CHƯƠNG VII
KHÔNG PHẢI MỌI KHÁN GIẢ ở số 16 phố Grande-Pohulanka, những người được chứng kiến lời tiết lộ lâm ly của mẹ tôi về tương lai vĩ đại của tôi, đều có thái độ cười nhạo.
Trong số những người này, có một người tên là Piekielny - tiếng Ba Lan có nghĩa là “Quỷ quái”. Không biết tổ tiên của con người tuyệt vời này đã lấy đâu ra cái tên kỳ dị ấy, nhưng chưa bao giờ lại có một cái tên không tương thích với người mang nó như vậy. Piekielny trông giống một con chuột nhắt buồn bã, sạch sẽ một cách tỉ mỉ và luôn luôn lo lắng, ông ta có vẻ kín đáo, xa vời, và có thể nói là lơ đãng như một người vì bị o ép nên gần như tách rời với mặt đất. Đó là một người mẫn cảm, bị bối rối vô cùng trước sự tự tin tuyệt đối của mẹ tôi, khi bà đặt tay lên đầu tôi rồi đưa ra lời tiên đoán của mình với phong thái mang tính kinh thánh thuần túy. Mỗi lần gặp tôi ở cầu thang, ông ta đều dừng lại và nhìn tôi rất trang nghiêm, kính cẩn. Một vài lần ông ta mạnh dạn vỗ vào má tôi. Rồi ông ta tặng tôi vài chục chú lính chì cùng một pháo đài bằng các tông, ông ta còn mời tôi vào nhà, cho tôi ăn kẹo và loukoum thỏa thích. Trong khi tôi đang đánh chén - ai biết mai sau sẽ như thế nào đâu - con người nhỏ thó đó ngồi đối diện tôi, tay vuốt vuốt bộ râu đã bị thuốc lá làm cho ngả màu hung. Rồi cuối cùng cũng đến cái ngày của sự thỉnh cầu thống thiết, của tiếng gọi con tim, của sự thú nhận về một ham muốn cháy bỏng và thái quá mà con chuột người dễ thương này giấu kín dưới chiếc áo gi lê.
– Khi nào cháu lớn…
Ông ta nhìn quanh nhìn quất với vẻ mặt hơi ngượng ngùng, chắc là nhận thức ra sự thơ ngây của mình nhưng lại không biết cách kiềm chế.
– Khi nào cháu… được như điều mẹ cháu đã nói.
Tôi chăm chú nhìn ông ta. Hộp loukoum mới được mở ra. Theo bản năng, tôi đoán là tôi có quyền được ăn chỉ vì tương lai sáng ngời mà mẹ tôi đã tiên đoán cho tôi.
– Cháu sẽ là Đại sứ Pháp, tôi nói, vẻ chắc chắn.
– Thì ăn một chiếc loukoum đã nào, ông Piekielny vừa nói vừa đẩy cái hộp về phía tôi.
Tôi ăn. Ông ta đằng hắng.
– Các bà mẹ thường cảm nhận được những thứ đó, ông ta nói. Có thể cháu sẽ trở thành một người thực sự tầm cỡ. Thậm chí có thể cháu sẽ viết báo, viết sách.
Ông ta cúi xuống và đặt tay tôi lên đầu gối tôi rồi hạ giọng.
– Thế này nhé! Nếu mà cháu được gặp những nhân vật nổi tiếng, những ông to bà lớn thì cháu hãy hứa là sẽ nói với họ…
Một ngọn lửa tham vọng cháy bỏng bỗng lóe lên trong đôi mắt chuột nhắt.
– Cháu hãy hứa là sẽ nói với họ: ông Piekielny đã từng sống ở số 16, phố Grande-Pohulanka, Wilno.
Ông ta nhìn sâu vào mắt tôi với vẻ van xin câm lặng. Ông ta đặt tay lên gối tôi. Tôi vừa ăn loukoum, vừa nhìn ông ta một cách nghiêm trang.
Cuối cuộc chiến tranh ở Anh quốc, nơi tôi đã đến để tiếp tục cuộc chiến bốn năm trước đó, Nữ hoàng Elizabeth, mẹ của nữ hoàng bây giờ, duyệt phi đội tôi ở sân bay Hartford Bridge. Tôi đứng nghiêm cùng phi đội bên cạnh một chiếc máy bay. Nữ hoàng dừng lại trước mặt tôi và, với một nụ cười hiền hậu, nụ cười khiến bà được nhiều người biết tới, bà hỏi tôi đến từ vùng nào tại Pháp, tôi hồi hộp trả lời “Từ Nice”, để không làm mọi chuyện trở nên quá phức tạp với Nữ hoàng. Và rồi… Lúc đó tôi ngỡ như mình thấy người đàn ông nhỏ thó ấy đang hoa chân múa tay, giậm chân thình thịch, vò đầu bứt tai, cố làm sao để tôi nhớ đến ông ta. Tôi gắng nén mình lại nhưng ngôn từ vẫn tự động buột khỏi miệng tôi, thế là tôi quyết định thực hiện ước mơ điên cuồng của một con chuột nhắt, tôi thông báo với nữ hoàng, bằng giọng to và rõ ràng:
– Ông Piekielny nào đó đã từng sống ở số 16 phố Grande-Pohulanka, Wilno…
Nữ hoàng duyên dáng nghiêng đầu và tiếp tục duyệt binh. Chỉ huy đội bay “Lorraine”, ông bạn thân Henri de Rancourt của tôi vừa đi qua vừa nhìn tôi hằn học…
Nhưng không sao: tôi đã được ăn kẹo loukoum kia mà.
Giờ đây, con chuột nhắt dễ thương ở Wilno đã kết thúc cuộc đời nhỏ nhoi của mình từ lâu rồi, trong lò hỏa táng của Đức Quốc xã cùng với vài triệu người Do Thái ở châu Âu khác.
Mặc dù thế, tôi vẫn tiếp tục thực hiện lời hứa của mình một cách chu đáo khi tôi có dịp gặp gỡ những người nổi tiếng trên thế giới này. Từ bục của Liên Hợp Quốc đến Tòa sứ London, từ Cung điện Liên bang Berne đến Điện Élysée, trước mặt Charles de Gaulle và Vichinsky, trước mặt các quan chức cao cấp và những ngưởi kiến thiết nghìn năm, tôi đã không quên nói về sự tồn tại của con người nhỏ bé ấy, thậm chí tôi còn vui vẻ khi có thể thông báo nhiều lần trên các kênh truyền hình lớn của Mỹ, trước hàng triệu khán giả, rằng ở số 16 phố Grande-Pohulanka, Wilno, từng có ông Piekielny nào đó sinh sống, cầu Chúa cứu vớt linh hồn ông.
Nhưng rốt cuộc thì chuyện gì phải xảy ra đã xảy ra, bộ xương của con người nhỏ bé ấy đã biến thành xà phòng khi ra khỏi lò hỏa táng và từ lâu đã đáp ứng nhu cầu vệ sinh của phát xít Đức.
Tôi vẫn thích món loukoum như thế. Mặc dù vậy, vì mẹ tôi luôn nhìn thấy ở tôi sự hòa quyện giữa Lord Byron, Garibaldi, d’Annunzio, d’Artagnan, Robin Hood và Richard Sư Tử Tâm, nên bây giờ tôi buộc phải quan tâm đến vòng eo của mình. Tôi đã không thể thực hiện tất cả các kỳ tích mà mẹ trông chờ ở tôi, nhưng dù sao tôi cũng không để bụng mình quá phệ. Ngày nào tôi cũng chăm chỉ tập những bài làm dẻo chạy bộ và hai lần mỗi tuần. Tôi chạy, tôi chạy, ôi, tôi chạy! Tôi cũng tập múa kiếm, bắn cung, bắn súng, nhảy cao, nhảy sào, cử tạ và tôi còn biết tung hứng ba bóng nữa. Dĩ nhiên, khi bạn ở độ tuổi bốn mươi hay năm mươi, tin vào tất cả những gì mẹ nói là hơi ngây thơ, nhưng tôi không tài nào từ bỏ niềm tin đó được. Tôi đã không thành công trong việc vực thế giới dậy, trong việc chiến thắng dốt nát và ác độc, trong việc mang lại công bằng và phẩm cách cho con người, nhưng ít ra tôi cũng đã đoạt giải vô địch bóng bàn tại Nice năm 1932, và bây giờ, sáng nào cũng thế, tôi vẫn có thể vừa nằm vừa chống đẩy mười hai lần, thế thì không có lý do gì để thất vọng cả.