← Quay lại trang sách

CHƯƠNG V

CHUYỆN MARIETTE KẾT THÚC một cách bất ngờ. Một buổi sáng, tôi ung dung cắp cặp đi học rồi vội vã chạy về để gặp người đẹp, nàng sẽ đến nhà tôi lúc tám giờ rưỡi. Mẹ tôi thì đã xách va li đi Cannes, nói định chào hàng “tralng sức gia đình” cho những người Anh đang lưu trú tại khách sạn Martinez. Chúng tôi không việc gì phải sợ, thế nhưng, số phận, với khía cạnh run rủi của nó, đã chơi xỏ chúng tôi bằng cách bày ra một cuộc đình công xe buýt - mẹ bất ngờ trở về nhà. Vừa mở cửa căn hộ, nghe tiếng kêu gào và chắc mẩm là tôi đang bị cơn đau ruột thừa hoành hành - cơn đau ruột thừa luôn ở trong tâm trí mẹ như hóa thân khiêm nhường và hạ cấp cuối cùng của bi kịch Hy Lạp - mẹ vội chạy đến cứu tôi. Tôi vừa mới trấn tĩnh lại và đang đắm mình trong cơn cực lạc vô tình vô cảm, đây đúng là một trong những thành công lớn nhất của chúng ta trên cõi đời này. Mười ba tuổi rưỡi, tôi có cảm giác đã thành công tuyệt đối trong cuộc đời, đã hoàn thành số mệnh của mình, và chễm chệ với các vị thần linh, tôi ung dung chiêm ngưỡng những ngón chân mình, những ngón chân này là vật duy nhất gợi nhắc tôi những chốn những nơi trên thế gian mà tôi từng lai vãng. Tâm hồn tôi, vốn ưa sự thăng hoa và thanh thản, đã thường thúc đẩy tôi đi tìm những khoảnh khắc tĩnh tâm triết lý như vậy trong suốt tuổi trẻ trầm tư của mình, đó là một trong những khoảnh khắc nơi tất cả những học thuyết bi quan yếm thế về nghịch cảnh và nhược điểm khi phải làm một người đàn ông đều đổ sụp xuống như những căn nhà tồi tàn trước vẻ đẹp sinh tồn, rạng rỡ sự viên mãn, sự khôn ngoan yà hạnh phúc vô bờ. Trong cơn đê mê, tôi tiếp đón sự xuất hiện bất ngờ của mẹ như đã từng tiếp đón biểu hiện của các yếu tố đầy kích động: với lòng bao dung. Tôi mỉm cười hiền lành. Phản ứng của Mariette thì hơi khác. Nàng thất thanh kêu lên rồi nhảy ra khỏi giường, cảnh tượng tiếp theo khá lạ mắt và từ trên đỉnh Olympe của mình, tôi quan sát cảnh đó với vẻ mặt bàng quan. Mẹ tôi vẫn cầm chiếc gậy trên tay, và, sau khi đã chứng kiến hết thảy thảm họa, bà giơ tay hành động ngay lập tức. Bà quất gậy vào bộ mặt của ông thầy dạy toán với sự chuẩn xác tuyệt đối. Mariette kêu rống lên và tìm cách che chắn khía cạnh nhân cách tuyệt vời của mình. Căn phòng nhỏ đầy tiếng ồn ào kinh hãi, mẹ tôi hét từ tiếng Nga kourva[*] bằng giọng to vang hết mức bi thảm, bao trùm lên cảnh nhốn nháo đó.

[*]( Con đĩ (chú thích của tác giả))

Tôi phải nói rằng, mẹ tôi có năng khiếu chửi ở trình độ cao nhất; chỉ với vài từ ngữ có chọn lọc, bản chất mơ mộng và hoài niệm của bà đã tái tạo được một cách tuyệt vời không khí Dưới đáy hay khiêm tốn hơn là Những người chèo thuyền trên dòng sông Volga theo kiểu Gorki. Không cần gì to tát, người phụ nữ lịch sự với mái tóc bạc trắng, luôn được những khách hàng mua “trang sức gia đình” tin tưởng, bỗng gợi lên cho cử tọa đang sững sờ đơ dại hình ảnh cả nước Nga thánh thiện của những người coi ngựa say rượu, của những người nông dân và những thượng sĩ; mẹ tôi đúng là người có biệt tài tái tạo lịch sử bằng lời nói và cử chỉ, và những cảnh tượng này dường như chứng minh rằng, hồi còn trẻ, bà từng là một diễn viên kịch tài hoa như bà đang cố thể hiện.

Dù sao chăng nữa, tôi cũng chưa bao giờ làm sáng tỏ được điểm này. Tôi vẫn luôn biết rằng mẹ tôi đã từng là một “diễn viên kịch” - bà phát âm những từ này với giọng điệu hãnh diện biết bao! - tôi thấy mình như vẫn đang ở cạnh mẹ, lúc năm hay sáu tuổi gì đó, hai mẹ con lang thang lưu diễn khắp nơi vào những thời khắc cô đơn đầy tuyết trắng, trên những chiếc xe trượt tuyết có gắn những cái chuông buồn bã đưa hai mẹ con trở về từ một nhà máy băng giá nào đó, nơi mẹ vừa “diễn Tchékov” cho các công nhân Xô Viết địa phương, hay từ một trại lính nào đó, nơi mẹ “ngâm thơ” cho binh lính và thủy thủ Cách mạng. Không mấy khó khăn, tôi cũng thấy lại mình trong căn phòng diễn viên nho nhỏ của mẹ, ở Matxcơva, đang ngồi bệt và chơi với những mẩu vải nhiều màu bằng cách xếp lại sao cho chúng trở nên hài hòa: đó là nỗ lực biểu diễn nghệ thuật đầu tiên trong đời tôi. Thậm chí tôi còn nhớ tên vở kịch mà mẹ tôi diễn hồi đó: Con chó của người làm vườn. Những kỷ niệm tuổi thơ đầu tiên của tôi là một phối cảnh sân khấu, là mùi vị tuyệt vời của gỗ và sơn, là quang cảnh trống vắng nơi tôi dò dẫm đi trong một khu rừng giả rồi bất chợt lặng người vì kinh hãi trước một gian phòng rộng thênh thang, há hốc và đen tối; tôi hãy còn gặp lại những khuôn mặt hóa trang, phủ màu be lạ hoắc, đôi mắt viền trắng đen; những gương mặt đó cúi xuống mỉm cười với tôi; những người đàn ông và phụ nữ ăn mặc kỳ quặc giữ lấy đầu gối tôi, trong khi mẹ tôi đang diễn trên sân khấu; tôi còn nhớ có một thủy thủ người Liên Xô nhấc bổng tôi lên, cho tôi ngồi lên vai để tôi có thể thấy rõ mẹ sắm vai nhân vật Rosa trong vở Hy vọng đắm chìm. Thậm chí tôi còn nhớ cả nghệ danh của mẹ tôi: đó là những từ tiếng Nga đầu tiên mà tôi tự đọc được, những từ ấy được đề trên cửa phòng diễn viên của mẹ: Nina Borisovskaia. Thế nên, có vẻ như trong thế giới hạn hẹp của kịch nghệ Nga, vào khoảng những năm 1919-1920, vị trí của mẹ tôi khá vững chắc. Mặc dù thế, Ivan Mosjoukine, một diễn viên điện ảnh gạo cội, người đã biết mẹ tôi thời ông ta còn chập chững vào nghề, vẫn luôn tỏ ra khá lảng tránh về chủ đề này. Ông ta nhìn tôi bằng đôi mắt xanh xao nằm dưới hàng lông mày như của Cagliostro rồi nói với tôi ở thềm quán “Grande Bleue”, nơi thỉnh thoảng ông ta vẫn đưa tôi tới mỗi lần đến Nice đóng phim, để xem thử “tôi đã như thế nào rồi”: “Nhẽ ra, mẹ cậu nên đi học ở Nhạc viện; thật không may là nhiều việc đã không cho phép mẹ cậu phát triển tài năng của mình. Hơn nữa, từ lúc cậu ra đời đến nay, không còn gì làm cho mẹ cậu thực sự quan tâm nữa.” Tôi cũng biết mẹ tôi là con gái của một thợ đồng hồ người Do Thái sống ở Nga trong một miền thảo nguyên rộng lớn, cụ thể là Koursk; mẹ tôi rất đẹp và đã phải rời xa gia đình lúc mười sáu tuổi; mẹ từng kết hôn, ly hôn, tái hôn rồi lại ly hôn lần nữa - những gì còn lại đối với tôi là bờ má áp lên má tôi, là giọng nói du dương, thường thì thầm, cười nói, hát ca - một nụ cười vô tư, một niềm vui là lạ mà đến giờ tôi vẫn thường mong ngóng, chờ đợi, kiếm tìm vô vọng quanh mình; một mùi hương huệ chuông, một mái tóc sẫm xõa xuống mặt tôi, những câu chuyện kỳ lạ thì thầm về xứ sở sau này sẽ trở thành quê hương tôi. Nhạc Viện hay không thì mẹ tôi hẳn phải có tài đã, vì mẹ bắt đầu gợi cho tôi hình ảnh nước Pháp bằng nghệ thuật kể chuyện tài tình của người phương Đông và tạo cho tôi một niềm tin vững chắc mà tôi không bao giờ có lại được. Cho đến ngày hôm nay, tôi vẫn còn có lúc đợi chờ nước Pháp, một đất nước thú vị mà tôi đã từng nghe nói đến rất nhiều, mà tôi chưa bao giờ và không bao giờ biết - vì rốt cuộc, đối với tôi, nước Pháp mẹ kể qua những miêu tả trữ tình và ngẫu hứng từ thuở tôi còn thơ dại đã trở thành một huyền thoại diệu kỳ, hoàn toàn trốn xa thực tại, một kiệt tác thơ ca không ai có thể với tới hay diễn đạt được. Mẹ tôi nói tiếng Pháp rất giỏi - với giọng Nga rất nặng mà tôi ít nhiều chịu ảnh hưởng - mẹ chưa bao giờ cho tôi hay là mẹ học tiếng Pháp ở đâu, như thế nào và ai dạy. “Mẹ đã từng ở Nice và ở Paris” - đó là tất cả những gì mẹ chịu tiết lộ với tôi. Trong căn phòng diễn viên lạnh giá ở Nhà hát, trong căn hộ mà hai mẹ con tôi ở chung với ba gia đình diễn viên khác, có một cô giúp việc trẻ tên là Aniela, người thường chăm sóc tôi. Sau này, trong những toa tàu chở gia súc đưa chúng tôi về miền Tây cùng bệnh sốt chấy rận, Aniela quỳ gối trước mặt tôi, xoa xoa những ngón tay cứng đơ của tôi và tiếp tục kể cho tôi nghe về miền đất xa xôi nơi những chuyện tốt đẹp nhất thế gian đều thực sự tồn tại; nào là mọi người sống tự do và bình đẳng; nào là văn nghệ sĩ thường được các gia đình giàu có nhất tiếp đón; nào là Victor Hugo đã từng là tổng thống Cộng hòa; mùi vòng long não tôi đeo ở cổ, dường như đây là liệu pháp siêu việt để chống lại chấy rận, xông vào mũi tôi hăng hắc; tôi sẽ trở thành một nghệ sĩ violon vĩ đại, một diễn viên danh tiếng, một nhà thơ lớn; một Gabriele d’Annunzio người Pháp, một Nijinsky; một Émile Zola; chúng tôi phải sống cách ly ở Lida, thuộc vùng biên giới Ba Lan; tôi bước đi trên tuyết, dọc theo đường sắt, một tay được mẹ dắt, tay khác ôm khư khư cái bô mà tôi nhất quyết không rời suốt từ Matxcơva, cái bô bấy lâu đã trở thành người bạn của tôi: tôi là một người rất dễ gắn bó; người ta cạo đầu cho tôi; mẹ tôi nằm trên nệm rơm, ánh mắt mất hút vào xa xăm, bà tiếp tục nói về tương lai rạng rỡ của tôi; tôi cố chống lại cơn buồn ngủ, mở to mắt ra để cố nhìn thây những gì mà mẹ tôi thấy; Kỵ sĩ Bayard, Trà Hoa Nữ; trong cửa hàng nào cũng thấy bơ và đường; Napoléon Bonaparte; Sarah Bernhardt - cuối cùng tôi ngủ thiếp đi, đầu dựa vào vai mẹ, hai tay ôm chặt cái bô. Sau này, mãi sau này, sau mười lăm năm tiếp xúc với thực tế nước Pháp, ở thành phố Nice, nơi chúng tôi từng đến ở, khi da đã nhăn nheo, tóc đã bạc phơ, nói đúng ra là đã già đi nhưng vẫn chưa hay biết gì, chưa nhận ra điều gì, luôn với nụ cười tin tưởng, mẹ tiếp tục gợi lại xứ sở tuyệt vời ấy, xứ sở mà bà đã mang theo trong chiếc ba lô của mình; còn tôi, được nuôi nấng trong viện bảo tàng tưởng tượng, một viện bảo tàng trưng bày tất cả những sự cao thượng và lòng đức hạnh, nhưng vì không có năng khiếu tuyệt vời như mẹ tôi, là ở đâu cũng chỉ thấy sắc màu của chính con tim mình, trước tiên tôi sững sờ nhìn quanh và tỏ vẻ hài lòng, sau đó, khi đến tuổi trưởng thành, tôi lao vào chiến đấu với thực tế trong một cuộc chiến mang màu sắc sử thi Homère và tuyệt vọng vô bờ, để vực cả thế giởi dậy và làm cho nó trùng khớp với ước mơ ngây thơ luôn ám ảnh người mà tôi rất mực thương yêu.

Đúng, mẹ tôi là người có tài - và tôi chưa bao giờ phủ nhận điều đó.

Mặt khác thì có Agroff hung dữ, kẻ chuyên cho vay nặng lãi, sống ở đại lộ Gambetta, lão quản gia tởm lợm Odessa, một kẻ phờ phạc, nhầy mỡ, mềm nhão, đã bị từ chối mười phần trăm lãi suất hàng tháng của khoản tiền mà lão ta cho chúng tôi vay để mua “quyền tham gia” chiếc taxi Renault: “Mẹ mày làm ra vẻ phụ nữ quý tộc, nhưng tao biết mẹ mày khi bà ta còn hát trong các tiệm cà phê ca nhạc bình dân, trong các tửu điếm dành cho lính tráng. Ngôn ngữ của mẹ mày từ đó mà ra. Tao đâu thấy bị sỉ nhục. Một mụ đàn bà như thế không thể sỉ nhục một thương gia đáng kính.” Vào thời đó, tôi mới mười bốn tuổi, chưa thể chu cấp được gì cho nhu cầu của mẹ tôi, trong khi đây lại vốn là mong muốn lớn nhất của tôi, vì vậy tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi tát cho gã thương gia khả kính ấy hai cái tát đẹp đẽ vô cùng, đó là hai cái tát đầu tiên trong sự nghiệp đi tát lâu dài và xuất sắc của tôi, nhờ vậy mà tôi sớm trở nên nổi tiếng trong khu phố. Đúng là từ ngày hôm đó, mê li trước chiến công này, mẹ tôi bắt đầu có thói quen đến phàn nàn với tôi mỗi khi bà cảm thấy bị chửi, sai đúng gì không biết, lúc nào bà cũng kết luận sự cố mình gặp phải, mà không phải bao giờ cũng chính xác, bằng điệp khúc sau: “Hắn tưởng mẹ không có ai bảo vệ nên cứ chửi mẹ vô tội vạ như thế. Hắn nhầm rồi, con đi tát cho hắn hai cái đi.” Tôi biết là trong mười lần thì có đến chín lần, việc người ta chửi chỉ là tưởng tượng ra thôi, mẹ tôi đi đâu cũng thấy người ta chửi, bà là người đầu tiên chửi người ta vô cớ thì có, vì đầu óc quá căng thẳng mà. Nhưng tôi chưa bao giờ thoái thác. Tôi kinh hãi những cảnh đó, tôi không thể chịu nổi những tiếng đốp kinh tởm liên hồi ấy, nhưng tôi cứ tát. Mẹ tôi sống và chiến đấu một mình từ mười bốn năm nay rồi, không gì làm cho mẹ vui sướng hơn là cảm thấy mình “được bảo vệ”, cảm thấy sự hiện diện của một người đàn ông bên mình. Thế nên dù sợ nhưng tôi vẫn quyết tâm, tôi cố nén sự xấu hổ và đi tìm gặp một người bán kim cương, một người bán thịt, một chủ cửa hàng thuốc lá hay một người buôn đồ cổ khốn khổ nào đó mà mẹ đã chỉ cho tôi. Thế là người ta thấy một cậu bé run rẩy bước vào quán, đứng trước mặt mình, tay lăm lăm nắm đấm, nói với mình bằng giọng run lên vì phẫn nộ - một sự phẫn nộ rất hợp với biểu hiện của sự bất nhã mà tình mẫu tử buộc cậu ta phải dấn thân vào: “Thưa ông, ông đã chửi mẹ tôi, thì đây!” Nói xong, tôi cho kẻ khốn khổ một cái tát. Như vậy, tôi sớm nổi danh là một tên du đãng quanh khu vực đại lộ Gambetta, và không ai hiểu là chính tôi đã ghê sợ những cảnh đó như thế nào, tôi đã đau khổ ra sao và những cảnh đó đã làm tôi cảm thấy nhục nhã đến nhường nào. Một vài lần, biết là lời buộc tội của mẹ không có lý do chính đáng, tôi định phản đối thì bà già lại ngồi trước mặt tôi, như thể chân bà bỗng khuỵu xuống trước sự vô ơn ấy, mắt bà đẫm lệ, và bà ở đó, sững sờ nhìn tôi, trong trạng thái hoàn toàn buông xuôi mọi sức mạnh cùng lòng can đảm.

Thế là tôi lặng lẽ đứng dậy và đi đánh nhau. Tôi chưa bao giờ chịu đựng nổi khi nhìn một người bị giày vò bởi cái mà tôi không biết tả như thế nào khác ngoài tình trạng không hiểu thân phận mình trong khi vẫn sáng suốt. Tôi chưa bao giờ chịu nổi cảnh một sinh vật bị bỏ rơi, cho dù đó là con người hay con thú, và, trong thái độ của mình, mẹ tôi có một năng khiếu không thể chấp nhận được, đó là năng khiếu hiện thân cho tất cả những gì câm lặng một cách bi thương ở cả người và thú. Đến nỗi mà Agroff chưa nói xong đã nhận một cái tát, bị tát nhưng ông ta chỉ đáp lại đơn giản: “Đồ du đãng. Tao không ngạc nhiên vì mày là con của ả làm trò ở chợ với một thằng phiêu lưu.” Nhờ thế, tôi bỗng nhiên tỏ tường nguồn gốc thú vị của mình, nhưng điều này không tác động đến tôi chút nào, vì tôi không hề để tâm tới việc mình có thể là con người thế này hay con người thế kia một cách tạm thời và giao thời, bởi lẽ tôi biết mình đang được hứa hẹn những đỉnh cao chói lọi nhất, từ trên đó tôi sẽ cho nguyệt quế tuôn mưa lên người mẹ, để bù đắp cho cuộc đời của mẹ. Bởi lẽ tôi luôn biết rằng tôi không có sứ mạng nào khác; rằng trong chừng mực nào đó, tôi chỉ sống gửi; rằng sức mạnh bí ẩn và công minh đang ngự trị số phận con người đã ném tôi lên bàn cân để tái thiết sự cân bằng cho một cuộc đời đầy hi sinh và quên mình. Tôi tin tưởng vào một logic bí mật và hân hoan, logic đó được giấu kín trong những ngõ ngách đen tối nhất của cuộc sống. Tôi tin vào một thế giới đáng tôn kính. Tôi không thể thấy nét mặt bối rối của mẹ mà không cảm thấy niềm tin mãnh liệt vào số phận đang lớn dần trong ngực mình. Vào những giờ khắc ác liệt nhất của chiến tranh, tôi luôn đối diện với hiểm nguy trong cảm giác mình là một kẻ bất khả chiến bại. Không gì có thể xảy đến được với tôi bởi tôi là kết thúc có hậu[*] của mẹ. Trong hệ thống cân đong đo đếm mà con người tìm cách áp đặt cho thế giới một cách tuyệt vọng, tôi vẫn luôn thấy mình như chiến thắng của mẹ tôi.

Niềm tin này không phải tự nhiên mà đến với tôi. Có thể nó chỉ phản ánh niềm tin mà mẹ tôi đã đặt vào người vốn ngay từ khi mới sinh ra đã trở thành lý do duy nhất để bà sống và hy vọng. Khi tôi lên tám tuổi, hình như thế, việc mẹ tôi nhìn tương lai của tôi với niềm tin lớn lao đã tạo ra một cảnh tượng mà sự khôi hài và kinh khủng mãi mãi hiển hiện trong kýức tôi.

[*]( “Happy end”, tiếng Anh trong nguyên bản.)