← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XVII

Ở VACSAVA, chúng tôi sống rất khó khăn trong những gian phòng trọ có sẵn đồ đạc. Có người nào đó từ nước ngoài giúp đỡ mẹ tôi bằng cách đều đặn gửi tiền để chúng tôi có thể sống qua ngày đoạn tháng. Tôi đi học và sáng nào cũng vậy, vào giờ ra chơi lúc mười giờ, mẹ lại mang sô cô la và bánh mì phết bơ cho tôi. Mẹ làm đủ mọi việc để chúng tôi hết khó khăn cực nhọc. Mẹ môi giới trang sức, buôn áo lông và đồ cổ, tôi nghĩ mẹ là người đầu tiên nảy ra ý tưởng khá sinh lợi này: mẹ đăng quảng cáo trên báo cho mọi người biết là mẹ mua răng, vì không có từ khác nên tôi chỉ có thể gọi là răng hạ giá; đó là những chiếc răng đúc bằng vàng hoặc bằng bạch kim, mẹ mua rồi bán lại kiếm lời. Mẹ lấy kính lúp để quan sát răng, nhúng răng vào một loại axít đặc biệt để chắc chắn những chiếc răng đó được làm bằng kim loại quý. Mẹ cũng làm quản lý chung cư, đi phát tờ rơi và làm hàng trăm hàng nghìn công việc vặt vãnh khác mà giờ tôi không còn nhớ nữa; tuy nhiên, mỗi buổi sáng vào lúc mười giờ, mẹ đã đứng đó, tay cầm phích sô cô la và bánh mì phết bơ.

Mặc dù vậy, tại đây, chúng tôi đã phải chịu thêm một thất bại đắng cay khác: tôi không được vào trường trung học Vacsava của Pháp. Học phí ở đó rất cao vượt quá khả năng tài chính của chúng tôi. Thế là tôi học ở một trường Ba Lan trong thời gian hai năm, cho tới bây giờ, tôi vẫn nói và viết tiếng Ba Lan thành thạo. Đó là một ngôn ngữ thật đẹp. Mickiewicz vẫn là một trong những nhà thơ tôi yêu thích nhất, tôi yêu đất nước Ba Lan rất nhiều - như tất cả những người Pháp khác.

Mỗi tuần năm lần, tôi đi tàu điện đến nhà một người thầy rất giỏi tên là Lucien Dieuleveut-Kaulek để học tiếng mẹ đẻ.

Đến đây, tôi xin thú nhận một điều. Khá ít khi tôi nói dối vì nói dối đối với tôi có mùi vị nhạt nhẽo của sự bất lực: nói dối khiến cho tôi quá xa rời mục đích. Nhưng khi người ta hỏi tôi từng học trường nào tại Vacsava, bao giờ tôi cũng trả lời: trường trung học Pháp. Đó là vấn đề nguyên tắc. Mẹ tôi đã cố gắng hết mình và tôi không thấy có lý do gì để tước mất thành quả lao động mệt nhọc của bà.

Dù vậy, đừng có tưởng tôi dự vào quá trình đấu tranh của mẹ mà không cố gắng giúp đỡ bà. Sau khi thất bại nhiều lần trong nhiều lĩnh vực, cuối cùng tôi tin đã tìm thấy thiên hướng đích thực của mình. Tôi đã bắt đầu tung hứng ở Wilno, khi còn yêu Valentine, để làm đẹp lòng cô bé. Từ đó, tôi tiếp tục tung hứng, và mỗi lần tung hứng tôi đều nghĩ đến mẹ, để xin lỗi mẹ là tôi không có tài gì khác. Trong hành lang ở trường học, trước cái nhìn khâm phục của bạn bè, tôi tung hứng một lần năm đến sáu quả cam, và đâu đó, trong sâu thẳm lòng mình, tôi ấp ủ một tham vọng điên cuồng, tham vọng có thể tung hứng đến quả thứ bảy và có thể là quả thứ tám như Rastelli vĩ đại, và thậm chí, ai mà biết được, đến quả thứ chín để cuối cùng cũng trở thành nhà tung hứng tài ba nhất mọi thời đại. Mẹ tôi xứng đáng được như vậy nên tôi dành hết thời gian rỗi để luyện tập.

Tôi tung hứng cam, tung hứng đĩa, tung hứng chai, tung hứng chổi, tung hứng tất cả những gì vớ được; nhu cầu nghệ thuật của tôi, nhu cầu tìm kiếm sự hoàn hảo, ham muốn có được kỳ tích tuyệt vời và độc nhất vô nhị, tóm lại là khát khao được làm chủ của tôi đã tìm thấy trong trò tung hứng này một phương tiện diễn đạt khiêm tốn nhưng tràn đầy nhiệt huyết. Tôi cảm thấy mình ở bên một lĩnh vực kỳ diệu và tôi khao khát hết mình để đạt đến lĩnh vực đó: lĩnh vực của điều bất khả đã đạt tới và thực hiện được. Đó là phương tiện diễn đạt nghệ thuật có ý thức đầu tiên của tôi, linh cảm đầu tiên của tôi về một sự hoàn hảo có thể có và tôi hăng hái lao vào. Tôi tung hứng ở trường, trên phố, khi lên cầu thang, khi vào căn phòng thuê, rồi tôi đứng trước mẹ, sáu quả cam bay trên không, tung lên rồi lại bắt. Khốn nỗi, khi tôi tự thấy mình đang được hứa hẹn một tương lai xán lạn, cậy vào tài năng của mình để mẹ tôi được sống trong xa hoa giàu có thì một thực tế tàn nhẫn dần dần lộ rõ trước mắt tôi: tôi không thể vượt quá quả bóng thứ sáu. Mặc dù vậy tôi đã cố, Chúa thừa biết là tôi đã cố. Vào thời kỳ đó, tôi đã có lúc tung hứng bảy đến tám tiếng mỗi ngày. Tôi bối rối cảm thấy rằng trò được mất này rất quan trọng, thậm chí rất hệ trọng, rằng tôi đang tung hứng cả đời mình, cả ước mơ của mình và cả bản chất sâu xa trong tôi, rằng đó là sự hoàn hảo khả dĩ đạt đến hoặc bất khả. Nhưng hoài công vô ích, quả bóng thứ bảy luôn luôn lẩn tránh những nỗ lực của tôi. Kiệt tác vẫn luôn luôn xa vời, luôn luôn tiềm ẩn, lúc nào cũng cảm thấy nhưng mãi mãi vượt khỏi tầm tay. Sự hoàn hảo luôn luôn bị chối từ. Tôi quyết tâm lắm, tôi trổ hết sự khéo léo nhanh nhẹn của mình, những quả bóng khi tung lên đều tiếp đuôi nhau một cách chính xác, nhưng quả thứ bảy vừa tung lên là cả công trình bỗng dưng đổ sụp, và tôi đứng đó, rụng rời, không sao nhẫn nhịn được, không sao từ bỏ được. Tôi lại tiếp tục. Nhưng quả bóng cuối cùng vẫn mãi xa rời tầm với. Chưa bao giờ, chưa bao giờ tôi nắm bắt được nó. Tôi đã cố sức cả đời. Chỉ đến lúc gần bốn mươi tuổi, sau khi đã lang thang qua khắp các kiệt tác, chân lý mới dần dần hiện hữu trong tôi và tôi ngộ ra rằng quả bóng cuối cùng không hề tồn tại.

Đó là một thực tế đáng buồn và không nên tiết lộ nó cho trẻ em. Vì thế chẳng phải ai cũng đọc được cuốn sách này.

Bây giờ, tôi không còn ngạc nhiên với chuyện cũng có lúc Paganini ném cây đàn violon của mình và nhiều năm không đụng vào nó, rồi nằm đó, ánh mắt trống rỗng. Tôi không ngạc nhiên, ông biết.

Khi tôi thấy Malraux, người vĩ đại nhất trong số chúng ta, tung hứng với những quả bóng như không mấy người từng tung hứng trước ông, trái tim tôi thắt lại trước bi kịch của ông, cái bi kịch đã được viết lên mặt ông, chính giữa những thành tích chói lọi nhất: quả bóng cuối cùng nằm ngoài tầm tay ông và cả sự nghiệp của ông được làm bằng niềm tin đầy lo sợ ấy.

Mặt khác, đã đến lúc nói lên sự thật về vụ Faust. Tất cả mọi người đều đã nói dối một cách trơ trẽn, trong đó Goethe là mạnh mồm nhất và tài năng nhất, họ nói dối để ngụy trang vụ việc và che giấu thực tế phũ phàng. Ở đây nữa, có lẽ tôi không nên nói ra vì có một việc tôi không thích làm, đó là tước mất niềm hy vọng của con người. Nhưng rốt cuộc, bi kịch thực sự của Faust không phải là ông ta đã bán linh hồn cho quỷ dữ. Mà bi kịch thực sự là không có quỷ dữ để có thể mua linh hồn của bạn. Không có người mua. Chẳng ai đến giúp bạn bắt được quả bóng cuối cùng cho dù bạn ra giá thế nào. Cũng có vô số những kẻ khờ khạo ra vẻ ta đây, tự cho mình là người mua, tôi không nói rằng người ta không thể dàn xếp với họ, với một số lợi lộc gì đó. Người ta có thể. Họ cho các bạn sự thành công, tiền bạc và sự khâm phục của đám đông. Nhưng đó chỉ là một điều gì đấy mơ hồ, nhạt nhẽo không nuốt nổi, và khi người ta tên là Michel-Ange, Goya, Mozart, Tolstoi, Dostoievski hay Malraux, người ta phải chết với cảm giác đã sản xuất ra gia vị.

Cho nên, tất nhiên là tôi tiếp tục luyện tập.

Thỉnh thoảng tôi vẫn ra khỏi nhà, lên đỉnh đồi, phía trên vịnh San-Francisco, và ở đó, ở chỗ dễ thấy, giữa thanh thiên bạch nhật, tôi tung hứng với ba quả cam, đó là tất cả những gì tôi có thể làm bây giờ.

Đó không phải là sự thách thức. Đó đơn giản chỉ là một lời tuyên ngôn về phẩm cách.

Tôi đã gặp Rastelli vĩ đại, chân ông đứng trên một cái cổ chai, chân kia gập ra sau xoay xoay hai cái vòng, mũi ông đỡ một chiếc gậy, trên chiếc gậy là một quả bóng, trên quả bóng là một ly nước trong khi hai tay vẫn tung hứng bảy quả bóng.

Tôi ngỡ mình đang thấy tận mắt thời điểm diễn ra sự điêu luyện hoàn hảo và không thể chối cãi, khoảnh khắc tối thượng nơi con người chiến thắng hoàn cảnh của mình, nhưng vài tháng sau Rastelli qua đời trong tuyệt vọng vì rời sân đấu mà không thể bắt được quả bóng thứ tám, quả bóng cuối cùng, quả bóng duy nhất có giá trị đối với ông.

Tôi nghĩ là nếu tôi cúi xuống giường bệnh của ông, ông đã có thể giải thích một lần thật rõ ràng cho tôi điều này và vì khi đó tôi mới mười sáu tuổi, tôi đã có thể tránh được một cuộc đời đầy cố gắng và thất bại.

Tôi sẽ lấy làm tiếc nếu ai đó kết luận, qua những gì xảy ra ở trên, rằng tôi không phải là một người hạnh phúc. Đó là một nhầm lẫn hoàn toàn đáng tiếc. Tôi từng biết và tôi hãy còn biết những niềm vui kỳ lạ trong đời. Thí dụ từ thuở nhỏ, tôi luôn thích món dưa chuột muối, không phải dưa chuột bao tử đâu mà là dưa chuột chính cống, loại dưa chuột có một không hai mà người ta gọi là dưa chuột kiểu Nga ấy. Tôi đã luôn thấy dưa chuột khắp nơi. Tôi thường mua nửa ký rồi ngồi đâu đó dưới ánh nắng mặt trời, bên bờ biển hay ở bất cứ nơi nào khác, trên vỉa hè hay trên ghế đá, tôi cắn vào quả dưa chuột và cảm thấy hạnh phúc trọn vẹn. Tôi ở đó, dưới ánh mặt trời, lòng thanh thản, quan sát sự vật và con người một cách thân thiện và biết rằng cuộc đời thực sự đáng sống, và hạnh phúc là cái gì đó có thể đạt tới, chỉ cần tìm thấy thiên hướng sâu xa trong mình rồi hết lòng với những gì mình thích, hoàn toàn quên cả bản thân.

Mẹ tôi quan sát những cố gắng của tôi trong việc giúp mẹ với lòng biết ơn xúc động. Mỗi lần về nhà, tay kéo lê một tấm thảm cũ kỹ hoặc một cái đèn đã qua sử dụng nào đó mà mẹ định bán lại, mẹ thường thấy tôi đang tung hứng trong phòng và bà không nhầm về lý do khiến tôi say sưa như thế. Mẹ ngồi nhìn tôi tung hứng rồi nói:

– Con sẽ là một nghệ sĩ vĩ đại! Mẹ con nói với con thế đấy.

Lời tiên đoán của mẹ suýt trở thành hiện thực. Lớp tôi tổ chức biểu diễn kịch, và, sau những vòng loại rất nghiêm ngặt, vai chính trong vở kịch thơ của Mickiewicz, với tiêu đề Konrad Wallenrod, đã được giao cho tôi, dù tôi nói tiếng Ba Lan với giọng Nga rất nặng. Không phải vô tình mà tôi vượt qua được vòng loại.

Tối nào cũng thế, sau khi đi chợ về và chuẩn bị xong bữa ăn tối, mẹ lại tập cho tôi diễn vai của mình trong thời gian một hai tiếng gì đấy. Mẹ đã thuộc lòng kịch bản và diễn trước cho tôi xem. Mẹ cố diễn hết mình còn tôi thì nhắc lại lời thoại và bắt chước các cử chỉ, thái độ cùng giọng điệu của mẹ. Vai diễn kịch tính như ý và, vào khoảng mười một giờ khuya, hàng xóm láng giềng hết chịu nổi bắt đầu bực bội yêu cầu chúng tôi giữ trật tự. Mẹ tôi không phải tay vừa, trong hành lang, diễn ra những cảnh đáng nhớ, mẹ vừa tiếp tục say sưa ngâm bài thơ bi kịch nổi tiếng của nhà thơ vĩ đại vừa không làm chủ được mình trong những lời chửi rủa, thách thức và những câu trường thoại nảy lửa. Kết quả không như mong đợi, và vài ngày trước khi biểu diễn, chúng tôi bị điệu đi tập nơi khác. Chúng tôi chuyển đến nhà một người họ hàng của mẹ, trong căn hộ của một luật sư và em gái ông ấy, một bác sĩ nha khoa: ban đầu chúng tôi ngủ trong phòng đợi, rồi sau đó ngủ trong phòng khám, và sáng nào cũng thế, chúng tôi phải trả phòng trước khi khách hàng và bệnh nhân đến.

Cuối cùng thì ngày biểu diễn cũng tới và tối hôm đó, tôi gặt hái được thành công lớn đầu tiên trong đời mình trên sân khấu. Sau khi buổi biểu diễn kết thúc, mẹ tôi, khi đó còn xốn xang trước những tràng vỗ tay nồng nhiệt và gương mặt còn dầm dề nước mắt, đã dẫn tôi vào một hàng bánh ngọt. Mẹ vẫn giữ nguyên thói quen cầm tay tôi khi đi trên phố và vì đã mười một tuổi rưỡi rồi, tôi cảm thấy ngượng kinh khủng. Tôi luôn khéo léo tìm cớ rút tay ra và sau đó lại quên đưa tay cho mẹ, nhưng mẹ luôn nắm tay tôi rất chặt trong tay bà.

Chiều vừa đến, những con phố gần đường Poznanska đã đầy gái điếm. Họ tụ tập rất đông, nhất là trên phố Chmielna. Đối với những cô gái tử tế này, sự hiện diện của tôi và mẹ tôi không có gì xa lạ. Khi hai mẹ con tôi cầm tay nhau đi qua thì họ luôn kính cẩn nhường đường và khen mẹ tôi có đứa con sáng sủa. Khi tôi đi qua một mình thì họ thường bắt chuyện với tôi, hỏi về mẹ tôi, hỏi tôi vì sao mẹ không đi bước nữa, cho tôi kẹo và có một cô tóc hung dáng người gầy nhỏ và chân vòng kiềng thường hôn lên má tôi, bảo tôi đưa khăn mùi soa cho cô rồi cẩn thận lau má cho tôi. Tôi không biết tại sao cái tin mình sắp đóng một vai quan trọng trong vở diễn ở trường học đã lan ra vỉa hè, tôi nghi là do mẹ tôi chứ không ai khác, nhưng dù thế nào, trên đường đến tiệm bánh ngọt, các cô ấy cũng đã vây lấy chúng tôi rồi lo lắng hỏi tôi được chào đón như thế nào. Mẹ không tỏ ra khiêm tốn vô ích làm gì và, trong những ngày tiếp theo, mỗi lần tôi đi qua phố Chmielna, một cơn mưa quà lại đổ ập lên người tôi. Tôi nhận được những cây thánh giá nhỏ hay ảnh tượng các thánh, những tràng hạt hay những chiếc dao nhíp, những thỏi sô cô la hay tượng Đức Mẹ, các cô ấy còn nhiều lần kéo tôi vào một hàng thịt lợn nhỏ bên cạnh và, trước con mắt khâm phục của họ, tôi ních đầy một bụng dưa chuột muối.

Vào đến hàng bánh, sau khi ăn chiếc bánh thứ năm, tôi đã bắt đầu thở, mẹ tôi trình bày ngắn gọn những dự định tương lai của mình. Cuối cùng, chúng tôi giữ lại cái gì đó cụ thể, tài năng thì chắc chắn rồi, con đường đã được vạch ra, chỉ còn tiếp tục nữa thôi. Tôi sẽ trở thành một diễn viên nổi tiếng, tôi sẽ làm cho phụ nữ khổ sở, tôi sẽ có một chiếc xe mui trần to màu vàng, tôi sẽ ký hợp đồng với U.F.A. Lần này thì chắc rồi, nắm bắt được rồi, đến nơi rồi. Thêm một cái bánh cho tôi, thêm một ly trà cho mẹ: hẳn mẹ phải uống từ mười lăm đến hai mươi ly trà mỗi ngày. Tôi lắng nghe mẹ nói - nói thế nào nhỉ? - tôi cẩn trọng nghe mẹ nói. Tôi phải nói mà không khoe khoang là mình hoàn toàn tỉnh táo. Mới mười một tuổi rưỡi nhưng tôi đã quyết tâm trở thành một thành phần luôn điềm tĩnh, thận trọng, một người Pháp trong gia đình. Bây giờ, cái cụ thể nhất mà tôi có thể nhìn thấy là những chiếc bánh trong khay, và tôi không tha cho bất cứ cái nào. Tôi đã làm rất tốt vì sự nghiệp sân khấu và điện ảnh vĩ đại của tôi chưa bao giờ được cụ thể hóa. Dù thế, cố gắng đâu phải là việc gì đó tội lỗi. Trong nhiều tháng liền, mẹ tôi liên tục gửi ảnh của tôi cho giám đốc các nhà hát ở Vacsava, mẹ cũng gửi đi Berlin, gửi đến U.F.A, mẹ miêu tả rất cặn kẽ thắng lợi rực rỡ mà tôi đã đạt được với vai chính trong vở Kon-rad Wallenrod. Mẹ tôi thậm chí còn xin gặp giám đốc Nhà hát Polski, một người lịch lãm và tao nhã đã lịch sự nghe tôi diễn, trong khi trong phòng ông ta, tôi giơ một chân ra trước, đưa một tay lên cao, lấy tư thế của Rouget de Lisle đang hát La Marseillaise rồi ngâm với giọng hào sảng và nặng âm điệu Nga những câu thơ bất hủ của nhà thơ Ba Lan. Tôi cố giấu nỗi sợ của mình bằng cách rướn cổ lên mà gào; trong phòng có nhiều người cùng xem tôi biểu diễn, họ tỏ ra hết sức kinh ngạc, chắc hẳn trong không khí có thể nói là thiếu hơi ấm đó, tôi không làm chủ được khả năng của mình nên bản hợp đồng tuyệt vời đã không được ký. Dù sao thì người ta cũng nghe tôi biểu diễn đến khi kết thúc, và sau khi đã uống thuốc độc xong theo như kịch bản, tôi ngã sụp xuống chân ông ta và lên cơn co giật kinh khủng trong khi mẹ tôi nhìn những người có mặt với ánh mắt đắc thắng. Ông giám đốc đỡ tôi đứng dậy và sau khi yên tâm là tôi không bị đau gì, ông ta biến nhanh đến nỗi mãi đến bây giờ, tôi vẫn tự hỏi ông ta đã bỏ đi ra sao và qua cửa nào.

Mười sáu năm sau tôi mới lại lên sàn diễn, trước những khán giả hoàn toàn khác trong đó có tướng de Gaulle là nhân tố thú vị nhất. Chuyện này diễn ra ở giữa châu Phi xích đạo, tại Bangui, thuộc Oubangui-Chari, năm 1941. Tôi đã ở đó được một thời gian cùng hai phi hành đoàn trong phi đội, khi ấy chúng tôi nhận được thông báo là tướng de Gaulle sẽ đến thanh tra.

Chúng tôi quyết định đón chào người đứng đầu nước Pháp Tự do bằng một tiết mục kịch rồi bắt tay vào dàn dựng. Một vở tạp kịch cực kỳ dí dỏm đã được sáng tác ngay nhằm mua vui cho vị khách nổi tiếng, theo như ý các tác giả. Lời thoại rất vui và nhẹ nhàng, đầy trí tuệ và thấm đượm tính hài hước vì vào năm 1941 nước Pháp đang chịu nhiều thất bại quân sự nặng nề nên trước lãnh đạo, chúng tôi quyết tâm thể hiện tinh thần bất khuất cùng ý chí hăng say.

Trước khi tướng de Gaulle đến, chúng tôi biểu diễn trước để duyệt lại vở kịch và buổi diễn đó đã thành công rất đáng khích lệ. Khán giả vỗ tay nhiệt liệt, và dù thỉnh thoảng một quả xoài rụng xuống rồi rơi lên đầu ai đó, tất cả vẫn diễn ra rất tốt đẹp.

Tướng de Gaulle đến vào sáng hôm sau rồi buổi tối, ông cùng các tướng lĩnh cao cấp và các chính khách khác đến xem biểu diễn.

Buổi diễn kịch hôm đó là một thất bại thảm hại - từ đó, tôi đã thề là không bao giờ diễn kịch hay hát hò gì trước mặt tướng de Gaulle nữa dù đất nước tôi có khó khăn, nguy kịch đến mấy. Nước Pháp có thể đòi hỏi ở tôi tất cả, nhưng không phải thứ ấy.

Tôi công nhận rằng đối với lớp trẻ chúng tôi, không có gì hạnh phúc hơn ý tưởng được diễn những vở tạp kịch hài hước trước con người luôn chống chọi một mình trong giông bão, có ý chí và lòng quả cảm khả dĩ chở che được cho những trái tim yếu ớt ấy.

Nhưng tôi thật chẳng bao giờ ngờ được rằng chỉ một khán giả hoàn toàn đàng hoàng và điềm tĩnh lại có thể khiến cho cả diễn viên lẫn toàn bộ khán giả nghiêm trang đến thế.

Tướng de Gaulle, trong y phục màu trắng ngồi rất ngay ngắn ở hàng đầu, chiếc mũ kê pi đặt trên đầu gối, hai tay khoanh lại.

Ông không hề động đậy, rùng mình hay có phản ứng gì suốt buổi diễn.

Tôi chỉ nhớ là vào một lúc nào đấy, khi tôi giơ chân lên thật cao rồi bước một bước theo điệu nhảy cancan kiểu Pháp trong lúc một diễn viên khác kêu lên: “Ta là kẻ mọc sừng! Ta là kẻ mọc sừng!” theo kịch bản, thì hình như tôi có thoáng thấy bộ ria mép của người đứng đầu nước Pháp Tự do khẽ động đậy. Nhưng có thể là tôi nhầm cũng nên. Ông ngồi đó, lưng thật thẳng, tay khoanh lại và nhìn chúng tôi chăm chú lạ thường.

Mắt ở trong phòng và nhìn ngắm Caïn.

Nhưng hiện tượng lạ lùng nhất là thái độ của khoảng hai trăm khán giả. Mới hôm trước đó thôi, khán giả trong phòng ai ai cũng cười, vỗ tay ầm ầm và hết sức vui vẻ, thế mà lần này, từ phía khán giả không có tiếng cười nào vang lên.

Mặc dù thế, tướng de Gaulle ngồi hàng đầu nên khán giả không thể đọc được nét mặt ông. Với những ai khẳng định rằng tướng de Gaulle không biết tiếp xúc với đám đông và thể hiện tình cảm của mình, tôi đưa ra thí dụ này để họ suy ngẫm.

Ít lâu sau chiến tranh, Louis Jouvet dựng vở Don Juan. Tôi đến dự buổi diễn tập. Lúc tới cảnh tượng đá đến hẹn lôi kẻ phóng đãng xuống âm ti địa ngục, tự nhiên tôi có cảm giác đã xem cảnh này đâu đó rồi, có cảm giác là mình từng kinh qua điều ấy và thế là tôi nhớ Bangui, năm 1941, khi tướng de Gaulle chằm chằm nhìn tôi.

Hy vọng là ông đã tha lỗi cho tôi.