← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VIII

VÀO QUÃNG THỜI GIAN ẤY, công việc làm ăn của chúng tôi có khấm khá hơn. Những “mẫu kiểu Paris” hồi đó rất thành công và một nữ công nhân mới đã sớm được tuyển dụng nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng. Mẹ tôi không còn phải mất thời gian chạy từ nhà này sang nhà khác nữa: khách hàng đến nườm nượp. Rồi một ngày nọ, mẹ tôi đã có thể loan tin trên báo rằng, kể từ bây giờ, ngôi nhà của bà, “thông qua sự thỏa thuận đặc biệt với ông Paul Poiret”, sẽ là văn phòng đại diện độc quyền về mũ và cả váy, “dưới sự giám sát của đích thân ông chủ”. Một tấm biển đóng ngoài cổng với dòng chữ “Nhà Mới, Thời trang Cao cấp Paris” được khắc bằng tiếng Pháp, chữ mạ vàng. Mẹ tôi không bao giờ làm cái gì đó nửa vời. Mới ăn nên làm ra nên vẫn còn thiếu yếu tố siêu việt, diệu kỳ, thiếu một quái giới khả dĩ biến thành công đầu tiên của chúng tôi thành một chiến thắng dứt điểm và đè bẹp nghịch cảnh. Mẹ tôi ngồi khoanh chân trên chiếc đi văng nhỏ màu hồng trong phòng khách, một điếu thuốc hững hờ trên môi, đôi mắt đầy cảm hứng nhìn vào khoảng không, dõi theo một dự án táo bạo, trong khi gương mặt bà từ từ chuyển sang một trạng thái mà tôi bắt đầu biết rất rõ, đó là sự pha trộn giữa mưu mẹo, chiến thắng và ngây thơ. Tôi nép mình trong cái ghế bành đối diện mẹ, tay cầm chiếc bánh pavot, lần ấy thì đã lấy một cách hợp pháp. Thỉnh thoảng, tôi ngoái đầu nhìn theo hướng nhìn của mẹ nhưng chẳng bao giờ thấy gì. Cảnh tượng mẹ lập dự án đối với tôi thật kỳ diệu và xao động. Tôi quên béng cả việc ăn bánh và cứ ngồi câm lặng, lòng rất đỗi tự hào và thán phục.

Phải nói rằng, trong một thành phố nhỏ như Wilno, cái thành phố vốn chẳng thuộc Litva, Ba Lan hay Nga này, nơi ảnh ọt báo chí còn chưa tồn tại, thứ mẹo mà mẹ tôi đã tưởng tượng ra thật vô cùng táo bạo và lại một lần nữa đưa chúng tôi đi trên con đường lớn, ba lô con cóc trên vai.

Quả vậy, chẳng mấy chốc mà có thông báo gửi “toàn thể thị dân lịch thiệp” của Wilno rằng đích thân ông Paul Poiret từ Paris đến sẽ khánh thành các gian hàng “Thời trang Cao cấp Nhà Mới”, số 16 phố Grande-Pohulanka vào lúc bốn giờ chiều.

Như tôi đã nói, mẹ tôi đã quyết là làm đến cùng, thậm chí còn tiến xa hơn nữa. Vào ngày đã hẹn, khi các bà các chị đẹp đẽ và béo tốt chen chúc nhau trong căn hộ, mẹ tôi không thông báo: “Ông Paul Poiret có việc đột xuất nên xin lỗi không đến được.” Mẹ không phải hạng người có cách xử trí vặt vãnh như thế. Quyết tâm đánh lớn, mẹ tạo ra một ông Paul Poiret bằng xương bằng thịt.

Hồi còn đeo đuổi “sự nghiệp đóng kịch” ở Nga, bà có quen một diễn viên kiêm ca sĩ người Pháp, một người thường lang thang lưu diễn ở các vùng ven, một người không tài cán cũng chẳng có tương lai tên là Alex Gubernatis. Anh ta sống leo lắt đâu đó ở Vacsava, đây cũng là nơi anh ta trở thành thợ làm tóc giả phục vụ diễn viên kịch, sau khi đã thắt lưng buộc bụng cho tham vọng của mình bằng cách chuyển từ một chai Cognac sang một chai Vodka mỗi ngày. Mẹ tôi gửi cho anh ta vé tàu hỏa và tám ngày sau, Alex Gubernatis sắm vai Paul Poiret, ông chủ tầm cỡ của ngành Thời trang Cao cấp Paris, trong những căn phòng của “Nhà Mới”. Vào dịp này, anh ta thể hiện hết mình. Mặc chiếc áo choàng lạ thường bằng vải ê cốt, chiếc quần dài kẻ ca rô nhỏ bó sát chặt vào người, mỗi lần anh ta cúi xuống hôn tay các bà, cặp mông nhọn hoắc của anh ta lại lộ ra. Anh ta còn thắt chiếc cà vạt Lavallière dưới cái yết hầu quá khổ. Đầm mình trong chiếc ghế bành, đôi chân dài ngoằng duỗi trên sàn ván bóng loáng, tay cầm ly rượu nho sủi bọt, bằng chất giọng kim của mình anh ta kể về những vinh quang và những niềm vui say đắm trong cuộc sống Paris, kể về những cái tên nghệ sĩ tài hoa đã giải nghệ từ hai mươi năm nay, thỉnh thoảng lại khéo léo luồn tay vào bộ tóc giả của mình như một Paganini về tóc. Khốn nỗi là vào cuối buổi chiều, khi đã ngấm rượu vang sủi bọt, anh ta yêu cầu mọi người im lặng và ngâm cho họ nghe hồi hai của tác phẩm L’Aiglon, sau đó bản năng trỗi dậy, anh ta bắt đầu gào lên, giọng hân hoan tột độ, những trích đoạn trong vốn tiết mục tửu điểm của mình, trong đó có một điệp khúc khá hay và hơi bí hiểm mà bây giờ tôi vẫn còn nhớ: “À, anh muốn thế, anh muốn thế, anh muốn thế đấy, Pomponnette ơi, anh muốn gì có nấy!”, kèm theo là tiếng đệm của gót chân và tiếng vỗ của đôi bàn tay xương xẩu, thi thoảng lại liếc mắt tinh ranh nhìn bà vợ của ông chỉ huy giàn nhạc thành phố. Lúc đó, mẹ tôi thấy tốt hơn là đưa anh ta vào phòng dì Aniela, cho anh ta nằm lên giường và khóa cửa hai lần; cũng tối hôm ấy, trong chiếc áo choàng vải ê cốt và với tâm hồn nghệ sĩ bị nhạo báng, anh ta đi tàu về Vacsava, miệng vẫn kịch liệt phản đối thái độ vô ơn và không hiểu biết những năng khiếu mà trời đã ban cho anh ta.

Mặc bộ com lê nhung đen, tôi dự buổi lễ khánh thành, mắt không rời anh chàng Gubernatis tuyệt vời, và, khoảng hai mươi lăm năm sau, tôi lấy cảm hứng từ con người này để viết nên nhân vật Sacha Darlington trong tiểu thuyết Phòng thay đồ lớn.

Tôi không tin là chỉ vì mục đích quảng cáo mới có cái mẹo này. Mẹ tôi cần điều tuyệt diệu. Suốt đời mẹ ước mơ một sự phô diễn tuyệt đối và tối thượng, vẩy chiếc đũa thần một cái là sự phô diễn đó sẽ trộn lẫn những người nhẹ dạ cả tin với những kẻ ma mãnh, sẽ đưa công lý đến với những người có địa vị thấp hèn hay cùng khổ. Những tuần lễ trước ngày khai trương gian hàng, mắt mẹ tôi mất hút trong khoảng không, gương mặt đầy hào hứng và rạng rỡ, bây giờ thì tôi biết bà đã thấy gì; bà thấy ông Paul Poiret xuất hiện trước đám đông khách hàng của bà, ông giơ tay lên yêu cầu mọi người im lặng và chỉ bà cho mọi người thấy, ca ngợi rất lâu thị hiếu thẩm mỹ, tài năng và cảm hứng nghệ thuật của người đại diện duy nhất của mình tại Wilno. Nhưng dẫu sao bà vẫn biết là những điều kỳ diệu ít khi xảy ra và ông trời còn có những việc khác để làm. Khi đó, với một nụ cười hơi tội lỗi, bà đã tạo ra điều kỳ diệu có trong tất cả các vở kịch và mạnh tay đấm vào số phận - dù thế, phải thú nhận là số phận có tội hơn bà và số phận có nhiều việc phải xin lỗi hơn.

Dù gì đi nữa, theo tôi được biết, trò lừa đảo đó chưa bao giờ bị bại lộ và “Nhà Mới, gian hàng Thời trang Cao cấp Paris” đã được khai trương thành công rực rỡ. Trong vòng vài tháng, toàn bộ khách hàng giàu có trong thành phố đều đến mua đồ ở chỗ chúng tôi. Tiền đổ về như nước. Căn hộ được sơn sửa lại; những tấm thảm nhuyễn mịn phủ kín sàn ván, còn tôi thì tha hồ chén loukoum, vừa ăn kẹo vừa ngồi ngoan ngoãn trên ghế bành mà ngắm nhìn các bà các chị xinh đẹp cởi quần cởi áo trước mặt. Mẹ tôi rất muốn tôi ở đó, mặc đồ nhung lụa. Tôi trưng mình ra trước những người này, người ta còn dẫn tôi lại gần cửa sổ, mời tôi ngước mắt lên trời để khách hàng có thể nhận ra màu xanh da trời hợp với đôi mắt tôi đến nhường nào; người ta xoa đầu tôi, người ta hỏi tuổi tôi, người ta ngây ngất trong khi tôi liếm đường trên chiếc kẹo loukoum, mắt chăm chú nhìn tất cả những điều mới lạ mà cơ thể phụ nữ phô ra cho tôi.

Tôi còn nhớ một nữ ca sĩ Nhà hát kịch Wilno, tên hay nghệ danh là cô La Rare. Thời đó chắc tôi mới hơn tám tuổi.

Mẹ tôi và người thiết kế trang phục đã ra khỏi phòng khách mang theo “mẫu thời trang Paris” để chỉnh sửa gì đó quan trọng. Tôi ở lại một mình với cô La Rare. Cô ăn mặc rất mát mẻ. Tôi vừa chiêm ngưỡng từng phần một trên người cô vừa mút kẹo. Hẳn là có cái gì đó trong cách nhìn của tôi quen quen với cô bởi tôi thấy cô vội vàng vơ váy mặc vào. Vì tôi vẫn tiếp tục ngắm nhìn chăm chú, cô chạy trốn ra đằng sau tấm gương ở bàn trang điểm. Tôi điên tiết lên, đi xung quanh cái bàn và kiên quyết đứng giạng chân trước cô La Rare, bụng ưỡn ra, bắt đầu mút kẹo một cách mơ mộng. Khi mẹ tôi về, bà thấy chúng tôi đứng bất động như thế, trong sự im lặng giá băng.

Tôi còn nhớ là mẹ tôi, sau khi đã lôi tôi ra khỏi phòng, ôm hôn tôi với một niềm tự hào khác lạ, như thể cuối cùng tôi cũng chứng minh được những hy vọng mà bà đặt vào tôi.

Thật không may là từ đó tôi bị cấm vào phòng khách. Bây giờ tôi vẫn thường tự nhủ nếu mình khéo léo và kém thành thực hơn trong ánh nhìn thì đã có thể kiếm thêm ít nhất sáu tháng nữa.