CHƯƠNG XXIII
TÔI ĐĂNG KÝ VÀO ĐẠI HỌC LUẬT Aix-en-Provence và rời thành phố Nice tháng Mười năm 1933. Từ Nice đến Aix mất năm tiếng đi xe ca. Đó là một cuộc chia ly tan nát cõi lòng. Tôi cố sức tỏ thái độ đàn ông và hơi mỉa mai trước mắt hành khách, còn mẹ tôi, lưng bỗng còng xuống và người như bỗng nhỏ đi một nửa, đứng đó, mắt nhìn vào mặt tôi, miệng há hốc vẻ đau đớn, khó hiểu. Khi chiếc xe ca rung lên, mẹ đi vài bước rồi dừng lại òa khóc. Giờ tôi hãy còn nhớ bó hoa tím mẹ cầm trên tay mà tôi đã tặng mẹ. Tôi đứng sững người, hóa tượng, tôi cố gắng được như vậy là nhờ trong xe có một cô gái rất xinh đang nhìn tôi. Lúc nào tôi cũng cần khán giả để nỗ lực hết mình. Tôi làm quen với cô gái đó trong chuyến đi: cô làm nghề bán thịt ở Aix; cô thú nhận là cô đã suýt khóc khi thấy cảnh hai mẹ con tôi chia tay nhau, và một lần nữa, tôi nghe thấy điệp khúc mà tôi bắt đầu thuộc lòng: “Có thể nói là mẹ anh thực sự thương anh”, cô gái vừa nói câu này vừa thở dài, vừa nhìn mơ màng, với một chút hiếu kỳ nào đó.
Tôi thuê phòng ở Aix, phố Roux-Alphéran, với giá sáu mươi quan mỗi tháng. Vào thời ấy, mẹ tôi kiếm được năm trăm quan mỗi tháng; một trăm quan để mua insulin và chăm sóc sức khỏe, một trăm quan mua thuốc lá và chi tiêu lặt vặt, số còn lại thì dành cho tôi. Ngoài ra còn có cái mà mẹ tế nhị gọi là “thu xếp” nữa. Gần như ngày nào cũng thế, chiếc xe ca chạy từ Nice chuyển cho tôi đồ ăn mà mẹ trích ra từ đồ dự trữ của Khách sạn-Nhà hàng Mermonts, và dần dà, mái hiên bao quanh cửa sổ căn phòng áp mái của tôi bắt đầu giống một quầy hàng ở chợ Buffa. Gió đưa đẩy những chùm xúc xích, còn những quả trứng thì xếp hàng kín máng nước khiến lũ bồ câu cũng phải ngạc nhiên; pho mát gồng mình dưới mưa, giăm bông, đùi cừu, thịt quay tạo nên hiệu ứng tĩnh vật trên mái ngói. Không bao giờ có thứ gì bị lãng quên: dưa chuột muối, mù tạc ngải thơm, khalva Hy Lạp, chà là, vả, cam, hồ đào, đôi khi bà con bán hàng ở chợ Buffa còn thêm đồ ăn vào tùy theo cảm hứng của từng người: pizza pho mát và cá trồng của ông Pantaleoni; “ánh tỏi” nổi tiếng của ông Peppi, một đặc sản tuyệt ngon được trình bày dưới dạng một vỏ bánh đơn giản, bỏ vào miệng là ta liên tục cảm thấy nhiều vị bất ngờ: pho mát, cá trồng, nấm và kết thúc là vị tỏi đậm đà độc đáo mà tôi chưa từng biết đến - và những miếng thịt bò to tướng mà đích thân ông Jean gửi cho tôi, miếng thịt bò xịn duy nhất có trên mái hiên, khiến món thịt bò hộp Paris nổi tiếng cũng chẳng nhằm nhò gì. Tiếng tăm cái tủ đựng thức ăn của tôi nổi như cồn ở đại lộ Mirabeau và nhờ vậy tôi kết thêm được nhiều bạn: một nhà thơ-nghệ sĩ ghi ta tên là Sainthomme, một sinh viên-nhà văn người Đức, người có tham vọng ở đất Bắc mà có thể làm cho đất Nam phì nhiêu hay ngược lại gì đó mà tôi không nhớ nữa, hai sinh viên cùng theo học môn triết của giáo sư Segond - và tất nhiên, cô hàng thịt của tôi nữa, tôi đã gặp lại cô vào năm 1952, khi ấy là mẹ của chín đứa con, điều này chứng tỏ Thượng đế đã để ý đến tôi, bởi tôi chưa bao giờ có phiền hà gì với cô ấy. Có thời gian rảnh là tôi đến tiệm cà phê Deux Garçons, nơi tôi đã viết một cuốn tiểu thuyết dưới những tán tiêu huyền ở đại lộ Mirabeau. Mẹ thường gửi thư cho tôi, những lá thư ngắn ngủi, lời lẽ đầy cảm xúc, động viên khích lệ tôi phải kiên trì, dũng cảm; những lá thư đó giống như lời tuyên bố của các vị tướng với đạo quân của mình trước ngày bại trận, những lời tuyên bố rung động lòng người vì các hứa hẹn thắng lợi và vinh quang, năm 1940, khi thấy trên tường người ta viết câu nổi tiếng của chính phủ Reynaud: “Chúng ta sẽ chiến thắng, bởi vì chúng ta mạnh nhất”, tôi nghĩ đến vị tổng tư lệnh của tôi với đôi chút mỉa mai. Tôi thường tưởng tượng mẹ tôi thức dậy lúc sáu giờ sáng, hút điếu thuốc đầu tiên, đun nước sôi để tiêm, cắm xi lanh insulin vào đùi như tôi từng thấy rất nhiều lần, rồi cầm bút chì nguệch ngoạc viết nhật lệnh cho tôi và bỏ vào hộp thư trước khi chạy đi chợ. “Can đảm lên con trai của mẹ, con sẽ về nhà, đầu đội vòng nguyệt quế…” Đúng thế, đơn giản thế đó, mẹ luôn tìm ra những sáo ngữ xưa cũ nhất, ngây thơ nhất của nhân loại. Tôi nghĩ mẹ cần những lá thư này, mẹ viết ra chúng để tự thuyết phục mình, tự động viên khích lệ mình hơn là dành cho tôi. Mẹ cũng van xin tôi đừng đấu tay đôi, vì mẹ luôn bị ám ảnh bởi cái chết của Pouchkine và của Lermont trên đồng nội, và vì mẹ thấy tài văn chương của tôi ít nhất cũng sánh ngang tài văn chương của họ, mẹ sợ tôi là kẻ thứ ba, nếu tôi có thể nói như thế. Tôi không lơ là công việc văn chương của mình, ngược lại là đằng khác. Tôi đã nhanh chóng kết thúc một cuốn tiểu thuyết mới rồi gửi cho các nhà xuất bản, và lần đầu tiên, một trong số các nhà xuất bản ấy, Robert Denoël, đã hạ cố quan tâm và đích thân trả lời tôi. Giám đốc nhà xuất bản này viết cho tôi rằng ông nghĩ tôi nên nắm được nhận xét của một trong số các độc giả. Hẳn là sau khi đọc lướt qua một vài trang tiểu thuyết của tôi, ông ta đã đưa nó cho một bác sĩ phân tâm học có tiếng, cụ thể là công nương Marie Bonaparte, và bây giờ ông giao lại cho tôi công trình nghiên cứu dài hai mươi trang về tác giả cuốn Rượu vang của những kẻ đã chết. Rõ ràng rồi. Tôi bị chứng mặc cảm bị thiến, mặc cảm phân, có triệu chứng loạn dâm tử thi và nhiều tật khác nữa mà tôi không biết, trừ mặc cảm Oepide, tôi cũng không biết tại sao. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy mình đã “trở thành ai đó” và rốt cuộc tôi cũng bắt đầu chứng minh được những hy vọng và niềm tin mẹ tôi đặt nơi tôi.
Mặc dù cuốn sách của tôi đã bị nhà xuất bản từ chối nhưng tôi vẫn cảm thấy rất hãnh diện với tập tài liệu trong đó người ta nghiên cứu tôi dưới góc độ phân tâm học và không kiềm chế được mình, tôi có những dáng vẻ và thái độ dường như từ đó trở đi rất được mong đợi nơi tôi. Tôi khoe tập tài liệu với tất cả mọi người và bạn bè tôi rất ấn tượng, nhất là với mặc cảm phân của tôi. Vì mặc cảm này minh chứng cho một tâm hồn u tối và day dứt, họ thấy đó giống như đỉnh cao của sự trang nhã. Ở tiệm cà phê Deux Garçons, tôi nghiễm nhiên trở thành nhân vật quan trọng và có thể nói rằng, đó là lần đầu tiên, ánh sáng của thành công lướt qua bờ trán trẻ trung của tôi. Chỉ có cô bạn bán thịt là phản ứng một cách bất ngờ khi đọc tài liệu đó. Cô ấy chưa bao giờ nghi ngờ khía cạnh quỷ quái, siêu phàm trong con người tôi, nhưng khi được tiết lộ cho thiên hạ, bỗng nhiên nó thúc đẩy cô ấy biểu hiện một sự đòi hỏi vượt rất xa khả năng của tôi, dù khả năng này có quỷ quái hay không; cô còn cay đắng cho tôi là một người tàn bạo, trong khi tôi, vốn rất thanh bạch và khá mộc mạc, lại tỏ ra ngạc nhiên trước những gợi ý của cô. Nói chung tôi sợ không xứng tầm với danh tiếng của mình. Mặc dù thế, tôi vẫn bắt đầu rèn giũa mình thành một kiểu người tàn bạo, theo những suy nghĩ của tôi về một người có triệu chứng loạn dâm tử thi hay mặc cảm bị thiến; không bao giờ tôi xuất hiện trước công chúng mà tay không lăm lăm một cái kéo nhỏ, vẻ mặt bực tức; và khi người ta hỏi tôi cầm kéo làm gì thì tôi nói: “Tôi không biết, tôi không thể kiềm chế được”, thế là bạn bè tôi im lặng nhìn nhau. Ở đại lộ Mirabeau, tôi cũng có một kiểu nhếch mép rất đạt và đã nổi danh khắp Đại học Luật như một đệ tử của Freud, tuy tôi không nói gì về Freud nhưng tôi luôn cầm trên tay một cuốn sách của ông. Tự tay tôi đánh bản báo cáo thành hai mươi bản và hào phóng phân phát cho các cô gái trẻ ở Đại học; tôi gửi cho mẹ tôi hai bản, phản ứng của mẹ cũng giống hệt như phản ứng của tôi: cuối cùng thì tôi cũng trở nên nổi tiếng, tôi được đánh giá là xứng đáng với một công trình hai mươi trang, lại do một công nương viết nữa chứ. Mẹ cho khách ở Khách sạn-Nhà nghỉ Mermonts xem tài liệu này rồi sau năm học luật đầu tiên, tôi về Nice và được đón tiếp rất nồng hậu và có một kỳ nghỉ thật dễ chịu. Điều duy nhất làm mẹ hơi lo là mặc cảm bị thiến, bởi mẹ sợ tôi đau.
Khách sạn-Nhà nghỉ Mermonts làm ăn khấm khá và mẹ kiếm được gần bảy trăm quan mỗi tháng, thế nên bà quyết định rằng tôi sẽ phải học nốt những năm còn lại ở Paris để gây dựng quan hệ. Tại đó mẹ quen một ông đại tá về hưu, một quan chức thuộc địa đã bị đào thải và một phó lãnh sự Pháp tại Trung Quốc, ông này nghiện thuốc phiện và đã đến cai nghiện ở Nice. Tất cả họ đều tỏ ra quan tâm đến tôi, mẹ cảm thấy rằng cuối cùng chúng tôi cũng có cơ sở vững chắc để bước vào đời, rằng tương lai của chúng tôi đã được bảo đảm. Thế nhưng bệnh tiểu đường của mẹ càng ngày càng nghiêm trọng, và các liều insulin càng ngày càng cao vì thế nên mẹ hay bị hạ đường huyết. Nhiều lần từ chợ về mẹ bị ngã bất tỉnh ngay giữa đường vì insulin. Dù vậy, mẹ vẫn tìm được cách khá đơn giản để tạm thời giải quyết mối nguy này, vì bị ngất do hạ đường huyết nếu không chẩn đoán và điều trị kịp thời thì có thể dẫn đến cái chết. Thế là mẹ phòng ngừa bằng cách không bao giờ ra khỏi nhà mà không đính vào áo choàng của mình câu sau: “Tôi bị tiểu đường. Nếu ai thấy tôi bị ngất thì làm ơn cho tôi uống những túi đường để trong túi xách. Cảm ơn.” Đó là một ý tưởng tuyệt vời, nhờ nó mà chúng tôi không phải lo lắng nhiều và nhờ nó mà sáng nào mẹ cũng có thể tự tin chống gậy ra khỏi nhà. Thỉnh thoảng nhìn mẹ rời nhà đi ra phố, tôi cảm thấy lo sợ kinh khủng, cảm thấy bất lực, xấu hổ, kinh hoảng, trán toát mồ hôi. Có một lần, tôi rụt rè gợi ý là tôi nên nghỉ học, tìm việc làm và kiếm tiền. Mẹ không nói gì, nhìn tôi vẻ trách cứ rồi khóc òa lên. Tôi không bao giờ nhắc đến điều đó nữa.
Tôi chỉ nghe mẹ phàn nàn thực sự về chiếc cầu thang xoắn ốc nối nhà hàng với bếp mà bà phải lên xuống hai mươi lần mỗi ngày. Mặc dù thế, mẹ cho tôi hay là bác sĩ đã bảo tim của mẹ “tốt”, không phải lo lắng gì.
Hồi ấy tôi đã mười chín tuổi. Nhưng tôi vẫn chưa có được tâm hồn của kẻ chinh phục phụ nữ. Tôi rất khổ tâm. Cái cảm giác đầy ám ảnh là nam tính trong mình ngày càng giảm sút giằng xé tôi, tôi cố gắng chống chọi cảm giác này như tất cả những người đàn ông trước tôi, những người muốn yên tâm về nam tính của mình. Nhưng chưa hết. Tôi còn sống nhờ vào công việc của mẹ, sức khỏe của mẹ. Hai năm là khoảng cách ít nhất giữa thời điểm đó và thời điểm mà cuối cùng tôi cũng bắt đầu thực hiện lời hứa của mình, trở về nhà với lon thiếu úy, mang về cho mẹ vinh quang đầu đời. Tôi không có quyền lảng tránh hay chối từ sự giúp đỡ của mẹ. Lòng tự ái của tôi, nam tính của tôi, phẩm cách của tôi nhằm nhò gì đâu. Viễn cảnh tương lai của tôi chính là điều giúp mẹ tiếp tục sống. Tôi không thể phẫn nộ hay ra vẻ khó tính. Điệu đà và nhăn nhó, bẽn lẽn sợ sệt hay những cú hất hàm điệu nghệ hãy để sau. Cũng hãy để sau cả những kết luận triết học và chính trị, những bài học được rút ra và những giá trị đạo đức, bởi vì tôi biết rõ là biểu hiện nhẫn tâm, vốn ngấm trong xương trong thịt trong máu tôi từ thuở ấu thơ đã bắt tôi phải đấu tranh vì một thế giới không có người bị bỏ rơi. Trong khi chờ đợi, tôi phải ngậm đắng nuốt cay để tiếp tục chạy đua với thời gian, để cố giữ lời hứa của mình và để cho một ước mơ phi lý và đầy tình thương yêu có lý do để sống.
Tôi còn hai năm học ở trường luật nữa, sau đó là hai năm nghĩa vụ quân sự, sau đó là… Mỗi ngày tôi viết văn mười một tiếng đồng hồ.
Có một lần, ông Pantaleoni và ông Bucci đưa mẹ tôi từ chợ về bằng taxi, mặt mẹ xám ngắt, tóc bù xù, nhưng môi đã ngậm thuốc lá và miệng đã nở nụ cười trấn an tôi.
Tôi không cảm thấy mình có tội. Nhưng nếu tất cả các cuốn sách của tôi đều tràn ngập những lời kêu gọi phẩm cách, công lý, nếu tôi có nói nhiều và nói mạnh về danh dự làm người trong những cuốn sách đó, thì có thể là bởi cho đến năm hai mươi hai tuổi, tôi vẫn sống nhờ vào công sức của một người phụ nữ già nua và làm việc quá sức. Tôi giận mẹ tôi rất nhiều.