← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III

HỒI ẤY, mẹ tôi may mũ gia công cho các khách hàng mà ban đầu mẹ liên lạc qua thư từ; tờ quảng cáo được viết bằng tay, thông báo rằng “để mua vui, cựu giám đốc một nhà may mặc lớn ở Paris nhận may mũ tại gia cho một số khách hàng hạn chế và có chọn lọc”. Vài năm sau, ít lâu sau khi chúng tôi đến Nice vào năm 1928, mẹ tôi định tiếp tục nghề này trong một căn hộ hai phòng ở đại lộ Shakespeare, và vì công việc khởi sự lâu - đúng ra là nó không bao giờ được khởi sự - nên bà đã làm nghề chăm sóc sắc đẹp trong phòng sau cửa tiệm cắt tóc phụ nữ; buổi chiều mẹ làm công việc tương tự cho chó cảnh trong một chuồng chó ở đại lộ Victoire. Sau này mới đến việc trông coi các tủ kính bày bán hàng trong các khách sạn, rồi đến việc rao bán đồ trang sức tận nhà, trong các khách sạn hạng sang, việc bán rau ở chợ Buffa, việc làm cho các công ty bất động sản hay kinh doanh dịch vụ khách sạn - tóm lại là tôi không bao giờ thiếu gì hết, bữa trưa luôn có món bít tết và không ai ở Nice thấy tôi ăn mặc nhếch nhác bao giờ. Tôi giận mình rất nhiều vì đã làm mẹ chưng hửng khi không chịu có chút tài năng âm nhạc nào, cho tới lúc này, mỗi lần nghe đến những cái tên như Menuhin hay Heifetz là hối hận lại giày vò lòng tôi. Khoảng ba mươi năm sau, khi đang làm tổng lãnh sự Pháp tại Los Angeles, run rủi thế nào mà tôi lại có vinh dự trao Huân chương Bắc đẩu Bội tinh cho Yacha Heifetz, hồi ấy đang cư trú ở đó. Sau khi đính huân chương lên ngực nghệ sĩ violon và phát biểu: “Thưa ông Yacha Heifetz, thay mặt Tổng thống Cộng hòa, căn cứ các quyền hạn đã được giao phó, chúng tôi trân trọng trao cho ông Huân chương Bắc đẩu Bội tinh”, bỗng tôi nghe tiếng mình nói to và rõ, mắt nhìn lên trời:

– Biết làm thế nào chứ, chuyện đó là bất khả mà!

Bậc thầy violon tỏ vẻ hơi ngạc nhiên.

– Ngài nói gì cơ, thưa ngài Tổng Lãnh sự?

Tôi vội hôn lên hai má Heifetz theo thông tục để hoàn thành buổi lễ.

Tôi biết rõ mẹ tôi thất vọng kinh khủng về việc tôi hoàn toàn không có năng khiếu âm nhạc, vì bà không bao giờ ám chỉ điều đó trước mặt tôi nữa, ở mẹ, người phải thừa nhận là thường thiếu tế nhị, dè dặt như vậy hẳn là dấu hiệu rõ ràng của nỗi buồn sâu lắng. Tham vọng nghệ thuật của riêng bà chưa bao giờ được thực hiện nên bà kỳ vọng nơi tôi. Còn tôi, về phần mình, tôi quyết tâm làm những gì có thể để mẹ nhờ tôi mà trở thành một nghệ sĩ có tên tuổi, được nhiều người hâm mộ và, sau khi đã lưỡng lự rất lâu giữa hội họa, sân khấu, ca hát và khiêu vũ, cuối cùng tôi đã chọn văn chương, với tôi văn chương là nơi nương tựa cuối cùng trên cõi đời cho những ai không biết náu mình vào đâu nữa.

Như vậy, mẹ con tôi không bao giờ nhắc đến giai thoại về đàn violon nữa mà tìm một con đường khác khả dĩ đưa chúng tôi cập bến vinh quang.

Cứ ba lần mỗi tuần, tôi đi đôi giày lụa và được mẹ dắt tay đến phòng tập của Sacha Jigloff, ở đó, trong hai tiếng đồng hồ liền, tôi chú tâm giơ chân lên xà, trong khi mẹ ngồi một góc, thỉnh thoảng chắp hai tay, nở nụ cười thán phục rồi thốt lên:

– Nijinsky! Nijinsky! Con sẽ trở thành Nijinsky! Mẹ biết mẹ đang nói gì!

Sau đó mẹ dẫn tôi vào phòng thay đồ, mẹ canh chừng khi tôi cởi quần áo, vì, như mẹ đã giải thích cho tôi, Sacha Jigloff có “lối sống bệnh hoạn”, lời kết tội ngay lập tức được kiểm chứng: khi tôi đang tắm, Sacha Jigloff nhón chân đi vào và toan cắn tôi, tôi hoàn toàn ngây thơ cho là thế, tôi khiếp sợ hét to lên. Tôi vẫn còn nhìn thấy cảnh Jigloff khốn khổ bị mẹ tôi hung dữ cầm gậy đuổi khắp phòng tập thể dục - và sự nghiệp múa đỉnh cao của tôi kết thúc tại đó. Ở Wilno vào thời ấy còn có hai trường dạy múa khác, nhưng mẹ tôi sau khi biết được chừng ấy cũng không dám liều nữa. Mẹ tôi không thể chấp nhận việc con trai bà không phải là ai khác ngoài một thằng đàn ông biết yêu phụ nữ. Tôi mới tám tuổi thôi mà mẹ đã kể cho tôi nghe về những “thành công” tương lai của tôi, gợi cho tôi nào là những tiếng thở dài và những ánh mắt, nào là những bức thư tình và những lời thề thốt; nào là bàn tay âm thầm siết lại bên hiên, dưới ánh trăng; nào là bộ quân phục sĩ quan màu trắng và điệu valse xa xa; nào là những tiếng thì thầm và những lời cầu khẩn; mẹ ngồi ôm tôi vào lòng, đôi mắt nhìn xuống, môi nở một nụ cười hơi tội lỗi và trẻ trung đến lạ lùng, mẹ ban cho tôi tất cả các niềm vinh dự và sự ngưỡng mộ, với vẻ đẹp của mẹ, hẳn mẹ đã được vinh dự như thế và hẳn mẹ chưa hoàn toàn quên mà vẫn luôn ước ao được như vậy; tôi vụng về dựa vào người mẹ; vừa lơ đãng liếm mứt trên bánh mì vừa nghe mẹ nói với điệu bộ uể oải nhưng thực ra là rất tập trung; tôi còn quá nhỏ, chưa thể hiểu được là mẹ đang tìm cách thoát khỏi cảnh thân gái vò võ một mình, thoát khỏi nhu cầu được âu yếm và quan tâm.

Đàn violon và múa ba lê thì đã bị loại trừ, lại dốt đặc về toán nên không thể trở thành một “Einstein thứ hai”, cuối cùng tự tôi tìm cách khám phá trong mình để xem có khả năng nào đó đang bị giấu kín khả dĩ biến những khát vọng nghệ thuật của mẹ tôi trở thành hiện thực hay không.

Từ nhiều tháng nay, tôi đã quen nghịch với hộp màu, một trong những đồ dùng học tập tôi được sắm.

Tôi ngồi hàng giờ lấy bút lông say sưa vẽ xanh đỏ tím vàng. Một hôm - hồi đó tôi mới mười tuổi - thầy giáo dạy hội họa đến gặp mẹ tôi và nói: “Thưa bà, con trai bà có năng khiếu hội họa, phải bồi dưỡng cho cháu”

Tiết lộ này có tác động hoàn toàn bất ngờ tới mẹ. Hẳn là bà mẹ tội nghiệp của tôi đã quá thấm nhuần những giai thoại và định kiến của tầng lớp tư sản vào đầu thế kỷ, vì lý do này hay lý do khác, hội họa và tai họa vẫn luôn đi kèm nhau trong tâm trí bà. Hẳn là bà chỉ biết đúng những gì cần biết về số phận bi đát của Van Gogh hay Gauguin nên mới khiếp như vậy. Tôi còn nhớ bà vào phòng tôi với nét mặt sợ hãi thế nào, chán nản ngồi trước mặt tôi, nhìn tôi lo lắng và tỏ vẻ van xin câm lặng ra sao. Toàn bộ hình ảnh trong vở nhạc kịch La Bobème và lời đồn đại về những họa sĩ bất tài phải sống trong men say, khổ cực và bệnh lao hẳn đã diễn đi diễn lại trong tâm trí bà. Rốt cuộc bà tóm tắt tất cả những điều đó trong một câu nói xúc động và, suy cho cùng, không đến nỗi sai:

– Có thể con có tài, nhưng như thế họ sẽ làm con chết đói mất thôi.

Tôi không biết mẹ muốn ám chỉ ai khi nói đến “họ”. Có thể chính mẹ cũng không biết. Nhưng kể từ ngày đó, tôi tuyệt nhiên không được phép động đến hộp màu của mình. Không thể tưởng tượng con mình chỉ đơn giản có chút năng khiếu trẻ con, mà có thể đúng là tôi có năng khiếu thật, cảm hứng của mẹ lập tức đi quá đà, và, dù không muốn thấy tôi là ai khác ngoài một người hùng, nhưng lần này mẹ lại thấy ở tôi hình ảnh người hùng bị nguyền rủa. Hộp màu nước của tôi có cái thiên hướng đáng bực là cứ biến đâu mất, và cứ khi nào tôi cầm lấy được nó để bắt tay vào vẽ là mẹ lại ra ra vào vào phòng, rình rập tôi như một con vật đầy lo âu, dõi theo nét vẽ của tôi với vẻ ngao ngán đau khổ, cho đến khi tôi chán quá, không màng vẽ vời gì nữa, cạch đến già.

Tôi giận mẹ khá lâu và ngay cả bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn đột ngột có cảm giác là thiên hướng của mình bị lỡ dở.

Chính vì thế mà từ lúc mười hai tuổi, bị thúc đẩy bởi một nhu cầu mờ ám nhưng mãnh liệt nào đó, tôi bắt đầu viết, dội những quả bom thơ, truyện, bi kịch năm hồi theo thể thơ mười hai âm tiết vào các tạp chí văn học.

Khác với hội họa, mẹ tôi không có định kiến gần như mê tín nào với văn chương cả, trái lại, mẹ nhìn nhận văn chương một cách thiện chí, như một phu nhân quyền quý được tiếp đón trong những căn nhà sang trọng nhất. Goethe là người vinh dự đầy mình, Tolstoi là một bá tước, Victor Hugo là tổng thống Cộng hòa - tôi không biết mẹ lấy đâu ra thông tin này, nhưng bà cứ khăng khăng bảo lưu ý kiến - và rồi, bỗng nhiên, bà sa sầm nét mặt:

– Nhưng con phải chú ý đến sức khỏe đấy, phải coi chừng bệnh hoa liễu. Guy de Maupassant thì chết điên, Heine thì bị liệt…

Mẹ tôi tỏ vẻ lo âu, lặng lẽ ngồi hút thuốc một chốc. Dĩ nhiên văn chương có những mối hiểm nguy của nó.

– Bắt đầu chỉ là một cái nhọt mà thôi, mẹ nói với tôi.

– Con biết.

– Hứa với mẹ là con sẽ cẩn thận.

– Con xin hứa.

Đời sống tình cảm của tôi vào thời đó chưa vượt qua những cái nhìn đắm đuối xuống dưới váy Mariette, giúp việc của gia đình tôi, khi chị ta trèo lên thang.

– Tốt hơn hết là con lấy vợ thật sớm, lấy cô gái nào đó tốt bụng và hiền hậu, mẹ tôi ngán ngẩm nói.

Nhưng cả hai mẹ con tôi đều biết đó không phải là những gì mẹ chờ đợi ở tôi. Những cô gái đẹp nhất trên đời, những nữ diễn viên ba lê nổi tiếng, những prime donne, những Rachel[*], những Duse[*], những Garbo[*] - trong suy nghĩ của mẹ tôi, tôi được dành cho những điều như thế. Tôi muốn vậy lắm chứ. Giá cái thang đáng nguyền rủa cao hơn một chút, hoặc giá Mariette hiểu việc khởi nghiệp ngay tức thì quan trọng với tôi đến mức nào… Tôi mười ba tuổi rưỡi, mà lại có quá nhiều việc phải làm.

[*]( Nữ diễn viên nổi tiếng của nhà hát kịch Pháp.)

[*]( Nữ diễn viên người Ý, rất nổi tiếng ở Ý và Pháp.)

[*]( Nữ diễn viên điện ảnh người Mỹ, gốc Thụy Điển.)

Thế là sau khi âm nhạc, khiêu vũ và hội họa lần lượt bị bỏ qua, chúng tôi đành chọn văn chương chữ nghĩa, bất chấp nguy cơ bệnh hoa liễu. Bây giờ, để cho giấc mơ của chúng tôi có khởi đầu toại nguyện, chúng tôi chỉ còn việc tìm ra một bút danh tương xứng với các kiệt tác mà người ta đang chờ ở chúng tôi. Tôi ngồi suốt ngày trong phòng để ghi kín những cái tên lạ hoắc lên giấy. Thỉnh thoảng, mẹ tôi ló đầu vào xem thử cảm hứng của tôi đến đâu rồi. Chưa bao giờ chúng tôi mảy may nghĩ rằng những giờ hao công tốn sức này đáng nhẽ nên dành cho việc viết ra các kiệt tác thì hữu ích hơn.

– Thế nào?

Tôi cầm tờ giấy lên đưa cho mẹ xem kết quả tác nghiệp văn chương trong ngày. Không bao giờ tôi thỏa mãn với những cố gắng của mình. Không có cái tên nào, dù nó đẹp và kêu đến mấy, đúng tầm với những gì tôi hằng mong làm được cho mẹ tôi.

– Alexandre Natal. Armand de La Torre. Terral. Vasco de La Fernaye…

Tôi cứ tiếp tục viết như vậy từ trang này qua trang khác. Sau mỗi hàng bút danh, chúng tôi lại nhìn nhau và cả hai cùng lắc đầu. Không phải thế - hoàn toàn không phải thế. Thật ra, cả hai mẹ con đều biết rất rõ những bút danh cần chọn - khốn nỗi là những bút danh đó người ta dùng cả rồi. “Goethe” đã có rồi, “Shakespeare” cũng vậy, rồi “Victor Hugo” cũng thế. Tuy nhiên, vì mẹ mà tôi muốn trở thành những người như vậy, đó là điều tôi muốn dâng tặng bà. Đôi khi, mặc quần cộc ngồi sau một cái bàn, tôi ngước mắt nhìn mẹ và chợt thấy dường như thế giới này không đủ rộng lớn để chứa đựng hết tình thương yêu tôi dành cho bà.

– Phải là cái gì đó gần giống như Gabriele d’Annunzio ấy, mẹ tôi nói. ông ta đã khiến Duse tột cùng đau khổ.

Mẹ nói điều đó với vẻ kính nể và ngưỡng mộ. Mẹ cho rằng việc những con người vĩ đại làm khổ phụ nữ là lẽ thường tình, mẹ hy vọng về khoản này, tôi sẽ không chịu thua kém ai. Mẹ thiết tha mong muốn tôi gặt hái được nhiều thành công trong việc chinh phục phụ nữ. Rõ ràng mẹ tôi coi đó là một trong những phương diện chủ yếu của sự thành công trên đời. Đối với mẹ tôi, đó là thứ đi kèm với những vinh dự chính thức, với những huy chương cao quý, với những bộ quân phục cấp cao, với rượu sâm banh và những buổi lễ tiếp đón tại tòa đại sứ, và khi nói về Vronski và Anna Karenine, mẹ hãnh diện nhìn tôi, vuốt tóc tôi rồi thở dài thườn thượt, môi nở nụ cười biểu lộ sự viển vông hồn nhiên. Trong tâm thức người phụ nữ này, người vốn rất đẹp nhưng lại phải sống cô đơn lâu như thế, hẳn đang có nhu cầu phục thù về thể chất và tình cảm mà bà đòi hỏi con trai thay mình thực hiện. Mẹ tôi đã từng xách va li từ nơi này sang nơi khác cả ngày trời để gặp những người Anh quốc giàu có trong các khách sạn hạng sang, tự giới thiệu mình là một người đàn bà khốn khổ vốn xuất thân từ tầng lớp quý tộc Nga nay phải bán những “đồ trang sức gia đình” cuối cùng - những đồ trang sức này thực ra là do các ông chủ cửa hiệu đưa cho mẹ tôi bán, nếu bán được mẹ sẽ được hưởng mười phần trăm hoa hồng, sau một ngày trời mệt nhọc và tủi nhục như thế, thường là cả tháng không thành công được hơn một vụ, mẹ chỉ kịp cất mũ và cởi chiếc áo khoác màu xám, châm một điếu thuốc rồi lại đến ngồi bên thằng con trai đang mặc quần cộc, nụ cười hạnh phúc nở trên môi, thằng con trai này, bị giày vò vì không thể làm gì cho mẹ, suốt ngày nát óc nghĩ bằng được một cái tên thật đẹp, thật kêu, thật hứa hẹn để có thể nói ra những gì mình nghĩ trong lòng, để rung chuông gióng nhạc bên tai mẹ, cho mẹ nghe thấy âm vang vinh quang của mình trong tương lai, vinh quang mà mình sẽ dâng lên mẹ.

– Roland de Chantecler, Romain de Mysore…

– Có lẽ tốt hơn hết là lấy một cái tên không tiểu từ, phòng khi lại có thêm một cuộc cách mạng nữa, mẹ nói.

Tôi ngâm nga từng bút danh rất kêu và rất hùng hồn, những bút danh có khả năng diễn tả cảm nhận của tôi, diễn tả những gì tôi muốn tặng mẹ. Mẹ chăm chú nghe tôi, vẻ lo âu, tôi có cảm giác là không bút danh nào trong số đó làm mẹ vừa lòng, không bút danh nào làm tôi vừa ý. Có lẽ mẹ chỉ tìm cách mang lại cho tôi can đảm và niềm tin vào số phận. Có lẽ mẹ biết tôi đang khổ sở đến nhường nào vì vẫn là một đứa trẻ con, chưa thể làm gì cho mẹ, và có thể mẹ đã từng bắt gặp cái nhìn lo lắng của tôi khi tôi đứng trên ban công nhìn mẹ đi xa dần trên đại lộ Shakespeare, với điếu thuốc, cây gậy và chiếc va li nhỏ chứa đầy “đồ trang sức gia đình”; hai mẹ con tôi thường tự hỏi liệu lần này có ai mua cái ghim cài, cái đồng hồ, cái hộp đựng thuốc bằng vàng không.

– Roland Campeador, Alain Brisard, Hubert de Longpré, Romain Cortès.

Nhìn mắt mẹ, tôi thấy rõ là như vậy chưa được, tôi nghiêm túc tự hỏi liệu mình có bao giờ làm được cho mẹ hài lòng không. Mãi sau này, khi lần đầu tôi nghe tên Tướng de Gaulle trên đài phát thanh, lúc ông đọc lời kêu gọi lừng danh của mình, phản ứng trước tiên của tôi là tức giận bởi tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện lấy cái tên đẹp đẽ này mười lăm năm trước đó: Charles de Gaulle, cái tên hẳn sẽ làm mẹ tôi vừa lòng, nhất là khi tôi chỉ dùng một chữ “l” thay vì hai[*]. Cuộc đời đầy những cơ hội bị bỏ qua.

[*]( Romain Gary chơi chữ. “Gaule” là tên cổ của nước Pháp.)