← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XXIV

Một sự kiện bất ngờ đã xáo trộn cả mùa hè. Một buổi sáng đẹp trời, một chiếc taxi dừng trước Khách sạn-Nhà nghỉ Mermonts và người xuống xe là cô bé bán thịt của tôi. Cô đến chỗ mẹ tôi khóc lóc, nức nở, dọa tự tử rồi dọa tự thiêu. Mẹ hết sức hả dạ; đó là tất cả những gì bà mong chờ ở tôi. Cuối cùng tôi cũng trở thành một người thuộc giới thượng lưu. Ngay hôm đó, cả chợ Buffa biết chuyện. Còn quan điểm của cô bé bán thịt của tôi rất đơn giản: tôi phải lấy cô. Cô đòi nợ với một trong những lý lẽ kỳ lạ nhất mà tôi từng nghe thấy, kiểu gái chửa hoang bị bỏ rơi:

– Anh ấy đã cho cháu đọc Proust, Tolstoi và Dostoievski, cô gái khốn khổ tuyên bố với ánh mắt đau xé ruột gan. Giờ cháu sẽ ra sao đây?

Phải nói rằng mẹ rất ấn tượng trước bằng chứng hiển nhiên về những ý định của tôi và nhìn tôi ra vẻ khổ tâm. Rõ ràng tôi đã đi quá xa. Chính tôi cũng cảm thấy bối rối vì đúng là tôi đã cho Adèle ngốn liên tục tất cả các tác phẩm của Proust, và đối với cô như thế chẳng khác gì cô đã may váy cưới rồi. Lạy Chúa! Tôi còn cho cô học thuộc lòng một số đoạn trong Zarathoustra đã nói như thế, và tất nhiên tôi không thể nào trốn được nữa… Nói đúng ra thì cô ấy chưa mang thai những tác phẩm của tôi, nhưng dù sao những tác phẩm này cũng đã đặt cô ấy vào một trạng thái rất thú vị.

Điều khiến tôi kinh hãi là tôi cảm thấy mẹ mềm yếu đi. Bỗng nhiên mẹ dịu dàng với Adèle một cách kỳ lạ và giữa hai người bạn mới quen đó bỗng nảy sinh một tình đoàn kết vốn chỉ tồn tại giữa phụ nữ với nhau. Họ nhìn tôi trách cứ. Họ cùng nhau thở dài. Họ thì thầm. Mẹ mời Adèle uống trà, mẹ còn cho cô ấy nếm món mứt dâu mà mẹ tự tay làm, một cử chỉ của lòng độ lượng. Món ngon này tất nhiên mẹ không được ăn, mẹ chỉ mời một số khách đặc biệt, sau đó bảo họ miêu tả cảm giác món ăn đó mang lại. Cô hàng thịt của tôi rất khéo ăn khéo nói. Tôi cảm giác mình toi rồi. Uống trà xong, mẹ kéo tôi vào phòng làm việc.

– Con yêu nó vì tình chứ?

– Không. Con yêu cô ấy, nhưng không phải vì tình.

– Thế sao con lại hứa với nó?

– Con có hứa đâu.

Mẹ nhìn tôi, vẻ trách cứ.

– Proust có bao nhiêu tập sách cả thảy?

– Mẹ nghe này…

Mẹ lắc đầu.

– Như thế là không tốt, mẹ nói. Như thế là không tốt. Bỗng nhiên giọng mẹ run lên rồi bà bật khóc trước sự sững sờ của tôi. Mẹ nhìn tôi bằng vẻ chăm chú quen thuộc, ngắm từng chi tiết trên mặt tôi - bỗng nhiên tôi nhận ra mẹ đang tìm một điểm tương đồng nào đó, tôi gần như sợ mẹ yêu cầu tôi lại gần cửa sổ và ngước mắt lên.

Dù sao thì mẹ cũng không ép tôi cưới cô hàng thịt do vậy tránh cho cô ấy một số mệnh nghiệt ngã, thế nên hai mươi năm sau, khi Adèle hãnh diện giới thiệu tôi với chín người con của cô ấy, tôi không cảm thấy ngạc nhiên trước thái độ biết ơn nồng hậu mà cả gia đình họ dành cho tôi: họ mang ơn tôi trong mọi chuyện. Chồng Adèle đã không nhầm, anh bắt tay tôi rất lâu và dạt dào tình cảm. Tôi nhìn chín gương mặt thiên thần đang ngước về phía mình, cảm thấy xung quanh là sự thoải mái bình yên của tổ ấm ấy, tôi liếc trộm tủ sách, chỉ thấy mỗi cuốn Những cuộc phiêu lưu của các chàng lười, và tôi cảm thấy mình đã có chút thành công nào đó trong đời, cảm thấy mình đã là một người cha tốt, bằng sự vắng mặt của mình.

Đã giáp thu và tôi sắp phải đi Paris. Tám ngày trước khi tôi lên đường đến Babylone, mẹ tôi nổi hứng mộ đạo. Cho tới lúc đó, tôi chưa bao giờ nghe mẹ nói về Chúa trời, mà nếu có thì mẹ chỉ nói với thái độ tôn trọng bình thường, như nói về một người nào đó đã rất thành công trong cuộc sống. Mẹ luôn tôn kính Đấng Sáng tạo, nhưng chỉ là sự tôn kín suông và chung chung như mẹ vẫn thường đối xử với những người có địa vị. Thế nên tôi rất ngạc nhiên khi mẹ mặc áo khoác, cầm gậy rồi bảo tôi đưa bà đến nhà thờ Nga ở Công viên Hoàng gia.

– Nhưng con tưởng chúng ta là người Do Thái?

– Không sao, mẹ biết ông giáo trưởng mà.

Tôi thấy lời giải thích này nghe được. Mẹ tôi tin tưởng vào các mối quan hệ cá nhân, ngay cả trong quan hệ với Đấng Toàn năng.

Thời nhỏ, tôi từng hướng về Chúa nhiều lần, thậm chí tôi đã cải đạo thực sự, dù là tạm thời, khi lần đầu tiên mẹ bị hạ đường huyết và tôi bất lực chứng kiến mẹ hôn mê vì insulin. Nhìn thấy gương mặt nhợt nhạt, mái đầu gục xuống, bàn tay ôm ngực, sự buông xuôi sức lực hoàn toàn trong khi còn bao nhiêu gánh nặng phải cáng đáng, tôi lao ngay vào nhà thờ đầu tiên trên đường và đó là nhà thờ Đức Bà. Tôi lén lút đi nhà thờ vì sợ mẹ thấy trong sự cầu viện trợ giúp từ bên ngoài này dấu hiệu của thái độ thiếu tin tưởng vào mẹ cũng như dấu hiệu cho thấy tình trạng của mẹ trầm trọng như thế nào. Tôi sợ mẹ bỗng tưởng tôi không còn tin mẹ nữa, tưởng tôi trông chờ vào người khác và tưởng khi tôi hướng về một người khác là tôi đang từ bỏ bà. Nhưng rất nhanh, ý nghĩ của tôi về sự vĩ đại thần thánh tỏ ra không thể dung hòa với những gì tôi thấy trên mặt đất, và chính đây mới là nơi tôi muốn thấy gương mặt mẹ nở nụ cười hạnh phúc. Dù vậy, tôi không tài nào chịu nổi hai chữ “vô thần”; tôi thấy hai chữ này ngớ ngẩn, hẹp hòi, bốc mùi bụi bẩn của nhiều thế kỷ, xưa cũ, thiển cận một cách tầm thường và phản động thế nào đó mà tôi không thể xác định, nhưng hai chữ đó quẳng tôi ra khỏi chính mình như những ai tự mãn nghĩ mình đã được giải phóng và có hiểu biết.

– Thôi được. Ta đi nhà thờ Nga ở Công viên Hoàng gia nhé.

Tôi đưa tay cho mẹ. Mẹ bước còn khá nhanh, với dáng đi quả quyết của những người có mục đích sống. Giờ đây mẹ đã phải đeo kính, cặp kính đồi mồi càng khiến đôi mắt xanh của mẹ đẹp hơn. Mắt mẹ rất đẹp. Mặt mẹ đã có nhiều nếp nhăn, vóc dáng mẹ cũng không thẳng như trước nữa. Càng ngày mẹ càng tì mạnh lên cây gậy của mình. Thế mà mẹ chỉ mới năm mươi lăm tuổi. Mẹ còn bị bệnh eczema ở cổ tay. Người ta không có quyền đối xử với con người như vậy. Hồi ấy, tôi từng mơ mình biến thành một cái cây có vỏ rất cứng, hoặc thành một con voi có làn da dày gấp trăm lần làn da tôi. Tôi cũng từng cầm kiếm, đến bây giờ vẫn vậy, ra sân rồi không chào hỏi như thường lệ mà đấu kiếm với từng tia nắng. Tôi vào vị trí, gập người lại, nhảy lên, xông vào, cố gắng đánh trúng, thỉnh thoảng kêu lên: “Này!” - tôi lao về phía trước, tôi tìm kẻ thù, tôi giả vờ, tôi thư giãn một chút như trước đây, trên sân tennis Công viên Hoàng gia, tôi đã từng nhảy điệu vũ tuyệt vọng theo những quả bóng mà mình không bao giờ đánh trúng.

Trong số những người thích đấu kiếm khác, tôi rất khâm phục Malraux. Trên sàn đấu, ông là người tôi ưa thích nhất. Theo tôi, chính nhờ bài thơ về nghệ thuật của Malraux mà ông trở nên nổi tiếng là tác giả-diễn viên của tấn bi kịch của chính ông. Một diễn viên kịch câm, đúng hơn là một diễn viên kịch câm toàn năng: khi một mình tung hứng ba quả bóng trên đỉnh đồi, đối diện với trời cao để chứng tỏ khả năng của mình, tôi nghĩ đến Malraux. Cùng với Chaplin trước đây, ông chắc chắn là diễn viên kịch câm xót xa nhất về thân phận làm người mà thế kỷ này từng chứng kiến. Tư tưởng đớn đau bị sa vào nghệ thuật này, bàn tay chìa ra cho Thượng đế mà chỉ nắm được một bàn tay con người này, trí thông minh tuyệt vời bị buộc phải tự hài lòng với chính mình này, khát vọng được khám phá, được đoán ra, được vượt qua, được trở thành siêu việt nhưng cuối cùng chỉ đạt được sắc đẹp này, tất cả những thứ đó, với tôi, đã là một sự khích lệ thân tình trên sân đấu.

Chúng tôi đi dọc đại lộ Carlone, về phía đại lộ Tzare-vitch. Nhà thờ vắng bóng người nên mẹ tôi có vẻ hài lòng vì trong chừng mực nào đó, bà được nắm độc quyền.

– Chỉ có chúng ta, mẹ nói. Ta không phải chờ.

Mẹ nói như thể Chúa là một vị bác sĩ và chúng tôi may mắn đến vào giờ vắng bệnh nhân. Mẹ làm dấu và tôi cũng làm dấu. Mẹ quỳ trước bàn thờ còn tôi quỳ bên cạnh mẹ. Những giọt nước mắt lăn trên mặt mẹ, môi mẹ run run ấp úng những lời cầu nguyện cổ bằng tiếng Nga, những từ như Yessouss Christoss lặp đi lặp lại nhiều lần. Tôi ngồi bên cạnh mẹ, mắt nhìn xuống. Mẹ đập đập ngực mình, và một lần, không quay về phía tôi, mẹ thì thào:

– Con hãy thề với mẹ là con không bao giờ nhận tiền của phụ nữ!

– Con xin thề.

Mẹ không hề mảy may nghĩ rằng chính mẹ cũng là phụ nữ.

– Lạy Chúa, xin Người hãy giúp con tôi đứng vững, xin Người hãy giúp con tôi đứng thẳng, đừng để con tôi mang bệnh mang tật.

Quay về phía tôi:

– Hãy thề với mẹ là luôn cẩn thận! Hãy hứa với mẹ là sẽ không mắc bệnh gì hết.

– Con hứa với mẹ.

Mẹ còn ở đó một lúc lâu nữa, bà không cầu nguyện mà chỉ khóc. Rồi tôi đỡ mẹ đứng dậy, đi ra phố. Mẹ lau nước mắt và bỗng tỏ ra rất mãn nguyện. Trên mặt mẹ thậm chí còn có nét gì đó giống như cái mẹo hơi trẻ con, khi mẹ quay lại nhìn nhà thờ lần cuối cùng.

– Ai mà biết được, mẹ nói.

Sáng hôm sau, tôi lên xe khách đi Paris. Trước khi đi, tôi phải ngồi một lúc vì người Nga mê tín cho rằng đó là cách xua đuổi những điều không may. Mẹ đưa cho tôi năm trăm quan, bắt tôi phải để trong chiếc túi đeo quanh người, dưới áo sơ mi, chắc là để đề phòng trường hợp kẻ cướp bắt xe khách dừng lại. Tôi tự hứa với mình rằng đó sẽ là món tiền cuối cùng tôi nhận của mẹ, và dù không hoàn toàn giữ lời nhưng khi ấy tôi cũng cảm thấy nhẹ nhõm rất nhiều.

Ở Paris, tôi giam mình trong một gian phòng khách sạn chật chội và chểnh mảng việc học hành tại Đại học Luật, tôi bắt đầu say sưa viết. Giữa trưa, tôi đến phố Mouffetard mua bánh mì, pho mát và tất nhiên là dưa chuột muối. Chẳng bao giờ tôi mang được dưa chuột về nhà trong tình trạng nguyên vẹn: tôi vừa đi trên phố vừa ăn ngấu nghiến. Trong nhiều tuần, đó là nguồn vui duy nhất của tôi. Vậy mà cũng đâu thiếu những cám dỗ. Khi đang dựa lưng vào tường đứng ăn trên phố, nhiều lần mắt tôi hút theo một cô gái có vẻ đẹp lạ thường với đôi mắt huyền và mái tóc nâu, mượt mà có một không hai trong lịch sử mái tóc con người. Cô ấy đi chợ cùng giờ với tôi còn tôi thì có thói quen rình cô bước đi trên phố. Tôi tuyệt đối không mong chờ gì ở cô - thậm chí tôi không thể mời cô đi xem phim là đằng khác - tất cả những gì tôi muốn là có thể vừa ăn dưa chuột vừa thưởng thức cô bằng ánh mắt. Khi nào tôi cũng có nguy cơ đói trước màn trình diễn của sắc đẹp, trước cảnh vật, màu sắc và phụ nữ. Cuối cùng thì cô gái trẻ cũng nhận ra tôi đang nhìn cô với ánh mắt khác lạ, miệng nghiến ngấu những quả dưa chuột muối. Sở thích rau quả vô độ của tôi, tốc độ ngấu nghiến của tôi chắc đã khiến cô khá ấn tượng cho nên mắt nhìn chăm chăm, cô vừa đi qua tôi vừa mỉm cười. Cuối cùng, một ngày đẹp trời nọ, vì tôi quá xuất sắc ngốn hết một quả dưa chuột to tướng, cô đi qua thấy thế không chịu được nữa bèn nói với tôi, giọng có chút gì đó như một sự quan tâm thật lòng:

– Này, cứ như thế thì rốt cuộc anh cũng toi mạng đấy.

Chúng tôi làm quen với nhau. May mà cô gái đầu tiên tôi yêu ở Paris là một người hoàn toàn vô tư. Cô là sinh viên và cùng với chị gái mình là hai người xinh nhất Khu Latin thời ấy. Thanh niên đi xe ô tô đến tán cô rất đều đặn, mãi đến bây giờ, hai mươi năm sau, khi tôi vô tình thấy cô ở Paris, tim tôi vẫn đập thình thịch, thế là tôi ghé vào quầy thực phẩm Nga đầu tiên mình gặp trên đường để mua nửa ký dưa chuột muối.

Một buổi sáng, khi chỉ còn năm mươi quan và việc xin tiền mẹ lại lần nữa trở nên bức thiết thì lúc mở tờ tuần báo Gringoire ra, tôi thấy truyện ngắn Cơn giông của mình chiếm cả một trang, còn tên tôi được in đậm ở những chỗ cần thiết.

Tôi từ từ gấp tờ báo lại rồi về nhà. Tôi chẳng thấy vui vẻ gì, trái lại còn cảm thấy mệt mỏi và buồn bã một cách lạ lùng: tôi vừa chém nhát gươm đầu tiên xuống nước.

Thế nhưng, khó mà miêu tả được cảm giác của mọi người ở chợ Buffa khi truyện ngắn được in. Cả phường cả hội tổ chức uống mừng mẹ tôi, người ta đọc cả diễn văn bằng giọng miền Nam. Mẹ bỏ tờ báo vào túi xách để rồi không bao giờ rời xa nó nữa. Chỉ hơi xích mích với ai đó là mẹ rút tờ báo, giở ra, ấn trang có tên tôi vào mặt đối thủ rồi nói:

– Hãy nhớ là ông đang hân hạnh được nói chuyện với ai nhé! Nói xong, mẹ ngẩng cao đầu, hãnh diện rời đấu trường, trước ánh mắt sửng sốt của những người có mặt.

Tôi được trả một nghìn quan cho truyện ngắn đó và lần này thì tôi thực sự cuống lên. Chưa bao giờ tôi thấy một khoản tiền như vậy và bỗng trở nên cực đoan như người mà tôi biết rất rõ, tôi cảm thấy mình được an thân cho đến hết đời. Việc đầu tiên tôi làm là đến quán bia Balzar thưởng thức hai suất dưa bắp cải và thịt bò hầm đậm muối. Tôi vẫn luôn là một kẻ phàm ăn và càng cố giảm thì tôi lại càng ăn nhiều. Tôi thuê phòng ở quận năm có cửa sổ hướng ra mặt phố, tại đó tôi viết cho mẹ một lá thư rất nhẹ nhàng, trong thư ấy tôi giải thích là từ giờ tôi đã ký hợp đồng thương xuyên với Gringoire và một số tạp chí khác, nếu mẹ cần tiền thì chỉ cần cho tôi biết. Tôi gửi cho mẹ một lọ nước hoa rất lớn cùng một bó hoa qua đường bưu điện. Tôi tự mua cho mình một hộp xì gà và một chiếc áo vest thể thao. Xì gà khiến tôi đau tim nhưng lại giúp tôi quyết tâm sống tốt nên tôi hút đến tận điếu cuối cùng. Xong đâu đấy, tôi viết ba truyện ngắn liền, cả ba truyện ngắn này sau đó đã bị trả lại, không những Gringoire mà tất cả các tuần báo Paris khác. Trong thời gian sáu tháng, không có tác phẩm nào của tôi được ra mắt công chúng. Chúng bị đánh giá là quá “văn chương”. Tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra với mình. Từ đó, tôi đã ngộ ra. Được thành công đầu tiên khích lệ, tôi thả mình theo nhu cầu giày vò tâm can là bắt được quả bóng cuối cùng bằng mọi giá, là giải quyết đến tận cùng vấn đề chỉ bằng một nét bút, và vì vấn đề không có điểm tận cùng và vì dù sao tay tôi cũng không đủ dài, nên một lần nữa, tôi lại rơi vào tình cảnh một thằng hề nhảy tưng tưng trên sân tennis ở Công viên Hoàng gia, cuộc trình diễn của tôi có bi hài đến mấy cũng chỉ có thể làm công chúng ngao ngán vì nó bất lực trong việc chế ngự cái mà chính bản thân tôi cũng không nắm bắt nổi, thay vì trấn an công chúng bằng sự thoải mái và bằng khả năng làm chủ của những tay chuyên nghiệp, những người biết cách làm chủ phần nào các khả năng của mình. Tôi đã phải mất nhiều thời gian mới chấp nhận được chuyện độc giả có một số quyền và như ở Khách sạn-Nhà nghỉ Mermonts, cần phải cho anh ta biết số phòng, đưa cho anh ta chìa khóa, dẫn anh ta lên tầng để chỉ cho anh ta đèn đóm và các vật dụng cần thiết ở đâu.

Tôi sớm bị lâm vào cảnh thiếu thốn vật chất một cách tuyệt vọng. Không những tiền của tôi đã bốc hơi với tốc độ khó tin, mà tôi còn luôn nhận được những lá thư của mẹ, những lá thư đầy tự hào và biết ơn. Mẹ yêu cầu tôi thông báo trước cho bà ngày xuất bản các kiệt tác tương lai của tôi để bà khoe với cả khu phố.

Tôi không lòng dạ nào thú nhận nổi với mẹ sự thất vọng của mình.

Tôi phải dùng đến một cái mẹo rất khéo mà đến giờ tôi vẫn rất lấy làm tự hào.

Tôi viết cho mẹ một lá thư giải thích rằng chủ bút của các tờ báo yêu cầu tôi viết những truyện ngắn đáp ứng thị hiếu thị trường một cách hết sức hèn hạ, rằng tôi phải từ chối làm bẩn danh tiếng văn chương của mình và không ký thẳng tên mình dưới những truyện ngắn đó. Thế nên tôi tâm sự với mẹ rằng với những tác phẩm hạ cấp này, tôi sẽ ký bằng các bút danh khác nhau - đồng thời tôi cũng xin mẹ đừng tiết lộ mưu mẹo của tôi để không làm buồn lòng bạn bè tôi, các giáo viên trường trung học Nice của tôi, tóm lại là tất cả những ai kỳ vọng vào tài năng và đức tính chính trực trong con người tôi.

Sau đó, tuần nào tôi cũng thản nhiên cắt các tác phẩm của đồng nghiệp đã được in trên những tờ tuần báo Paris rồi gửi cho mẹ, trong cảm giác lương tâm thanh thản và hoàn thành nghĩa vụ.

Giải pháp này giải quyết được vấn đề đạo đức, nhưng vấn đề vật chất vẫn nguyên đó. Tôi không còn tiền để trả tiền nhà và nhiều ngày tôi không có gì ăn. Tôi thà chết đói còn hơn là tước đoạt của mẹ những ảo tưởng chiến thắng.

Mỗi lần nhớ đến thời kỳ ấy, đầu óc tôi lại hiện ra khung cảnh một buổi tối đặc biệt u buồn. Từ hôm trước đó, tôi đã không ăn gì rồi. Thời ấy tôi hay đi thăm một người bạn đang sống cùng bố mẹ ở gần ga tàu điện ngầm Lecourbe, tôi để ý là nếu tính toán đúng thời điểm tới nhà anh ấy thì thể nào cũng được mời ở lại ăn tối.

Bụng đói meo, tôi quyết định đi thăm họ. Thậm chí tôi còn mang theo một bản thảo để cho ông bà Bondy đọc, trong lòng cảm thấy rất có thiện cảm với họ. Tôi đói bụng khủng khiếp nên ước lượng thời gian thật cẩn thận để đến đúng lúc ăn món canh. Mới tới quảng trường Contrescarpe, chỗ mà từ đó tôi phải đi bộ bốn mươi lăm phút nữa mới đến phố Lecourbe - tôi làm gì có tiền đi tàu điện ngầm - tôi đã ngửi thấy mùi vị thơm ngon của món canh khoai tây nấu với tỏi tây rồi. Tôi nuốt nước bọt, mắt tôi có lẽ ánh lên vẻ dâm dục điên rồ vì những phụ nữ đi một mình nhìn thấy tôi đều lặng lẽ tránh ra rồi rảo bước. Tôi gần như chắc là sẽ có cả món xúc xích Hungary và bánh sô cô la nữa, vẫn luôn như thế mà. Tôi tin rằng chưa bao giờ mình đi gặp người yêu mà trong lòng lại hồ hởi hơn.

Khi tôi đến nơi, lòng ngập tràn tình bằng hữu thì không ai trả lời hồi chuông tôi bấm: bạn bè tôi đã đi khỏi cả rồi.

Tôi ngồi ở cầu thang rồi chờ một tiếng, hai tiếng. Nhưng vào khoảng mười một giờ, ý thức tối thiểu về phẩm cách - bất cứ ai cũng luôn có ý thức này đâu đó - đã ngăn tôi chờ họ về đến tận nửa đêm, để xin ăn.

Tôi đứng dậy rồi quay về phố Vaugirard chết tiệt, lòng cảm thấy bất mãn, sự bất mãn mà bất cứ người nào cũng có thể hình dung ra.

Và đó là lúc cuộc đời quán quân của tôi đạt tới đỉnh cao khác.

Đến vườn Luxembourg, tôi đi qua quán bia Médicis. Run rủi thế nào mà vào giờ muộn thế này, qua tấm rèm cửa bằng vải tuyn trắng tôi lại thấy một nhà tư sản trung hậu đang ăn món bít tết táo hấp.

Tôi dừng bước, liếc nhìn món bít tết táo hấp một cái rồi ngất xỉu.

Không phải tôi ngất vì đói. Đúng là hôm trước đó tôi không ăn gì, nhưng thời ấy tôi bền sức lắm, thường hai ngày không ăn mà vẫn chẳng thoái thác bất cứ việc gì.

Tôi đã bất tỉnh vì giận, vì phẫn nộ và nhục nhã. Tôi không chấp nhận nổi chuyện một con người lại có thể sa vào tình cảnh như thế, đến giờ vẫn không chấp nhận nổi. Tôi đánh giá các chế độ chính trị theo lượng thức ăn mà các chế độ này mang lại cho mỗi người, và khi họ buộc vào đó một sợi dây nào đấy, khi họ đặt vào đó các điều kiện thì họ chỉ gây cho tôi cảm giác buồn nôn: con người có quyền được ăn vô điều kiện.

Cổ họng tôi thắt lại vì điên tiết, tay co lại thành nắm đấm, mắt tối dần rồi tôi ngã sõng soài trên vỉa hè. Chắc hẳn tôi đã nằm đó một lúc lâu vì khi mở mắt ra thì tôi thấy nhiều người đang vây quanh. Lúc ấy tôi ăn mặc chỉnh tề, tay thậm chí còn đeo găng, may mà không ai nghi ngờ về lý do làm tôi bất tỉnh. Người ta đã gọi xe cứu thương cho tôi, tôi rất muốn để mặc người ta làm gì thì làm: tôi chắc chắn rằng ở bệnh viện, tôi sẽ có gì đó để lót dạ bằng cách này hay cách khác. Nhưng tôi không để mặc một cách dễ dãi như thế. Xin lỗi vài câu, tôi thoát khỏi sự chú ý của đám đông rồi về nhà. Thật lạ là tôi không còn thấy đói. Cú sốc nhục nhã và cơn bất tỉnh đã khiến cái dạ dày của tôi không còn là đối tượng nổi bật nữa. Tôi bật đèn, cầm bút rồi bắt đầu viết truyện ngắn mang tiêu đề Người đàn bà nhỏ bé mà Gringoire cho in vài tuần sau đó.

Tôi cũng tự vấn lương tâm. Tôi phát hiện ra mình luôn tỏ vẻ quá quan trọng và thiếu đức tính nhún nhường cùng khiếu hài hước. Tôi cũng thiếu tin tưởng ở đồng loại và đã không cố gắng khám phá đầy đủ những khả năng có thể tồn tại trong bản chất con người, thứ bản chất dù sao cũng không thể hoàn toàn thiếu tính độ lượng. Ngay sáng hôm sau, tôi đã thử làm một việc và những quan điểm lạc quan của tôi được khẳng định hoàn toàn. Tôi bắt đầu bằng việc mượn anh chàng phục vụ một quan, lấy cớ đã mất ví tiền. Sau đó, tôi đến quán Capoulade gọi một tách cà phê, thọc tay vào giỏ bánh sừng bò. Tôi ăn bảy cái. Tôi gọi thêm một tách cà phê nữa. Rồi tôi nghiêm trang nhìn vào mắt anh hầu bàn - anh chàng tội nghiệp đó không ngờ rằng cả nhân loại đang soi xét con người anh ta.

– Hết bao nhiêu tiền?

– Mấy cái bánh?

– Một, tôi nói.

Anh hầu bàn nhìn giỏ bánh đã vơi gần hết. Rồi anh ta nhìn tôi. Rồi anh ta lại nhìn giỏ bánh. Rồi anh ta lắc đầu.

– Khỉ thật, anh ta nói. Cậu đang đùa thì có.

– Có thể là hai cũng nên, tôi nói.

– Được, được rồi, thế là hiểu rồi, anh hầu bàn nói. Không chậm hiểu đâu. Hai cà phê, một cái bánh, cậu phải trả bảy mươi lăm xu.

Ra khỏi quán, tôi hoàn toàn thay đổi. Có gì đó reo lên trong lòng tôi: có thể là bánh sừng bò cũng nên. Từ hôm đó, tôi trở thành vị khách trung thành nhất của quán Capoulade. Thỉnh thoảng anh chàng Jules khốn khổ, đó cũng là tên của người Pháp vĩ đại ấy, la lên rụt rè, không được tự tin cho lắm.

– Cậu không thể đi chỗ khác nhậu à? Cậu sẽ làm ông chủ chửi tôi đấy.

– Tôi không thể, tôi nói với anh ta. Cậu là cha là mẹ tôi.

Thỉnh thoảng anh ta lao vào những bài toán số học mập mờ, tôi thì lơ đãng nghe.

– Hai cái bánh à? Cậu dám nhìn vào mắt tôi mà nói câu đó không? Cách đây ba phút trong giỏ còn những chín cái kia mà.

Tôi lạnh lùng đón nhận câu nói đó.

– Kẻ cắp thì đâu chả có, tôi nói.

– Mẹ kiếp! Jules thán phục nói. Cậu cả gan thật đấy.

Thế đúng ra là cậu học gì?

– Luật. Tôi sắp tốt nghiệp cử nhân luật.

– Thế à, thằng đểu! Jules nói.

Chúng tôi trở thành bạn bè. Khi truyện ngắn thứ hai của tôi xuất hiện trên báo Gringoire, tôi đề tặng cậu ta một tờ.

Tính từ năm 1936 đến năm 1937, tôi ăn hết từ một nghìn đến một nghìn năm trăm cái bánh sừng bò ở quán Capoulade mà không trả tiền. Tôi coi đó như một loại học bổng mà quán này cấp cho tôi.

Tôi vẫn luôn vô cùng yêu mến bánh sừng bò. Tôi thấy hình dạng, độ giòn cùng độ nóng của loại bánh này có cái gì đó rất thân thiện và dễ thương. Tôi không ăn nhiều như trước đây nữa và quan hệ giữa tôi với bánh sừng bò ít nhiều đã trở nên thuần khiết hơn. Nhưng tôi muốn biết là chúng vẫn luôn ở đó, ở trong giỏ trên quầy. Chúng làm được nhiều điều cho thế hệ sinh viên trẻ hơn là cho nền Cộng hòa thứ ba. Như tướng de Gaulle hẳn sẽ nói, đó là những người pháp tốt.