Nhĩ Thanh Tư Cơ, biết phía tây nước La Sát có một nước lớn khác, gọi là Thụy Điển, hiện có thế đụng nhau là đánh lớn với nước La Sát. Nếu nước La Sát đồng thời đánh nhau với cả hai phía đông tây thì rất đau đầu. Chúng ta nhân cơ hội này buộc họ ký hòa ước thì nhất định có thể chiếm phần tiện nghi, ít nhất cũng có thể giữ cho phương bắc thái bình được một trăm năm”.

Vi Tiểu Bảo sau khi đại thắng, rất muốn một hồi trống thừa thế hạ luôn thành Ni Bố Sở, nghe hoàng thượng ưng thuận cho La Sát cầu hòa, thấy không thỏa mãn, nhưng đây là quyết sách của hoàng đế, cũng là anh vợ mình, y muốn cái gì đó trong cái gì đó mà cái gì đó ngoài vạn dặm, mình cũng khó có thể trái chỉ, lại xoay chuyển ý nghĩ “Ngươi là cậu hoàng thượng, cũng là cậu vợ ta, tính vai vế thì là bậc trưởng bối của ta, ngươi là Nhất đẳng công, ta chỉ là mới được thăng Nhị đẳng công. Lần này nghị hòa với La Sát, hoàng thượng lại phái ngươi làm phó cho ta, thì hoàng thượng đã cho ta có thể diện nhiều lắm rồi”.

Đông Đồ Lại cha Đông Quốc Cương là cha Hiếu Khang hoàng hậu mẹ ruột Khang Hy, là người Hán, vì thế huyết thống của Khang Hy là nửa Mãn nửa Hán. Lúc ấy Đông Đồ Lại đã chết, Đông Quốc Cương được tập phong là Nhất đẳng công. Đông Đồ Lại năm xưa đã sớm quy phục nhà Mãn Thanh ngoài cửa quan, thuộc đạo Liêm Hoàng kỳ, quân công hiển hách, oai vọng lẫy lừng, Vi Tiểu Bảo lại nghe sai tên y là Đổ Lại, Đổ Lại nói rõ là đánh bạc thua thì muốn giở trò vô lại, đường đường là quốc trượng mà như thế thì có gì hay? Tối hôm ấy sau tiệc tiếp khách, các đại thần dưới sự đề xướng của Vi đại soái đánh bạc vài ván. Đông Quốc Cương quả nhiên thua, nhưng đẩy ngân phiếu sáu trăm lượng bạc ra không hề để ý, hoàn toàn không có ý muốn giở trò vô lại. Vi Tiểu Bảo thấy y thua rất sảng khoái, không hề có phong thái của cha, không kìm được vô cùng kinh ngạc, lúc trở về phòng, lên giường đi ngủ mới sực nghĩ ra “Y tên Đông cốt Quang, nói rõ là chơi bài xương thì phải thua sạch Người này phẩm chất cờ bạc rất tốt, có thể kết giao với y”[60].

Hôm sau Vi Tiểu Bảo bàn bạc với các đại thần, mọi người nói nếu đã phải thề ước dưới thành thì không ngại gì đem quân tới đó, dĩ dật đãi lao. Vi Tiểu Bảo gật đầu khen phải, ra lệnh hai đạo quân ở thành Ái Hồn và thành Hô Mã Nhĩ cùng xuất phát, hội sư dưới thành Ni Bố Sở. Lúc ấy đã vào mùa hè, trời ấm tuyết tan, hành quân rất tiện.

Hôm ấy tới cạnh sông Hải Lạp Nhĩ Hà, quân tiên phong báo về là có một toán quân La Sát nhỏ kéo tới, hai viên Đội trưởng đứng đầu xin ra mắt đại soái. Vi Tiểu Bảo truyền kiến, té ra là hai người Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu. Vi Tiểu Bảo mừng nói “Hay lắm, hay lắm! Té ra là Vương Bát Tử Kê và Trư La Nhụ Phu”. Hai người khom lưng làm lễ, dâng thư trả lời của công chúa Tô Phi Á.

Viên giáo sĩ La Sát lúc ấy vẫn còn trong đại doanh quân Thanh để chờ khi cần tới. Khang Hy vì việc soạn thảo văn kiện nghị hòa, lại phái thêm một giáo sĩ Hà Lan tới giúp đỡ. Vi Tiểu Bảo truyền gọi hai viên giáo sĩ vào trướng, bảo họ dịch thư trả lời của công chúa.

Viên giáo sĩ La Sát hôm trước sửa đổi nguyên ý lá thư tình của Vi Tiểu Bảo, lúc ấy trong lòng hồi hộp, chỉ sợ trong thư trả lời của công chúa để lộ ra, vội cầm lá thư đọc qua một lượt, lúc ấy mới yên tâm. Viên giáo sĩ Hà Lan lập tức dịch chữ La Sát trong thư ra tiếng Hoa.

Trong thư nói: Từ khi chia tay đến nay, vẫn thường tưởng nhớ, mong sau khi hòa ước đã thành, Vi Tiểu Bảo sẽ tới Mạc Tư Khoa một chuyến để tâm tình với cố nhân. Vi Tiểu Bảo được vua hai nước sủng ái, nên nói rõ những chuyện hiểu lầm bên trong, xóa bỏ ngăn cách, xây dựng nền tảng cho sự hòa hiếu giữa hai nước hiện nay. Trong thư lại nói: Trung Quốc và La Sát chia ở hai phía đông tây, đều là nước lớn, nếu liên thủ kết minh thì có thể cầm quyền thiên hạ, cho dù nước nào cũng không thể kháng cự. Nếu hòa nghị không thành, chiến tranh kéo dài thì không khỏi lưỡng bại câu thương. Vi thế mong Vi Tiểu Bảo xúc tiến hoàn thành việc này, đối với Trung Hoa dĩ nhiên là lập được công lớn, nhưng nước La Sát cũng sẽ có báo đáp trọng hậu. Lại xin Vi Tiểu Bảo tâu với hoàng đế Trung Quốc thả các tướng sĩ La Sát bị bắt về cho họ được đoàn tụ cùng gia đình vân vân.

Viên giáo sĩ Hà Lan dịch xong, Vi Tiểu Bảo thấy hai người Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu liên tiếp đưa mắt ra hiệu, biết còn có chuyện khác, lúc ấy sai hai viên giáo sĩ lui ra, hỏi “Các ngươi còn có lời gì muốn nói?”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ muốn bọn ta nói với đại nhân trẻ con Trung Quốc là công chúa điện hạ rất nhớ người, đàn ông La Sát không tốt, chỉ có đại nhân trẻ con Trung Quốc tốt nhất trên đời, mời người nhất định phải tới Mạc Tư Khoa”. Vi Tiểu Bảo hừ một tiếng, nghĩ thầm “Đây là thuốc mê La Sát, ngàn vạn lần không tin được”.

Tề Lạc Nặc Phu nói “Công chúa điện hạ còn có mấy việc muốn nhờ đại nhân trẻ con Trung Quốc thu xếp. Đây là công chúa điện hạ gởi cho người”. Nói xong lấy trên cổ ra một cái vòng đồng, dưới cái vòng có buộc một cái bao da, Hoa Bá Tư Cơ cũng làm như vậy. Chắc là hai người lặn lội đường xa, sợ bị thất lạc nên dùng vòng đồng đeo bao da vào cổ. Miệng hai cái bao da đều dùng khóa đồng khóa chặt. Hoa Bá Tư Cơ lấy ở hông ra một cái chìa khóa bước tới mở khóa trên cái bao da của Tề Lạc Nặc Phu, Tề Lạc Nặc Phu cũng lấy ra một cái chìa khóa mở khóa trên cái bao da của Hoa Bá Tư Cơ. Hai người cung cung kính kính đặt cái bao da lên cái bàn trước mặt Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo trút ngược cái bao da, tiếng leng keng vang lên, mấy mươi viên bảo thạch lăn ra, màu sắc hình dạng khác nhau, rực rỡ lấp lánh, đều là hồng bảo thạch, lam bảo thạch, hoàng bảo thạch cực lớn, trong cái bao kia thì đựng đầy toàn thạch và phỉ thúy. Lập tức cả trướng sáng ngời, thật mờ cả mắt.

Vi Tiểu Bảo bình sinh đã nhìn thấy vô số châu báu, nhưng rất nhiều viên bảo thạch lớn cùng ở một chỗ thế này thì chưa từng thấy qua, cười nói “Công chúa tặng ta lễ vật trọng hậu thế này, quả thật không thể nhận được”[61].

Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ nói nếu đại nhân trẻ con Trung Quốc làm xong việc lớn, sẽ còn có lễ vật quý trọng hơn tặng cho người, lại có gái đẹp mười nước Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, Ca Tát Khắc, Đạt Đán, Thụy Điển, Ba Tư, Ba Lan, Nhật Nhĩ Man, Đan Mạch, mỗi nước một người, người nào cũng trẻ tuổi xinh đẹp, người nào cũng là xử nữ, quyết không phải là gái góa, nhất tề tặng cho đại nhân trẻ con Trung Quốc”.

Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nói “Bảy người vợ của ta đã ứng phó không xong, lại thêm mười cô gái đẹp nữa thì đại nhân trẻ con Trung Quốc sẽ lập tức một mạng ô hô”, Hoa Bá Tư Cơ luôn miệng nói “Không sao đâu, không sao đâu, mười xử nữ xinh đẹp, công chúa điện hạ đã chuẩn bị rồi, bọn ta đã chính mắt nhìn thấy, người nào dung mạo cũng như hoa mai côi, da trắng như sữa, giọng nói như tiếng chim oanh”. Vi Tiểu Bảo đột nhiên động tâm, hỏi “Công chúa điện hạ muốn ta làm chuyện gì?”.

Tề Lạc Nặc Phu nói “Chuyện thứ nhất là hai nước hòa hiếu, hoạch định biên giới công bằng, từ nay không đánh nhau nữa”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Tiểu hoàng đế đang muốn như thế, chuyện này thì làm được”, liền cau cau mày, nói “Phía tây nước La Sát các ngươi có nước Thụy... Thụy gì đó phái sứ giả tới muốn bọn ta cùng xuất binh, đông tây giáp công La Sát, chia đôi nước các ngươi. Lúc ấy thì các loại mỹ nữ Nga La Tư lớn, Nga La Tư nhỏ, Nga La Tư vừa vừa không lớn không nhỏ, Nga La Tư đen, Nga La Tư trắng, Nga La Tư đủ màu lốm đốm gì đó muốn bao nhiêu là có bấy nhiêu, cũng không cần công chúa điện hạ các ngươi tặng nữa. Huống hồ mỗi loại chỉ tặng có một người, thật nhỏ mọn quá!”.

Hai viên Đội trưởng La Sát vừa nghe thấy đều giật nảy mình. Lúc ấy vua Tra Lý thứ mười một của Thụy Điển là một nhà vua trẻ tuổi anh minh có tài, chỉnh đốn quân đội chấn hưng võ bị, rất có ý đông chinh đánh nước La Sát, hàng ngày quân mã ùn ùn tiến về phía đông. Đại thần văn võ trong triều đình Mạc Tư Khoa đang lo lắng chuyện ấy, không ngờ Thụy Điển lại nghĩ tới việc muốn liên minh với Trung Quốc. La Sát tuy mạnh, nhưng nếu trước mặt sau lưng đều thù địch, thì vô cùng nguy hiểm.

Vi Tiểu Bảo nhìn sắc mặt hai người, biết mình ra hư chiêu đã có hiệu quả, liền nói “Nhưng ta và công chúa điện hạ là bạn thân, làm sao ưng thuận bọn Man tử nước Thụy gì đó được? Hiện hoàng đế Trung Quốc bọn ta còn chưa quyết định chủ ý, nếu quả thật nước La Sát thật lòng cẩu hòa, thì ta có thể đuổi sứ giả nước Thụy gì đó về nước”.

Hai viên Đội trưởng cả mừng, luôn miệng nói “Nước La Sát mười phần thật lòng, không có chút nào giả trá. Xin đại nhân trẻ con Trung Quốc mau đuổi sứ giả Thụy Điển về, hay tốt nhất là cứ một đao chém đầu y đi”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Đầu sứ giả thì không chém được. Huống chi y đã tặng ta rất nhiều bảo thạch, mười mấy mỹ nữ, nhát đao ấy cũng không chém được, đúng không?”. Hai viên Đội trưởng luôn miệng khen phải, nghĩ thầm “Té ra nước Thụy Điển cố ý lấy lòng, đưa hàng trước, thu tiền sau, chiêu này còn khôn ngoan hơn bọn mình”. Lại nghĩ “May mà đại nhân trẻ con Trung Quốc là người tình của công chúa bọn mình, nếu không thì chuyện này quả thật hỏng bét”.

Vi Tiểu Bảo hỏi “Công chúa điện hạ còn muốn ta làm chuyện gì nữa?”. Hoa Bá Tư Cơ mỉm cười nói “Chuyện công chúa điện hạ thật lòng muốn đại nhân trẻ con Trung Quốc làm là muốn mời người tới làm việc trong tẩm thất của công chúa ở cung Khắc Lý Mụ Lâm tại Mạc Tư Khoa”. Vi Tiểu Bảo cười hắc lên một tiếng, nghĩ thầm “Đây là thuốc mê La Sát, nói tắt là thuốc La Sát, uống được không tin được”. Bèn cười nói “Té ra đàn ông La Sát các ngươi đều vô dụng”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Cũng không phải là đàn ông La Sát vô dụng, chẳng qua là công chúa điện hạ đặc biệt nhớ nhung đại nhân trẻ con Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Lại một chén thuốc La Sát nữa”. Liền hỏi “Nếu thế thì công chúa không còn chuyện gì khác muốn ta làm phải không?”.

Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ muốn xin hoàng đế bệ hạ Trung Quốc ưng thuận cho thương nhân hai nước có thể qua lại hai nước, tự do thông thương”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Thương nhân hai nước qua lại thường xuyên, công chúa cũng tiện thỉnh thoảng gởi thư tặng quà cho đại nhân trẻ con Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Con mẹ nó, lại một chén nữa”, rồi nói “Nói thế thì hai nước thông thương là công chúa vì chuyện riêng chứ không phải vì chuyện công à?”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Vâng, vâng, hoàn toàn là vì đại nhân trẻ con Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nói “Hiện ta đã không phải là trẻ con, các ngươi không được gọi là đại nhân trẻ con Trung Quốc gì đó nữa”. Hai người nhất tề khom lưng thật thấp, nói “Vâng, vâng, đại nhân các hạ Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo cười khẽ một tiếng, nói “Được, các ngươi lui ra nghỉ ngơi đi. Bọn ta định tới Ni Bố Sở, các ngươi đi cùng là được”.

Hai người cùng giật nảy mình, nhìn nhau một cái, nghĩ thầm “Đại quân Trung Quốc tới Ni Bố Sở làm gì? Chẳng lẽ là tới đánh thành sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi yên tâm. Ta đáp ứng công chúa, hai nước hòa hiếu, không đánh nhau nữa là được”. Hai người nhất tề khom lưng, nói “Đa tạ đại nhân trẻ..., không phải, các hạ Trung Quốc”.

Hoa Bá Tư Cơ lại nói “Công chúa nghe nói cầu ở Trung Quốc xây dựng rất tốt, bất kể mặt sông lớn rộng thế nào cũng có thể dùng đá lớn xây cầu, bên dưới không cần trụ đá. Công chúa yêu thích đại nhân các hạ Trung Quốc, cũng yêu thích đồ vật của Trung Quốc, nên xin đại nhân phái vài kỹ sư giỏi xây cầu tới Mạc Tư Khoa xây vài chiếc cầu đá Trung Quốc thần kỳ. Công chúa điện hạ hàng ngày nhìn thấy cầu đá Trung Quốc, đi lại tản bộ trên cầu, cũng như hàng ngày được thấy mặt đại nhân các hạ”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Thuốc La Sát cứ đổ hết chén này tới chén khác, uống nữa thì mình phải ói ra mất. Công chúa đặc biệt vừa ý cầu đá Trung Quốc chúng ta, vì lý do gì? Trong này ắt có chuyện kỳ lạ, không thể mắc lừa con hồ ly La Sát này được”. Liền nói “Công chúa nhớ nhung ta thì không cần xây cầu đá, công trình lớn quá. Để ta gởi cô ta mấy cái chăn, mấy cái gối bằng gấm Trung Quốc là được, cho cô ta hàng đêm ôm ấp nằm ngủ, giống như đêm nào cũng có đại nhân các hạ Trung Quốc bầu bạn với cô ta”.

Hai viên Đội trưởng La Sát nhìn nhau một cái, trên mặt đều có vẻ nhăn nhó. Tề Lạc Nặc Phu nói “Như thế... giống như...”. Hoa Bá Tư Cơ đầu óc mau lẹ hơn, nói “Chủ ý của đại nhân các hạ rất cao minh, ôm chăn ôm gối Trung Quốc ngủ cũng rất hay. Có điều chăn gối bằng gấm qua vài năm sẽ cũ rách, không vững chắc bằng cầu đá, vì thế mới xin đại nhân phái kỹ sư tới xây dựng cầu đá”.

Vi Tiểu Bảo nghe khẩu khí của hai người thì triều đình La Sát có nhu cầu rất cấp thiết về kỹ sư xây dựng cầu đá, đoán ắt là có âm mưu quỷ kế. Y không biết đương thời kỹ thuật xây cầu của Trung Quốc đứng đầu thiên hạ, người ngoại quốc tới Trung Quốc nhìn thấy cầu đá quy mô bề thế ắt tặc lưỡi khen lạ, tán thưởng không thôi, làm sao có thể bắc cầu qua mặt sông rộng mà phía dưới không cần trụ cầu, càng cảm thấy thần kỳ không lường được. Người La Sát mong mỏi học được cách thức xây cầu ấy rốt lại là xuất phát từ lòng hâm mộ khoa học kỹ thuật Trung Quốc chứ hoàn toàn không có âm mưu gì[62].

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Các ngươi càng cần thì lão tử càng không cho”, bèn nói “Biết rồi, lui ra đi!”

Hai viên Đội trưởng không dám nói nữa, làm lễ lui ra.

*

* *

Chẳng bao lâu, Khâm sai đại thần nước La Sát là Phí Yếu Đa La ở thành Ni Bố Sở được tin quân Thanh kéo tới, vội sai người đưa thư, xin quân Thanh đóng lại ở chỗ cũ, y sẽ lập tức tới gặp[63].

Vi Tiểu Bảo nói “Không cần khách khí, cứ để bọn ta tới chào khách thôi!”. Quân Thanh ùn ùn cuồn cuộn kéo tới dưới thành Ni Bố Sở. Tát Bố Tố, Bằng Xuân, Mã Lạt chia nhau thống lãnh người ngựa, đi vòng quanh đóng giữ các đường yếu đạo phía bắc, phía nam, phía tây thành Ni Bố Sở, đã chặn đường rút lui của quân La Sát, lại cản trở viện binh phía tây. Vi Tiểu Bảo đích thân thống lãnh trung quân đóng ở phía đông thành. Pháo lưu tinh trong trung quân bắn lên không, pháo hiệu bốn phía cùng vang lên ầm ầm.

Đại thần, võ quan, sĩ tốt La Sát trong thành Ni Bố Sở thấy quân Thanh đông nghịt như mây vây thành, quân dung hùng tráng, không ai không mất hết khí thế. Phí Yếu Đa La lập tức sắp xếp lễ vật sai người đưa tới quân Thanh, lại gởi thư cho Khâm sai đại thần Trung Quốc nói hoàng đế hai nước đã quyết định bãi binh nghị hòa, lần này gặp nhau cốt để bàn định hòa ước, quân đội hai bên không nên cách nhau quá gần, để tránh dẫn tới xung đột, làm tổn thương tới ý hòa hiếu của hai nước.

Vi Tiểu Bảo bàn bạc với các đại thần. Mọi người đều nói Trung Hoa thượng quốc không thể ngang ngược, phải nên tiên lễ hậu binh. Lúc ấy Vi Tiểu Bảo ra lệnh lui lại vài dặm, đóng từ sông Thập Nhĩ Khách qua phía đông, lại sai quân Thanh ở ba phía bắc, tây, nam thành Ni Bố Sở lui vào rừng núi chờ lệnh.

Phí Yếu Đa La thấy quân Thanh lui lại, cũng hơi yên tâm, lại viết một văn thư đề ra bốn điều kiện khi hội kiến: thứ nhất là chỗ hội kiến phải ở giữa thành Ni Bố Sở và sông Thập Nhĩ Khách, thứ hai là hôm hội kiến Khâm sai mỗi nước đều dắt theo bốn mươi tùy viên, thứ ba là hai nước đều đem năm trăm quân ra, quân Nga đóng ở ngoài thành Ni Bố Sở, quân Thanh đóng ở bờ sông Thập Nhĩ Khách, thứ tư là thân binh tùy tùng nghi vệ của Khâm sai mỗi nước mang theo chỉ giới hạn trong số hai trăm sáu mươi người, ngoài đao kiếm không được mang theo hỏa khí. Sở dĩ y đề ra bốn điều kiện ấy, vì quân Thanh thế mạnh, quân Nga ít người, nếu hai bên không giới hạn nhân số, thì quân Nga sẽ rơi vào thế hạ phong. Nhưng hỏa khí của quân La Sát lợi hại, nếu so sánh đôi bên thì quân Nga chiếm ưu thế, đoán là đối phương không chịu, nên đề ra trước, quy định vệ binh chỉ được mang theo đao kiếm. Trong văn thư lại đề nghị hôm sau sẽ hội kiến.

Vi Tiểu Bảo bàn bạc với các đại thần xong, đều thấy là được, lập tức tiếp nhận, sai quân liền đêm dựng trướng làm chỗ hội kiến.

Sáng sớm hôm sau, bọn Khâm sai Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương dẫn các tùy viên, mang theo hai trăm sáu mươi quân khiên mây tới chỗ hội sở. Chỉ thấy chỗ cổng thành Ni Bố Sở mở ra, có hơn hai trăm kỵ binh Ca Khắc Tát cầm trường đao hộ tống một đám quan viên La Sát phi ngựa tới.

Đội kỵ binh này người cao ngựa lớn, oai phong lẫm lẫm, quân khiên mây Trung Quốc đều là bộ binh, so ra thanh thế kém xa.

Đông Quốc Cương chửi “Con bà nó, bọn quỷ La Sát giảo hoạt thật, bước đầu tiên chúng ta đã mắc lừa rồi. Đã nói rõ là mỗi bên chỉ mang theo hai trăm sáu mươi vệ binh, chỉ là quên nói kỵ binh hay bộ binh. Họ nhiều hơn chúng ta hai trăm sáu mươi con ngựa”. Sách Ngạch Đồ nói “Chuyện này nhắc nhở chúng ta, lúc bàn bạc với người La Sát phải dốc hết hai trăm vạn phần tinh thần, chỉ sơ suất nửa phần là mắc lừa đấy”.

Trong lúc nói chuyện, quân La Sát đã phi ngựa tới. Đông Quốc Cương nói “Chúng ta tuân lời hoàng thượng dặn dò, chuyện gì cũng phải nghĩ tới Trung Hoa thượng quốc là nước lễ nghĩa, mọi người xuống ngựa đi”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, mọi người xuống ngựa”. Mọi người nhất tề xuống ngựa, chắp tay đứng nghiêm. Khâm sai La Sát Phí Yếu Đa La nhìn thấy tình hình như thế, lập tức ra lệnh một tiếng, các quan viên cũng đều xuống ngựa, khom lưng làm lễ, đôi bên đi tới gần nhau.

Phí Yếu Đa La nói “Khâm sai Nga La Tư Phí Yếu Đa La, phụng mệnh Sa hoàng, kính chúc hoàng đế nước Đại Thanh thánh thể an khang”. Vi Tiểu Bảo bắt chước y, cũng nói “Khâm sai nước Đại Thanh Vi Tiểu Bảo, phụng mệnh đại hoàng đế, kính chúc Sa hoàng nước La Sát thánh thể an khang”, lại thêm một câu “Lại chúc Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Á công chúa điện hạ xinh đẹp sung sướng”. Phí Yếu Đa La cười khẽ một tiếng, nghĩ thầm “Hoàng đế Đại Thanh chúc công chúa của bọn mình xinh