CHƯƠNG XXII
ÔNG ZAREMBA LÀ MỘT NGƯỜI BA LAN có dáng vẻ lịch thiệp tao nhã, hay sầu muộn, ít nói, ánh mắt như chất vấn người ta với vẻ khẽ trách móc muốn hỏi: “Sao lại làm thế với tôi?” Một ngày đẹp trời ông bước xuống trước khách sạn từ một chiếc taxi, bộ ria màu vàng lốm đốm bạc để theo kiểu cổ điển, trên người mặc bộ đồ trắng thuộc địa, đầu đội chiếc mũ panama màu kem, tay xách nhiều va li đầy những nhãn mà tôi ngắm nghía rất lâu: Calcutta, Malacca, Singapour, Surabaya… Đó là những gì minh chứng có thể nói là chân thực và không thể bác bỏ cho sự hiện hữu của những đất nước hư ảo mà đến lúc đó tôi chỉ cóp nhặt được bằng chứng về sự tồn tại của chúng qua các tiểu thuyết của Somerset Maugham và De Vere Stackpoole. Ông Zaremba thuê phòng ở “vài ngày” và ở lại đó một năm.
Trong bộ dạng hơi mệt mỏi, trong cung cách của một người thuộc giới thượng lưu đích thực, không gì có thể cho phép ta đoán được hình ảnh của một cậu bé mặc quần đùi ẩn chứa bên trong ông, được chôn vùi dưới cát bụi thời gian; thường có những vẻ bề ngoài trưởng thành giống như những cách ăn mặc khác, và về khoản này, tuổi tác là người thợ may khéo léo nhất. Nhưng tôi vừa mới tròn mười bảy tuổi và chưa biết gì về bản thân mình; cho nên tôi không hề nghi ngờ rằng có những lúc con người sống trên đời, giữ nhiều vị trí quan trọng rồi chết đi mà không bao giờ thoát khỏi hình ảnh đứa trẻ thơ đang núp trong bóng tối, khao khát được quan tâm, đợi chờ cho tới nếp nhăn cuối cùng một bàn tay dịu dàng đến xoa đầu và một giọng nói đến thì thầm: “Đúng thế, con yêu, đúng thế. Mẹ mãi thương con hơn bất cứ người nào khác.”
Thoạt tiên ông Zaremba tạo được ấn tượng rất tốt với bà giám đốc khách sạn-nhà nghỉ Mermonts, bà nghĩ ông là một người hào hoa phong nhã. Nhưng khi ông cúi xuống sổ ghi của khách sạn và viết nghề nghiệp của mình lên đó, liếc thấy hai chữ họa sĩ, mẹ tôi vội yêu cầu ông nộp tiền trước cho cả tuần. Còn về vẻ tao nhã, về các điệu bộ chuẩn mực và tất cả những gì mà thời xưa người ta gọi là “đúng lệ” của vị khách mới, tôi cảm giác chúng như đi ngược với quan điểm tôi vẫn luôn nghe được từ nhỏ, theo đó, họa sĩ thường hay rượu chè và dễ suy sút cả tinh thần lẫn thể chất. Chỉ còn một cách giải thích nữa, mẹ tôi đề xuất cách giải thích này trước khi hạ cố liếc nhìn những bức tranh của ông họa sĩ: chắc ông ta là một người hoàn toàn bất tài.
Kết luận này càng được xác nhận trong mắt mẹ tôi khi đúng là thành công vật chất của ông Zaremba đã cho phép ông ta sở hữu một ngôi nhà ở Florida và một nhà nghỉ mát ở Thụy Sĩ. Mẹ tôi bắt đầu thể hiện với vị khách trọ thái độ thương hại pha lẫn mỉa mai. Có lẽ mẹ sợ rằng tấm gương một họa sĩ sung túc sẽ ảnh hưởng xấu tới tôi; lạy Chúa, điều đó không những có thể khiến tôi quay lưng lại với sự nghiệp ngoại giao đang mở rộng vòng tay chờ đợi mà còn có thể khuyến khích tôi một lần nữa cầm bút vẽ.
Đó không phải là một mối lo âu thiếu căn cứ. Con quỷ bí hiểm vẫn luôn ám lấy tôi: có thể không bao giờ nó buông tha tôi. Tôi thường cảm thấy một nỗi nhớ mông lung, một nhu cầu gần như sinh lý về các hình dạng và màu sắc. Ba thập kỷ sau, khi mà cuối cùng tôi cũng quyết định thả lỏng cho “thiên hướng” của mình, kết quả thật kinh khủng. Tôi thường lao mình vào những bức vẽ như lao vào một điệu vũ cuồng nhiệt, đổ trực tiếp lên “bức tranh” những hộp màu bự nhất mà tôi có được; vì bút không mang lại cho tôi cảm giác tiếp xúc trực tiếp nên tôi vẽ bằng tay. Tôi cũng vẽ tranh “theo đà”. Đâu đâu cũng có sơn màu. Không ai có thể vào gian phòng nơi tôi đang làm mưa làm gió mà không bị dính màu vào quần áo hay mặt mũi: tường, đồ đạc và trần nhà thu nhận hết những mảnh vỡ tài năng của tôi. Bởi nếu như cảm hứng của tôi là có thật, thì kết quả lại tệ hại kinh khủng. Tôi chả có tài cán gì về vẽ vời cả. Cứ vẽ một nét là nghệ thuật tối cao này lại khinh khỉnh trả tôi về với những cuốn tiểu thuyết thiết thân của mình. Từ đó, tôi bắt đầu hiểu những người bị mắc chứng ám ảnh viết: với kinh nghiệm xương máu của mình, tôi hiểu rằng thiên hướng hay cảm hứng sâu sắc không cưỡng nổi có thể đi kèm với sự thiếu hụt năng khiếu hoàn toàn. Chưa bao giờ tôi lại có cảm hứng sáng tác ngây ngất như thế, dù vậy, cũng chưa bao giờ thất bại hiển nhiên của nghệ thuật lại phũ phàng hơn thế. Suốt một thời gian, tôi đã tiếp tục dốc cạn hàng trăm hộp màu như thể dốc cạn chính mình. Nhưng tôi chỉ có thể đạt đến sự trống rỗng trên vải vẽ. Trong hai năm trời, tôi chỉ vẽ xong một “bức tranh”. Tôi treo nó lên tường bên cạnh những bức khác, và khi nhà phê bình Grinberg nổi tiếng người Mỹ đến thăm tôi, ông dừng lại rất lâu trước tác phẩm của tôi với vẻ quan tâm đặc biệt. “Còn bức này là của ai thế?” Tôi nhanh trí trả lời: “À, đó là bức họa của một họa sĩ trẻ mà tôi đã phát hiện ra ở Milan.” Vẻ mặt ông trở nên khâm phục hơn. “Này, ông ạ, nếu đó là một đống cứt thì đó là một đống cứt thực sự. For a piece of shit, it’s a real piece of shit!” Tôi đã đoán trước rồi mà, nhưng tôi tiếp tục tin vào điều kỳ diệu. Mà điều kỳ diệu thì khi nào cũng có thể xảy đến. Bất cứ lúc nào, ông trời cũng có thể sấm sét cho tôi thành kẻ có tài. Dần dà, tôi bất mãn đến nỗi suýt bị bệnh thần kinh: có lẽ tôi là người duy nhất trên đời bị bác sĩ cấm vẽ tranh. Trên các “bức tranh” của tôi, có những lớp màu dày đến độ tôi phải mất nhiều công sức để bỏ chúng vào thùng rác. Một bà láng giềng đến cứu một trong những “tác phẩm” của tôi khỏi sọt rác rồi đưa về nhà. “Ai mà biết được”, bà phân bua.
Mặc dù vậy, nếu như tôi là vị khách hay lai vãng xưởng vẽ mà ông Zaremba thuê ở đại lộ Tsarevitch thì việc ấy chẳng có gì liên quan đến thị hiếu nghệ thuật của tôi cả. Vả lại, ông họa sĩ này chuyên vẽ những gương mặt thiên thần trẻ thơ mà tôi không hề quan tâm để ý. Tôi quan tâm đến ông vì một lý do khác. Quả vậy, tôi đã nhận ra nhân vật hơi bị suy nhược thần kinh này bắt đầu tìm cách lấy lòng mẹ tôi với sự kiên trì thầm lặng nhưng chắc chắn. Nếu chắc tay, khéo léo nắm được tình hình, tôi có thể tận dụng được nhiều cơ hội và có thể làm cho cuộc sống của chúng tôi thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp nhất. Vốn là người thích phiêu lưu mạo hiểm, liều lĩnh như tất cả những ai mà thói ưa hành động và ưa lập kỳ tích không tìm được chỗ bấu víu, ý nghĩ có thể “gả chồng” cho mẹ và nhờ đó có thể tránh được cho mẹ những mối lo âu về vật chất khiến trong tôi nảy sinh thêm một hy vọng nữa: hy vọng có thể lao vào một cuộc sống phiêu lưu mà không phải tự trách cứ đã để người từng hy sinh tất cả vì mình vào cảnh không nơi nương tựa.
Ông Zaremba chưa bao giờ lấy vợ. Lúc còn bé ông sống một mình và đến tuổi trưởng thành ông vẫn ở vậy. Bố mẹ ông mất sớm, bị bệnh lao phổi mang đi một cách đáng thương. Họ được chôn cất ở nghĩa trang Menton, nơi ông thường đến đặt hoa lên mộ họ. Ông đã được một ông bác độc thân nuôi dưỡng mà không thực sự quan tâm, yêu thương trong một cơ ngơi giàu có ở miền Đông Ba Lan.
Ông không lần lữa mà tìm cách tiếp cận hết sức tế nhị.
– Cháu còn rất trẻ, cháu Romain thân mến.
Ông gọi tôi theo kiểu Ba Lan, panie Romanie, cháu Romain.
– Cháu còn rất trẻ. Đời cháu còn dài. Cháu sẽ tìm được một người phụ nữ tận tâm với cháu. Bác muốn nói là một người phụ nữ khác kia vì lúc nào bác cũng thấy mẹ cháu vô cùng chăm lo âu yếm cháu. Bác không có may mắn đó. Bác thú nhận là bác muốn gặp một người mà bác có thể yêu và người đó phần nào có quan tâm đến bác. Bác nói là: phần nào. Bác không phải người đòi hỏi. Bác bằng lòng với vị trí thứ yếu trong tình thương của một người phụ nữ.
Tôi nín cười khi nghĩ rằng ai khác chứ không phải tôi có thể có vị trí thứ nhất trong tình thương của mẹ tôi. Nhưng không được làm cho ông ấy hoảng sợ.
Cháu thấy bác có lý khi lo cho tương lai của mình, tôi cẩn trọng nói. Mặt khác, cháu thấy là như thế bác sẽ phải gánh một số trách nhiệm. Tài chính chẳng hạn. Cháu không biết liệu một họa sĩ có khả năng chu cấp cho nhu cầu của một gia đình hay không.
Về vật chất thì bác rất thoải mái, bác bảo đảm với cháu như vậy.
Ông vuốt râu.
Vả lại bác muốn chia sẻ thành công của mình với ai đó. Bác không phải là một kẻ ích kỷ.
Lần này tôi cảm thấy xúc động thực sự. Tôi ước mơ được học lái máy bay. Về mặt tiền nong điều đó nằm ngoài tầm với của tôi: tôi phải có ít nhất năm nghìn quan. Tôi có thể yêu cầu ông ứng trước cho chúng tôi, để chứng tỏ ông nghiêm túc. Ý nghĩ về một chiếc xe hơi nhỏ mà người cầm lái là tôi cũng thoáng qua đầu tôi với vận tốc trăm kilomét một giờ. Tôi cũng để ý thấy ông họa sĩ có một chiếc áo choàng bằng lụa tơ tằm Damas ánh vàng tuyệt đẹp.
Tôi cười thầm trong bụng. Hài hước với tôi đã là cái gì đó phải theo tôi suốt cuộc đời: một sự trợ giúp cần thiết, sự trợ giúp chắc chắn nhất. Sau này, mãi sau này, dù riêng tư hay công khai, trên truyền hình hay trong “thế giới thượng lưu”, những người nghiêm túc nhất vẫn luôn luôn hỏi tôi: “Ông Romain Gary này, sao ông cứ viết những câu chuyện chống lại chính ông thế? ” Nhưng đâu chỉ riêng tôi. Đó là cái tôi của tất thảy chúng ta. Đó là vương quốc nhỏ bé của cái Tôi chúng ta, rất buồn cười, cùng hoàng cung và thành quách của nó. Một ngày nào đó, có thể tôi sẽ trả lời kỹ hơn[*].
[*]( Xem cuốn Đêm sẽ yên bình, Gallimard, 1974 (chú thích của tác giả).)
Ý nghĩ có bố dượng là ông Zaremba khiến tôi rất nôn nao xao động. Có những lúc tình thương yêu vô bờ bến mà tôi là đối tượng vượt quá khả năng chịu đựng của tôi. Tôi luôn thấy mình hiện hữu trong một ánh mắt đam mê và say đắm, như một người độc nhất vô song có đủ mọi tố chất và hứa hẹn con đường hoạn lộ tươi sáng, điều này chỉ làm tăng thêm trạng thái bất mãn và ý thức vốn đã sáng suốt cũng như đau đớn rất nhiều của tôi về vực thẳm ngăn cách viễn tưởng lớn lao đó và thực tế tệ hại. Không phải tôi nghĩ đến việc trốn tránh những trách nhiệm mà sự tận tâm tận tụy cùng những hy sinh mình được hưởng buộc tôi phải gánh vác. Tôi quyết tâm thực hiện những gì mẹ mong chờ ở tôi, và tôi quá yêu mẹ nên không sao hiểu được những ước mơ của mẹ ngây thơ và thái quá tới mức nào. Tôi càng khó kể đến sự ám ảnh hơn khi mà, bị ru ngủ bởi những hứa hẹn và những câu chuyện về tương lai xán lạn của tôi từ thuở ấu thơ, đôi khi tôi bị mất phương hướng, và không rõ lắm ước mơ của mẹ là gì còn tôi là ai. Nhất là vì quá mệt mỏi khi được ấp ủ như thế. Nếu ông Zaremba kéo về phía mình một chút gánh nặng thương yêu đang đè nặng lên tôi thôi, thì cuối cùng tôi cũng được hít thở tự do hơn.
Tôi không phải đợi lâu mới nhận ra rằng mẹ bắt đầu cảm thấy trong việc này có điều gì đó ẩn khuất. Bà bắt đầu đối xử lạnh nhạt với ông, một sự lạnh nhạt gần như chống đối. Mẹ tôi đã bước sang tuổi năm mươi ba và dù tóc mẹ bạc trắng, dù nét mặt mẹ hư hao vì đã phải chống chọi ở ba nước khác nhau để tồn tại, bà vẫn giữ được trong vẻ nữ tính của mình sự rạng rỡ hân hoan khả dĩ làm cho một người đàn ông nào đó phải mơ ước. Tuy vậy tôi cũng không mất nhiều thời gian để hiểu rằng ông bạn rụt rè và lịch sự của mình không mê mẹ tôi như một người đàn ông yêu một người đàn bà. Zaremba giấu dưới vẻ ngoài ông lớn của mình hình ảnh một đứa trẻ mồ côi chưa bao giờ được hưởng tình thương yêu trìu mến, một đứa trẻ từng cảm thấy hy vọng và có thể là thèm muốn khi thấy tình mẫu tử cháy bỏng như vậy trước mắt mình. Dĩ nhiên, ông đã quyết định là cả hai đều có chỗ.
Thường khi mẹ ôm tôi vào lòng theo cái đà “xu hướng biểu hiện” của bà, hoặc khi bà mang trà, bánh và hoa quả cho tôi vào lúc năm giờ, khi tôi đang ở trong khu vườn nhỏ trước khách sạn, tôi lại nhận ra trên gương mặt xương xẩu của ông Zaremba thoáng buồn, thậm chí là thái độ bực tức. Ông cũng thế, ông ước ao được chấp nhận. Ông ngồi trên chiếc ghế bành liễu giỏ, chân bắt tréo rất lịch sự, cây gậy có núm hình quả táo bằng ngà để ngang trên hai đầu gối; ông vuốt râu rồi âu sầu quan sát chúng tôi như một kẻ bị khép tội biệt xứ đang ngắm nhìn ngõ cửa vương quốc cấm. Tôi phải thú nhận là mình còn quá trẻ con và mù tịt về những gì đang chờ đợi mình ở cuối con đường nên không hề cảm thấy thích thú trước sự bực bội của ông. Mặc dù thế, ông không ngờ rằng không những tôi không phải đối thủ của ông mà còn là một đồng minh chắc chắn nữa. Nếu một ngày nào đó tôi được thăng chức trong ngành ngoại giao thì đây chính là lúc tôi phải chứng tỏ điều đó. Cho nên tôi không dại gì mà động viên khích lệ ông.
Thỉnh thoảng ông Zaremba húng hắng vẻ phật ý khi mẹ đưa quà cho tôi, nhưng ông không nói một lời và chẳng bao giờ dám nhận xét kiểu: “Nina, chị đang làm hư con trai chị đấy và đang dành cho nó một tương lai đầy trắc trở trong các mối quan hệ của nó với phụ nữ. Sau này nó sẽ làm gì? Chị bắt con trai mình đi tìm tình thương bất khả nào vậy?” Không, ông Zaremba không bao giờ tọc mạch kiểu ấy; ông chỉ ở nguyên đó, trong bộ quần áo xứ nhiệt đới, vẻ hơi khổ tâm; thỉnh thoảng ông thở dài quay mặt đi, hơi khó chịu trước tình cảm dào dạt của hai mẹ con tôi. Tôi tin chắc mẹ hoàn toàn nhận ra là ông hơi đố kỵ, bởi lúc nào bà cũng cường điệu cách thể hiện tình cảm của mình khi kẻ si tình rụt rè có mặt ở đó; thậm chí hẳn bà còn thấy đôi chút thích thú, trước hết là vì nữ diễn viên kịch hụt trong bà luôn có nhu cầu về khán giả, sau nữa là vì “kẻ bị đào thải” của chúng tôi có thái độ khiến tình cảm giữa hai mẹ con tôi càng tăng lên và chứng tỏ cho mọi người thấy tình đoàn kết cũng như sự an toàn tuyệt đối trong vương quốc bất khả xâm phạm của chúng tôi. Rồi một hôm, sau khi mẹ đặt mâm thức ăn lúc năm giờ cho tôi lên cái bàn trong vườn, ông Zaremba tự cho phép mình thể hiện một cử chỉ, và vì cử chỉ này là của một người rụt rè, ý tứ nên nó tương đương với một sự cả gan cực kỳ và một lời thổ lộ tình cảm câm lặng nhưng mãnh liệt, ông rời ghế bành, dù không ai mời nhưng ông vẫn đến ngồi vào bàn tôi, chìa tay nhón một quả táo trong giỏ rồi ăn với vẻ quả quyết, mắt nhìn thẳng mắt mẹ tôi ra vẻ thách thức. Tôi không nói được lời nào. Chưa bao giờ chúng tôi nghĩ ông Zaremba lại có thể bạo gan đến thế. Mẹ tôi và tôi trao nhau ánh mắt bực dọc, sau đó chúng tôi lạnh nhạt nhìn ông họa sĩ, lạnh nhạt đến nỗi, sau khi cố gắng gặm táo một hai lần, con người tội nghiệp đó để lại quả táo vào mâm, đứng dậy bỏ đi, đầu cúi xuống, vai trĩu nặng.
Ít lâu sau, ông Zaremba tiếp cận vấn đề trực diện hơn.
Lúc ấy tôi đang ngồi trong phòng mình ở tầng trệt khách sạn, trước một cánh cửa sổ để mở, bận trau chuốt chương cuối cuốn tiểu thuyết của mình. Đó là một chương cuối tuyệt vời, và đến bây giờ tôi vẫn còn tiếc nuối vì chưa bao giờ viết được những chương trước đấy. Thời đó, thành tích của tôi là đã viết được ít nhất hai mươi chương cuối.
Mẹ tôi thì đang uống trà trong vườn, ông Zaremba đứng cạnh bà, hơi nghiêng người, một tay đặt trên thành ghế. Ông chờ mẹ tôi mời ngồi nhưng không được. Vì câu chuyện hôm đó nói về một chủ đề mà mẹ tôi không bao giờ thờ ơ, nên ông không khó khăn gì để khơi gợi sự chú ý của mẹ.
Nina ạ, có một điều mà lâu nay tôi muốn nói với chị. Về con trai chị ấy mà.
Mẹ tôi vẫn uống tách trà đang còn nóng rẫy của mình, và sau khi bị bỏng môi, bà có thói quen kỳ lạ là thổi tách trà cho nguội.
Tôi nghe ông nói đây.
Làm con trai độc nhất không tốt tí nào đâu, thậm chí có thể nói là rất nguy hiểm. Như thế người ta sẽ có thói quen nghĩ mình là trung tâm của thế giới, và chính tình thương yêu không chia sẻ với ai sau này sẽ khiến chị gặp nhiều thất vọng.
Mẹ tôi dụi điếu thuốc Gauloise.
Tôi không có ý định nhận con nuôi, bà đáp lại cụt ngủn.
Ý tôi không phải vậy, ông Zaremba thì thầm, mắt vẫn không rời chiếc ghế dựa.
Ông ngồi xuống đi.
Ông họa sĩ cúi người cảm ơn mẹ tôi rồi ngồi xuống.
Điều tôi muốn nói đơn giản chỉ là việc để cho cháu Romain cảm thấy ít… độc nhất hơn là rất quan trọng. Là người duy nhất trong cuộc đời chị thì không hay ho gì cho cháu nó đâu. Sự độc quyền tình cảm đó sẽ khiến cháu nó đòi hỏi cực kỳ cao trong quan hệ với phụ nữ.
Mẹ tôi đẩy tách trà ra rồi lấy một điếu Gauloise khác. Ông Zaremba sốt sắng châm lửa cho bà.
Chính xác là ông muốn gì, hả panie Janie? Người Ba Lan các ông thường hay vòng vo luẩn quẩn, điều này giúp các ông có những phẩm cách tuyệt vời nhưng đôi khi lại khiến các ông trở nên hết sức phức tạp.
Tôi chỉ muốn nói với chị rằng nếu bên cạnh chị có thêm một người đàn ông thì điều đó sẽ giúp cháu Romain rất nhiều. Tất nhiên là với điều kiện người đàn ông đó là một người biết điều và không tỏ ra quá đòi hỏi.
Một mắt nheo lại sau làn khói thuốc, mẹ tôi chăm chú nhìn ông Zaremba với vẻ mà tôi cho là khoan dung một cách nhạo báng.
Chị phải hiểu rằng, ông Zaremba vừa nói vừa nhìn xuống chân, tôi không khi nào đánh giá tình yêu thương của một người mẹ là “thái quá”. Cá nhân tôi chưa bao giờ có được một tình thương như thế, bao giờ tôi cũng cân đong đo đếm những gì tôi đã thiếu. Tôi là một kẻ mồ côi, như chị biết đấy.
Ông chắc chắn là kẻ mồ côi nhiều tuổi nhất mà tôi từng gặp, mẹ tôi nói.
Tuổi tác có sao đâu, chị Nina. Con tim chẳng bao giờ già cỗi, chỉ có sự trống trải, xa vắng là ở lại và ngày càng lớn hơn. Tất nhiên tôi nhận thức được tuổi tác của mình nhưng quan hệ giữa người với người thường nở rộ ở tuổi chín muồi một cách… Nói thế nào nhỉ? Rạng rỡ và thầm lặng. Và nếu chị chia sẻ được tình yêu thương con trai chị với người khác, tôi dám nói là cháu Romain sẽ trở thành một người tin tưởng vào bản thân hơn. Có thể nhờ vậy mà cháu nó không phải suốt đời dằn vặt vì một nhu cầu nội tại khẩn thiết về nữ tính toàn năng nào đó, nếu tôi có thể nói thế… Giá như tôi có thể giúp được chị, và qua đó giúp con trai chị trong việc…
Ông dừng lại rồi im lặng, hoàn toàn tiu nghỉu trước ánh mắt đang khiến ông chán ngán. Mẹ tôi hít một hơi dài, với một tiếng rít nhè nhẹ, theo cách những người nông dân Nga thể hiện sự sảng khoái của họ. Bà ngồi thẳng người, hai tay đặt nằm trên đầu gối. Rồi bà đứng dậy.
Ông hoàn toàn mất trí rồi, ông bạn tội nghiệp của tôi ạ, bà nói. Và đối với tôi, người vốn biết hết vốn từ vựng của bà vào những lúc bà nổi khùng thì trong câu từ chọn lọc này có dấu hiệu của sự đúng mực, dấu hiệu không hoàn toàn dập tắt hy vọng. Sau đó mẹ tôi đứng dậy bỏ đi, đầu ngẩng cao rất đỗi trang nghiêm.
Ánh mắt tiếc nuối của ông Zaremba bỗng bắt gặp ánh mắt tôi. Ông đã không nhận ra sự hiện diện của tôi phía sau cửa sổ, vì thế ông càng bối rối hơn, như thể tôi đã bắt quả tang ông ăn cắp bi của tôi ấy. Tôi sẵn sàng trấn an ông. Cách tốt nhất là chứng tỏ tôi đã đối xử với ông như bố dượng tương lai. Tôi cũng cần phải biết liệu ông có tỏ ra xứng tầm không và ông đã sẵn sàng đối diện với những nghĩa vụ của ông đối với chúng tôi chưa.
Tôi đứng dậy rồi nghiêng mình qua cửa sổ.
Bác có thể cho cháu vay năm mươi quan không, panie Janie? tôi hỏi.
Ông Zaremba lập tức đặt tay lên ví. Cách trắc nghiệm tâm lý ngày nay người ta hay sử dụng để tuyển ứng viên vào một vị trí nào đó thời ấy còn chưa được ai biết đến; có thể nói tôi là người đầu tiên có sáng kiến ấy.
Sau khi tấn công trực diện vào vương quốc của chúng tôi, ông bạn của tôi mới khôn ngoan hiểu ra rằng: cách tốt nhất để tán tỉnh mẹ tôi là phải chiếm được cảm tình của tôi.
Chính vì thế mà tôi nhận được một chiếc ví da cá sấu với mười lăm đô la được kín đáo luồn vào trong, tiếp theo là một máy ảnh Kodak, rồi một chiếc đồng hồ đeo tay, những món quà mà tôi coi như vật bảo lãnh, bởi vì khi đụng chạm đến tương lai của cả gia đình thì người ta không bao giờ cảm thấy mình đã đủ thận trọng, ông Zaremba hiểu rõ điều này. Thế nên ngay sau đó, tôi được sở hữu một chiếc bút Waterman, còn cái tủ sách khiếm tốn của tôi thì đã bước vào kỷ nguyên thịnh vượng của nó. Lúc nào tôi cũng có vé đi xem phim hay xem kịch, tôi còn miêu tả với bạn bè mình ở trường Grande Bleue ngôi nhà của chúng tôi mới tậu được tại Florida.
Sau đó, ông Zaremba nghĩ là đã làm tôi hoàn toàn yên tâm rồi, nên cũng đến lúc nhờ vả tôi.
Khi tôi đang bị cúm nhẹ và nằm lì trong phòng thì kẻ cầu hôn gõ cửa bước vào lúc bốn giờ rưỡi, đến trước cả mẹ tôi nữa. Ông mang theo một mâm hoa quả, trà, mật và những cái bánh tôi thích. Lúc ấy tôi mặc bộ pyjama và chiếc áo choàng đan cải hoa rất đẹp mà ông đã mua cho tôi. Ông đặt mâm thức ăn đồ uống lên giường tôi, rót cho tôi một tách trà, xem thân nhiệt tôi thế nào rồi kéo ghế ngồi xuống, tay cầm một chiếc khăn mùi soa, dáng ông cao cao vận đồ bằng vải tuýt xám. Ông lấy khăn mùi soa chấm chấm lên trán. Tôi động lòng thương trước sự căng thẳng của ông. Cầu hôn bao giờ cũng là thời điểm khó khăn nhất. Tôi bỗng hơi lo lắng nhớ ra là bố mẹ ông đã qua đời vì bệnh lao phổi. Có lẽ phải yêu cầu ông giấy chứng nhận sức khỏe mới được.
Cháu Romain thân mến, ông nói, không phải là không có chút nghiêm trang, chắc chắn cháu biết tình cảm của bác với hai mẹ con cháu.
Tôi cầm một chùm nho.
Chúng cháu rất quý bác, thưa bác Zaremba.
Tôi chờ đợi, tim đập thình thịch, trong lúc vẫn cố gắng tỏ ra thờ ơ. Mẹ tôi sẽ không phải lên xuống một trăm lần mỗi ngày trên cái cầu thang chết tiệt nối nhà hàng với nhà bếp nữa. Hàng năm bà có thể được đi nghỉ một tháng tại Venise, thành phố mà bà rất yêu thích. Thay vì chạy đôn chạy đáo vào lúc sáu giờ mỗi sáng để đến chợ Buffa, bà sẽ có thể đi qua đại lộ Promenade des Anglais trên một chiếc xe ngựa, mắt xa vời nhìn những kẻ mà bà thường “nhớ” đến. Cuối cùng thì tôi cũng sẽ có thể lên đường chinh phục thế giới và trở về đúng hẹn, mình đầy vinh quang để cuộc đời mẹ rạng rỡ ý nghĩa và để công lý được trả lại cho bà. Tôi cũng tưởng tượng ra vẻ mặt của mấy đứa bạn tắm biển cùng tôi khi thấy tôi xuất hiện trên chiếc du thuyền có buồm màu xanh lam - tôi rất thích màu này. Thời đó tôi quan tâm tới một cô bé người Péru tên là Lucita, tình địch của tôi không phải ai khác mà là Rex Ingram, một đạo diễn nổi tiếng, người đã phát hiện ra Rudolph Valentino. Cô bé người Péru mười bốn tuổi, Rex Ingram gần năm mươi còn tôi hơn mười bảy; thế nên buồm mới phải màu xanh lam.
Tôi cũng tưởng tượng mình đang ở Florida: một ngôi nhà màu trắng khang trang, một vùng biển ấm áp, những bãi biển sạch sẽ - đúng là một cuộc sống đích thực. Chúng tôi sẽ nghỉ tuần trăng mật ở đó.
Ông Zaremba vỗ vỗ lên trán. Nhìn vào ngón tay ông, tôi thấy một chiếc nhẫn mặt đá có khắc những vũ khí của tổ tiên chúng tôi, dòng họ Zaremba. Chắc chắn ông sẽ cho tôi mang họ ông. Không những tôi sẽ có một thằng em mà tôi còn sẽ có tổ tiên nửa.
Bác không còn trẻ nữa, panie Romanie ạ. Phải công nhận là bác thường cho thì ít mà đòi hỏi thì nhiều. Nhưng, bác hứa là bác sẽ lo cho mẹ cháu bằng tất cả khả năng của mình, như thế sẽ giúp cháu toàn tâm toàn ý với thiên hướng văn chương của cháu. Nhà văn trước tiên phải được bình tâm để có thể dốc hết khả năng. Bác sẽ để tâm đến chuyện đó.
Cháu chắc chắn là chúng ta sẽ hạnh phúc bên nhau, panie Janie ạ.
Tôi hơi nôn nóng. Ông chỉ việc dứt khoát cầu hôn chứ cần gì phải đứng đó mà căng thẳng vỗ trán.
Vậy bác muốn nói gì ạ? tôi hỏi.
Lạ thật. Tôi chờ đợi thời điểm này từ mấy tháng nay, thế mà khi ông ấy cầu hôn mẹ thì lòng tôi lại thắt lại.
Bác mong là Nina chấp nhận bác làm chồng, ông Zaremba nói với giọng không ngữ điệu, như thể ông đang chuẩn bị làm cái trò mà ở rạp xiếc người ta gọi là “cú nhảy chết người”. Cháu có nghĩ là bác có hy vọng không?
Tôi nhíu mày.
Cháu không biết. Chúng cháu đã nhận được nhiều lời đề nghị rồi.
Tôi nhận ra là mình nói hơi quá, nhưng ông Zaremba chạm tự ái đứng bật dậy.
Của ai? ông to tiếng.
Cháu thấy kể tên ra thì không được hay lắm.
Ông Zaremba cố gắng lắm mới tự chủ được.
Tất nhiên rồi, bác xin lỗi. Ít nhất thì bác cũng mong được biết ý cháu thế nào? Vì mẹ cháu rất yêu thương cháu, bác hiểu cháu sẽ đóng vai trò ra sao trong quyết định của mẹ cháu.
Tôi nhìn ông vẻ thân thiện.
Mẹ con cháu rất có cảm tình với bác, panie Janie ạ, nhưng tất nhiên bác phải hiểu rằng đó là một quyết định rất quan trọng. Chúng ta không nên thúc bách nhau. Mẹ con cháu sẽ suy nghĩ.
Cháu sẽ nói hộ bác một tiếng chứ?
Lúc nào thích hợp cháu sẽ nói… Cháu tin thế. Bác hãy để hai mẹ con cháu có thời gian suy nghĩ. Hôn nhân là một việc rất quan trọng. Chính xác thì bác bao nhiêu tuổi?
Năm mươi lăm, ôi!…
Cháu chưa đến tuổi mười tám, tôi đáp lại. Cháu không thể để cuộc đời mình lao theo hướng bất ngờ như vậy mà không biết mình đi đâu về đâu. Bác không thể yêu cầu cháu quyết định ngay một việc hệ trọng như thế được.
Bác nhận ra điều đó chứ, ông Zaremba nói. Bác chỉ muốn biết là ý định của bác có được cháu thông cảm tiếp nhận hay không thôi. Sở dĩ bác chưa bao giờ lấy vợ là bởi bác không phải hạng người trốn tránh trách nhiệm đối với gia đình. Cho nên bác phải tự tin ở mình. Bác không tin là cháu sẽ phải hối hận về quyết định của cháu.
Cháu xin hứa là sẽ suy nghĩ, thế nhé.
Ông Zaremba đứng dậy, vẻ nhẹ nhõm hẳn lên.
Mẹ cháu là một người phụ nữ đặc biệt, ông nói. Bác chưa bao giờ được chứng kiến một sự tận tâm tận tụy như thế. Hy vọng cháu sẽ biết cách tìm ra lời lẽ để thuyết phục mẹ. Bác sẽ chờ cháu trả lời.
Tôi quyết định đề cập đến vấn đề này khi mẹ về nhà. Lần nào đi chợ về mẹ cũng rất vui vẻ, sau khi đã làm mưa làm gió ở các quầy hàng và ra oai với các thương gia trong hai giờ liền. Tôi ăn mặc tươm tất, cắt tóc, thắt chiếc cà vạt rất đẹp bằng lụa tơ tằm màu xanh nước biển có đính hình chàng lính ngự lâm bằng bạc do ông họa sĩ tặng, mua một bó hoa hồng đỏ - những “đóa nhung rạng đông” - và ngày hôm sau, vào khoảng mười giờ rưỡi, tôi chờ ở tiền sảnh, bị giày vò bởi trạng thái căng thẳng lo âu mà chỉ mỗi ông Zaremba hiểu được. Lúc ấy, ông đang ngồi chờ dài cổ trong phòng. Tôi biết rõ là kẻ cầu hôn có bộ ria mép xõa xuống này đang tìm kiếm một người mẹ hơn là một người vợ, nhưng ông là một người rất tử tế, ông đối xử với mẹ tôi tôn kính hơn nhiều những gì cuộc sống từng đối xử với bà. Đúng là người ta có thể nghi ngờ tài năng hội họa của ông, nhưng suy cho cùng, một kẻ sáng tạo chân thực duy nhất trong gia đình là đủ lắm rồi.
Mẹ gặp tôi trong phòng khách, lúc ấy tôi đang vụng về ôm bó hoa của mình trong tay. Tôi im lặng trao hoa cho bà: cổ họng như thắt lại. Mẹ vùi mặt vào bó hoa rồi nhìn tôi vẻ trách cứ:
Con không nên thế.
Con muốn nói chuyện với mẹ.
Tôi ra hiệu cho mẹ ngồi xuống. Mẹ ngồi lên chiếc trường kỷ hơi cũ đặt ở cửa.
Mẹ nghe này, tôi nói.
Nhưng tìm ra lời lẽ quả thật không phải dễ.
Con… Ờ… Đó là một người rất tốt, tôi thì thầm.
Thế là đủ. Mẹ hiểu ngay. Bà cầm lấy bó hoa ném mạnh qua tiền sảnh, vẻ khinh bỉ và dứt khoát. Bó hoa đụng vào chiếc lọ làm nó rơi xuống đất vỡ vụn ra như nhận thức được một cách sâu sắc về tấn bi kịch. Lina, cô hầu phòng người Ý hớt hơ hớt hải chạy vào, thấy vẻ mặt mẹ tôi lại hớt hơ hớt hải chạy ra.
Nhưng sao lại như thế! tôi hét lên. Ông ấy có một ngôi nhà rất đẹp ở Florida!
Mẹ khóc. Tôi cố giữ bình tĩnh, nhưng như thường lệ giữa hai mẹ con tôi, cơn xúc động của mẹ truyền sang tôi rồi lại từ tôi lan sang mẹ, và mỗi lần như vậy sự xúc động đó lại tăng thêm một nấc, như những cảnh trìu mến thương yêu khác. Tôi những muốn hét lên rằng đó là cơ hội cuối cùng của mẹ, rằng mẹ cần một người đàn ông ở bên cạnh, rằng tôi không thể là người đàn ông này bởi sớm muộn tôi cũng sẽ ra đi để mẹ ở lại một mình. Đặc biệt, tôi những muốn nói với mẹ rằng không có gì mà tình yêu thương của tôi lại không thể thực hiện được vì mẹ, chỉ trừ một điều, đó là chối từ cuộc sống đàn ông của tôi, chối từ quyền có được cuộc sống ấy theo cách tôi muốn. Nhưng niềm xúc động cũng như những suy nghĩ mâu thuẫn càng thúc bách trong đầu tôi thì tôi càng nhận ra rằng mình đang cố gắng thoát khỏi mẹ, thoát khỏi tình thương yêu tràn ngập của mẹ, thoát khỏi những âu yếm của mẹ đang đè nặng lên tôi. Lúc nào tôi cũng có quyền nổi dậy và đấu tranh cho độc lập của mình nhưng lại không biết đâu là sự kết thúc của quyền tự vệ chính đáng và đâu là khởi đầu của sự tàn nhẫn.
Mẹ nghe con nói này, bây giờ con không thể giúp gì được mẹ. Ông ấy thì có thể.
Mẹ không hề có ý định nhận một đứa con nuôi tuổi ngũ tuần!
Đó là một người rất lịch sự, tôi hét lên. Ông ấy có phong thái tuyệt vời. Ông ấy lại ăn mặc theo kiểu London! Ông ấy…
Và đó chính là lúc tôi phạm phải sai lầm tệ hại nhất và cũng là sai lầm cuối cùng. Không bao giờ tôi hiểu nổi vì sao mười bảy tuổi mà mình lại tỏ ra thiếu hiểu biết về phụ nữ như thế.
Ông ấy tôn trọng mẹ, và mãi mãi tôn trọng mẹ, ông ấy sẽ cư xử với mẹ như một phu nhân quyền quý…
Mẹ tôi đầm đìa nước mắt rồi sau đó mỉm cười. Bà từ từ đứng dậy.
Mẹ cảm ơn con, mẹ nói. Mẹ biết là mẹ đã già. Mẹ biết trong đời mẹ có những thứ mãi mãi mất đi. Chỉ có điều, Romouchka ạ, từng có một lần, duy nhất một lần thôi, mẹ yêu si mê một người. Cách đây đã lâu rồi và bây giờ mẹ vẫn còn yêu người đó. Ông ấy không tôn trọng mẹ cũng chưa bao giờ đối xử với mẹ như một trang nam tử. Nhưng đó là một người đàn ông chứ không phải một cậu bé. Mẹ là phụ nữ, tất nhiên đã già nhưng mẹ nhớ. Còn về ông họa sĩ xấu xa này… Mẹ có một người con trai và mẹ chỉ cần có thế. Mẹ không nhận ai khác làm con nuôi. Quỷ tha ma bắt ông ấy đi!
Hai mẹ con tôi im lặng hồi lâu, rất lâu. Mẹ nhìn tôi mỉm cười. Mẹ biết trong đầu tôi nghĩ gì. Mẹ biết tôi ước ao được giải thoát.
Nhưng không có sự giải thoát cho tôi. Tôi mãi mãi là tù nhân của ký ức. Tù nhân của một người phụ nữ có một không hai…
#
Tôi chỉ còn việc báo cho kẻ cầu hôn của chúng tôi về sự chối từ đó. Việc này không phải dễ. Nếu như việc báo cho một người đàn ông là một người đàn bà không thích ông ta đã khó khăn thì việc báo cho một cậu con trai rằng nó đã mất cơ hội cuối cùng để tìm được một người mẹ còn gay go hơn. Tôi ở trong phòng, ngồi lì trên giường rầu rầu nhìn tường nhà trong một giờ đồng hồ.
Tôi luôn luôn cảm thấy ghê sợ không sao chịu nổi khi làm người khác đau lòng, có thể đây là dấu hiệu yếu đuối và thiếu cá tính của tôi. Tôi biết rằng, trong khi mình sốt ruột chờ đợi và tìm kiếm cách tốt nhất để khéo léo báo tin dữ cho ông bạn của tôi thì ông lại lo lắng đợi tôi trong phòng. Cuối cùng, tôi tìm ra một cách có vẻ tế nhị và hùng hồn. Tôi mở tủ. Rồi tôi lấy ra cái áo choàng và chiếc cà vạt có thêu hình chàng lính ngự lâm, cái máy ảnh Kodak, bộ pyjama, cây bút và các “vật bảo lãnh” khác mà tôi đã nhận của người bố dượng tương lai. Tôi tháo đồng hồ ra khỏi tay. Rồi tôi lên thang máy. Tôi gõ cửa và được mời vào. Ông Zaremba đang ngồi chờ tôi. Da ông vàng vọt và nom ông có vẻ già đi trông thấy. Ông không hỏi câu gì. Ông chỉ đau đớn nhìn tôi để lên giường từng đồ vật một. Sau đó, chúng tôi im lặng, rồi chia tay nhau mà không nói một lời.
Ông đáp tàu đi Vintimille ngay sáng sớm hôm sau mà không từ biệt tôi. Ông để lại phía sau mình, sắp xếp rất cẩn thận trên giường, những món quà mà tôi đã mang đến trả, tất nhiên trong đó có chiếc cà vạt thêu hình chàng lính ngự lâm. Tôi còn giữ chiếc cà vạt này đâu đó nhưng không bao giờ đeo. Chàng d’Artagnan trong tôi đã hết thời rồi.
Thỉnh thoảng tôi có nhớ đến ông Zaremba khi nhìn mình trong gương. Tôi thấy tôi giống ông ấy, điều này không phải là không làm tôi buồn phiền chút ít, bởi vì cuối cùng thì bây giờ tôi vẫn kém ông vào thời đó vài tuổi, khi ấy ông đã là một người đang già đi.