← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XXXVI

CUỐI CÙNG TÔI ĐƯỢC PHÁI ĐI HUẤN LUYỆN ở Andover, cùng phi đội ném bom đang chuẩn bị sang châu Phi dưới sự chỉ huy của Astier de Villatte. Lúc bấy giờ trên đầu chúng tôi đang diễn ra những trận đánh lịch sử, ở đó tuổi trẻ Anh lấy sự anh dũng tươi vui ra để đương đầu với kẻ thù khát máu và thay đổi số phận của toàn thế giới. Họ gồm một vài người. Trong số họ có những người Pháp: Bouquillard, Mouchotte, Blaise… Tôi không thuộc số đó. Tôi lang thang trong miền quê rực nắng, mắt ngước lên trời. Thỉnh thoảng, một thanh niên Anh cho chiếc Hurricane bị đạn bắn lỗ chỗ hạ cánh xuống sân bay, đổ xăng, nạp thêm bom đạn rồi tiếp tục bay đi chiến đấu. Tất cả họ đều quàng quanh cổ những chiếc khăn đủ màu sắc, tôi cũng vậy, cũng quàng một chiếc. Đó là đóng góp duy nhất của tôi cho trận Anh quốc. Tôi cố không nghĩ đến mẹ mình và những gì đã hứa với bà. Tôi dành cho nước Anh một tình cảm quý mến mà không ai trong số những người từng có vinh dự đặt chân lên mảnh đất ấy vào tháng Bảy năm 1940 lại có thể phủ nhận.

Huấn luyện xong, chúng tôi được nghỉ phép bốn ngày tại London trước khi lên đường sang châu Phi. Ở đây xảy ra một tình tiết ngớ ngẩn chưa từng có, ngay cả trong cuộc đời quán quân của tôi.

Vào ngày nghỉ phép thứ hai, trong một cuộc đánh bom đặc biệt dữ dội, tôi gặp một nữ thi sĩ trẻ tuổi người Chelsea ở quán Wellington, nơi gặp gỡ của tất cả các phi công Đồng minh. Nữ thi sĩ này khiến tôi thất vọng vô cùng, cô ta huyên thuyên không dứt và chỉ huyên thuyên về TS. Eliot, Ezra Pound và trên hết là Auden, cô ta ngước đôi mắt xanh rất đẹp nhìn tôi, đôi mắt hoàn toàn ánh lên sự ngu xuẩn. Tôi không thể chịu được nữa và căm ghét cô ta hết mức. Thỉnh thoảng, tôi âu yếm hôn lên môi cô để làm cô ngừng nói, nhưng vì cái mũi hỏng của tôi vẫn luôn bị ngạt nên sau một phút tôi buộc phải rời môi cô để thở - và thế là cô tiếp tục nói về E. Cummings và Walt Whitman. Tôi tự hỏi liệu mình có nên giả vờ động kinh không, tôi thường làm thế trong những tình huống tương tự, nhưng tôi đang mặc quân phục nên làm vậy không tiện; thế nên tôi bằng lòng với việc nhẹ nhàng lấy tay vuốt ve bờ môi cô, cố ngăn không cho con suối ngôn từ tuôn chảy, trong khi mà, bằng ánh mắt gợi cảm, tôi mời mọc cô đắm sâu vào sự im lặng dịu êm và mơ mộng, vào ngôn ngữ tâm hồn thuần túy. Nhưng chẳng làm gì được. Cô giữ yên tay tôi trong tay cô rồi tiếp tục luận bàn về chủ nghĩa tượng trưng của Joyce. Bỗng tôi hiểu ra rằng cả quãng thời gian vừa rồi của tôi là cả quãng thời gian văn chương. Cuộc nói chuyện chán ngắt và trí tuệ ngớ ngẩn là những thứ mà tôi chưa bao giờ chịu đựng nổi và tôi bắt đầu cảm thấy mồ hôi chảy trên trán mình, trong khi đó, tôi kinh ngạc nhìn chằm chằm cái cơ thắt miệng không ngừng mở ra rồi khép lại, mở ra rồi khép lại kia, tôi lao vào bộ phận này một lần nữa với năng lượng của sự tuyệt vọng, tìm cách làm cho nó bất động bằng những nụ hôn nhưng vô ích. Thế nên tôi nhẹ hết cả người khi thấy một sĩ quan phi công đẹp mã người Ba Lan, thuộc quân đội của tướng Anders, lại gần bàn chúng tôi, cúi xuống trước cô gái trẻ và mời cô khiêu vũ. Cho dù quy tắc hiện hành cấm mời một cô gái đã có bạn như vậy, tôi vẫn biết ơn mỉm cười với anh ta rồi ngồi sụp xuống ghế băng, uống liền hai ly rượu và tuyệt vọng ra hiệu cho cô gái phục vụ, quyết định thanh toán tiền để sau đó lặng lẽ trốn vào bóng đêm. Tôi đang hoa chân múa tay như một người chết đuối để gọi cô gái phục vụ thì con bé Ezra Pound quay lại bàn và ngay tức thì nói với tôi về E. Cummings và về tạp chí Horizonvới ông tổng biên tập mà cô hâm mộ vô bờ bến. Lịch sự như thường lệ, lần này tôi đổ sụp xuống bàn, hai tay ôm lấy đầu, bịt tai quyết không nghe cô ta nói lời nào nữa. Đúng lúc đó, viên sĩ quan Ba Lan thứ hai xuất hiện. Tôi mỉm cười với anh ta vẻ mời mọc: với một chút may mắn, con bé Ezra Pound có lẽ sẽ tìm thấy ở anh ta những chủ đề chuyện trò khác ngoài văn chương và nhờ vậy tôi sẽ thoát. Nhưng không phải thế! Cô ta vừa ra đi đã quay trở lại. Khi tôi đứng dậy để đón chào cô ta với sự ga lăng cổ lỗ sĩ của đàn ông Pháp, thì viên sĩ quan Ba Lan thứ ba xuất hiện. Đột nhiên tôi nhận ra mọi người đang nhìn mình. Tôi cũng nhận ra rằng đó là một hành động hoàn toàn có chủ tâm, rằng rõ ràng ba sĩ quan người Ba Lan có ý định và thái độ hạ nhục tôi, làm tôi bị tổn thương. Thậm chí chúng không để cho bạn gái tôi có thời gian ngồi xuống nữa, mà thay nhau ôm lấy cô, vừa ôm vừa nhìn tôi vẻ mỉa mai và khinh bỉ. Như tôi đã nói, quán Wellington đầy lính Đồng minh, người Anh, người Canada, người Na Uy, người Hà Lan, người Séc, người Ba Lan, người Úc, và người ta bắt đầu cười tôi, và càng cười hơn khi những nụ hôn âu yếm của tôi không phải không ai thấy: người ta lấy mất cô gái của tôi mà tôi lại không biết cách tự vệ. Máu tôi sôi lên: đây là vấn đề liên quan đến uy tín của bộ quân phục. Thế là tôi rơi vào tình cảnh phi lý phải đánh nhau để giữ một cô gái mà tôi muốn thoát khỏi từ mấy tiếng đồng hồ rồi. Nhưng tôi không được quyền lựa chọn. Tình cảnh đó có thể hoàn toàn ngu xuẩn nhưng tôi không được quyền trốn tránh. Thế là tôi đứng dậy, mỉm cười, và sau khi cao giọng nói bằng tiếng Anh vài câu cương quyết mà người ta đang chờ ở tôi, tôi bắt đầu bằng việc ném ly whisky của mình vào mặt viên trung úy thứ nhất, một cái vả bằng mu bàn tay vào mặt viên trung úy thứ hai, sau đó tôi ngồi xuống, danh dự nguyên vẹn và mẹ nhìn tôi vẻ hãnh diện, hài lòng. Tôi tưởng thế là xong. Nhầm! Anh chàng Ba Lan thứ ba, người không bị tôi làm gì vì tôi không đủ tay, cho là mình bị sỉ nhục. Trong khi người ta cố can tách chúng tôi thì anh ta phun ra nhiều câu chửi thề nhằm vào không quân Pháp và to giọng tố cáo cách mà nước Pháp từng cư xử với không quân Ba Lan anh hùng. Tôi thấy thông cảm với anh ta trong chốc lát. Suy cho cùng, phần nào tôi cũng là người Ba Lan, nếu không phải vì huyết thống thì ít nhất cũng là vì những năm tháng tôi từng sống ở đất nước anh ta - thậm chí tôi đã mang hộ chiếu Ba Lan trong một thời gian. Tôi suýt bắt tay anh ta, nhưng thay vào đó, vì tuân thủ quy tắc danh dự và vì không thể vùng vẫy nổi đôi cánh tay đang trong tình trạng bất động bởi bị một người Úc và một người Na Uy giữ chặt, tôi lao đầu vào mặt anh ta húc một cú tuyệt hảo. Bởi rốt cuộc, tôi là ai mà lại chống đối các quy tắc danh dự truyền thống của người Ba Lan chứ? Anh ta có vẻ thỏa mãn rồi khuỵu xuống. Tôi tưởng thế là xong. Nhầm! Hai người bạn của anh ta bảo tôi theo họ ra ngoài. Tôi vui vẻ nhận lời - tôi tưởng mình đã thoát khỏi con bé Ezra Pound. Lại nhầm! Con bé, theo một thứ bản năng chắc chắn nào đấy, cảm thấy mình đang thực sự trải qua một “kinh nghiệm sống” nên kiên quyết ôm lấy tay tôi. Cả năm người ra ngoài, trong màn đêm tăm tối. Địch đánh bom rất ác liệt. Xe cứu thương chạy qua với những tiếng chuông nhẹ nhàng, ngao ngán.

– Được rồi, bây giờ thì sao nào? tôi hỏi.

– Đấu súng! một trong ba viên trung úy nói.

– Chẳng làm gì được đâu, tôi nói với họ. Không còn khán giả nữa. Khắp nơi lại tối om thế này. Cũng chẳng có cử tọa. Không cần phải điệu bộ làm gì. Hiểu chưa, mấy thằng oắt con?

– Bọn Pháp là một lũ hèn mọn, một trung úy Ba Lan khác nói.

– Được thôi, thì đấu súng, tôi nói.

Tôi định đề nghị họ giải quyết vụ này ở Hyde Park.

Trong tiếng nổ của pháo phòng không vốn khiến cả công viên dựng tóc gáy, những tiếng súng nhỏ của chúng tôi sẽ chẳng bị ai nghe thấy và chúng tôi có thể để xác chết ở đó, trong bóng đêm mà không phải lo lắng gì. Tôi kiên quyết không để mình bị kỷ luật vì những tên Ba Lan say rượu. Mặt khác, trong bóng tối, tôi có thể ngắm không tốt, dù những năm qua có hơi chểnh mảng việc bắn súng lục, nhưng tôi chưa hoàn toàn quên hẳn những bài học của Trung úy Sverdlovski, nên tôi chắc chắn có thể đem lại vinh dự cho cái bia của mình trong một nơi đàng hoàng.

– Đấu súng ở đâu? tôi hỏi.

Tôi cảnh giác không nói với họ bằng tiếng Ba Lan. Bởi điều ấy có nguy cơ gây hiểu lầm. Họ khát khao trả đũa nước Pháp thông qua cá nhân tôi nên tôi sẽ không gây khó khăn tâm lý cho họ làm gì cả.

– Đấu súng ở đâu? tôi hỏi.

Họ tham khảo nhau.

– Tại khách sạn Regent’s Park, cuối cùng họ quyết định.

– Trên mái à?

– Không, trong phòng khách sạn. Đấu súng lục cách năm mét.

Tôi tự nhủ rằng trong các khách sạn hạng sang ở London, thường thì người ta không để con gái lên phòng cùng bốn người đàn ông, nên tôi thấy đây là cơ hội ngàn vàng để thoát khỏi con bé Ezra Pound. Cô ta níu tay tôi: đấu súng lục cách năm mét à - có vẻ văn chương đấy! Cô ta kêu meo meo đầy kích động như một con mèo cái.

Chúng tôi lên taxi, sau khi đã thảo luận rất lâu và lịch sự để biết ai là người lên đầu tiên, rồi đến Câu lạc bộ Không lực Hoàng gia Anh, nơi mấy anh lính Ba Lan xuống lấy súng công vụ. Tôi thì tôi chỉ có khẩu 635 mà tôi luôn giắt trong người. Tiếp đó chúng tôi tới Regent. Vì con bé Ezra Pound năn nỉ xin lên, chúng tôi phải góp tiền và thuê một căn hộ có phòng khách. Trước khi lên, một trung úy Ba Lan chìa một ngón tay ra.

– Người làm chứng! anh ta nói.

Tôi nhìn quanh nhìn quất cố tìm một bộ quân phục Pháp. Không có ai. Sảnh khách sạn lúc ấy có rất nhiều dân thường, phần lớn mặc pyjama, họ không dám ở lại phòng trong lúc diễn ra các vụ ném bom, họ đứng bên lò sưởi, co ro trong chiếc khăn quàng cổ và bộ đồ ngủ, trong khi bom làm rung chuyển những bức tường. Một đại úy người Anh đeo kính một mắt đang điền một tờ phiếu ở quầy lễ tân. Tôi đi về phía ông ta.

– Thưa ông, tôi nói. Tôi đang chuẩn bị đấu súng, ở phòng 520, tầng sáu. ông có thể đến làm chứng cho tôi được không ạ?

Ông ta mỉm cười, vẻ mệt mỏi.

– Ba cái tên người Pháp này! ông ta nói. Cám ơn. Nhưng tôi có phải là một kẻ tò mò đâu.

– Thưa ông, tôi nói. Không phải như ông nghĩ đâu. Đấu súng thực sự đấy. Cách năm mét, bằng súng lục, với ba người Ba Lan yêu nước. Bản thân tôi phần nào cũng là một nhà yêu nước người Ba Lan, và vì đây là vấn đề liên quan đến danh dự của cả nước Pháp, tôi không được quyền lẩn tránh. Ông hiểu chứ?

– Hoàn toàn hiểu, ông ta nói. Thế giới đầy những nhà yêu nước người Ba Lan. Không may là còn có những nhà yêu nước người Đức, Pháp hay Anh. Chiến tranh cũng từ đó mà ra cả. Cũng không may là tôi không thể giúp gì anh được, anh ạ. Anh có thấy cô gái trẻ ngồi đằng kia không?

Cô gái đó ngồi trên một chiếc ghế dài, tóc vàng và này nọ, đúng cái mà một quân nhân nghỉ phép đang cần. Ông đại úy chỉnh kính một mắt rồi thở dài.

– Tôi phải mất năm tiếng để thuyết phục cô ta đấy. Tôi đã phải khiêu vũ trong vòng ba tiếng, tiếu tốn rất nhiều tiền, thể hiện bản thân, van nài, thì thầm âu yếm trong taxi và cuối cùng cô ta cũng đồng ý. Giờ tôi không thể đi giải thích với cô ta là tôi phải làm chứng cho một cuộc đấu súng trước khi lên phòng, vả lại, tôi đâu còn ở tuổi hai mươi, bây giờ là hai giờ sáng, tôi đã phải đấu tranh năm tiếng đồng hồ để thuyết phục cô ta, và tôi mệt lử rồi. Tôi không còn ham muốn gì nữa, nhưng tôi cũng thế, phần nào tôi cũng là một nhà yêu nước người Ba Lan nên không có quyền lẩn tránh. Tôi run lên khi nghĩ đến kết cục của điều đó. Tóm lại, thưa anh, anh chịu khó đi tìm một nhân chứng khác: chính tôi cũng đang sắp sửa đấu súng đây. Hãy hỏi người gác cổng xem sao.

Tôi lại liếc mắt nhìn quanh. Trong số những người ngồi trên ghế dài ở giữa sảnh, có một ông mặc đồ pyjama, áo khoác, đi giày păng túp, đội mũ, quàng khăn, vẻ mặt buồn rầu, hai tay chắp lại, mắt ngước lên trời mỗi khi một quả bom nổ hơi quá gần nào đó có vẻ như sắp rơi xuống người ông. Đêm ấy, chúng tôi phải gánh chịu một trận bom ra trò. Các bức tường rung lên. Cửa sổ bật ra. Đồ vật rơi tứ tung. Tôi chăm chú nhìn ông ta. Theo bản năng, tôi biết nhận ra những người mà chỉ riêng việc trông thấy một bộ quân phục thôi cũng gây ra trong họ nỗi sợ hãi vừa sâu sắc vừa kính cẩn. Họ không từ chối người có quyền cái gì cả. Đi thẳng tới chỗ ông ta, tôi cắt nghĩa cho ông ta hiểu rằng vì những lý do cấp bách, ông ta phải có mặt làm chứng cho một cuộc đấu súng trên tầng sáu khách sạn. Ông ta nhìn tôi vẻ sợ sệt và van xin, nhưng trước bề ngoài dữ tợn và có đeo quân hàm của tôi, ông ta thở dài đứng dậy. Ông ta còn tìm ra một câu nói lấy lệ:

– Tôi rất vui khi được đóng góp vào nỗ lực chiến đấu của các đồng minh, ông ta nói.

Chúng tôi đi thang bộ lên phòng: trong lúc có báo động thì thang máy không hoạt động. Ở các thềm nghỉ, đám cây cối thiếu sức sống rung lên trong bình. Con bé Ezra Pound, treo người dưới cánh tay tôi, đang bị giày vò bởi một sự kích động văn chương tởm lợm và ngước đôi mắt ươn ướt nhìn tôi thầm thì:

– Anh sắp giết người! Em cảm thấy anh sắp giết người!

Nhân chứng của tôi dựa lưng vào tường mỗi lần bom rít. Ba gã Ba Lan kia vốn bài Do Thái nên xem việc lựa chọn nhân chứng của tôi như một sự sỉ nhục nữa. Tuy nhiên, con người trung hậu đó tiếp tục leo lên cầu thang như đang xuống địa ngục, mắt nhắm nghiền, miệng thì thầm cầu nguyện. Các tầng trên hoàn toàn vắng người, khách đã bỏ đi cả rồi, vì thế tôi nói với các nhà yêu nước người Ba Lan rằng hành lang có vẻ là nơi lý tưởng cho cuộc gặp gỡ. Tôi cũng yêu cầu tăng khoảng cách thêm mười bước nữa. Họ nhất trí và bắt đầu đo. Tôi không muốn bị xây xước tí nào trong vụ này, và cũng không muốn giết đối thủ của mình hoặc làm hắn bị thương quá nặng để mình khỏi bị phiền toái. Một xác chết trong khách sạn thể nào cũng bị người ta để ý, còn một người bị thương nặng thì không thể tự mình bước xuống cầu thang. Mặt khác, thừa biết danh dự của người Ba Lan - honorpolski - tôi yêu cầu được bảo đảm là mình không phải lần lượt đánh nhau với từng nhà yêu nước, nếu người đầu tiên bị loại khỏi cuộc đấu. Tôi xin được nói thêm một lời ở đây: trong suốt thời gian diễn ra sự cố này, mẹ tôi không hề tỏ ý phản đối. Hẳn mẹ rất sung sướng khi cảm thấy rằng cuối cùng tôi cũng làm một cái gì đó cho nước Pháp. Và cuộc đấu súng cách mười mét hoàn toàn thuộc thẩm quyền của mẹ tôi. Bà biết rõ cả Pouchkine và Lermontov đều đã chết trong một cuộc đọ súng, không phải ngẫu nhiên mà từ khi tôi lên tám, bà đã dẫn tôi đến nhà Trung úy Sverdlovski.

Tôi chuẩn bị. Tôi xin thú thực là khi ấy tôi không hoàn toàn bình tĩnh, một mặt là vì con bé Ezra Pound làm tôi mất tập trung, mặt khác là bởi tôi sợ có quả bom nào đó rơi quá gần lúc tôi sắp bắn, làm tôi rung tay và gây hậu quả đáng tiếc cho mục tiêu của tôi.

Cuối cùng, chúng tôi vào vị trí trong hành lang, tôi cố ngắm, nhưng điều kiện không được lý tưởng cho lắm, những tiếng nổ và tiếng rít cứ nối tiếp vang lên quanh chúng tôi, và khi người phụ trách cuộc đấu súng, một trong mấy gã Ba Lan, tận dụng một lúc yên ắng và ra hiệu thì tôi bắn trúng đấu thủ theo cách hơi nghiêm trọng một chút còn tôi không việc gì cả. Chúng tôi đặt anh ta nằm thoải mái trong căn hộ mà chúng tôi đã thuê, còn con bé Ezra Pound ngay lập tức ứng biến làm y tá và bà xơ trong khi chờ ai khác giỏi hơn, vả lại kể ra thì anh ta cũng chỉ bị bắn trúng vai thôi. Sau đó là khoảnh khắc chiến thắng của tôi. Tôi chào các đối thủ, họ cũng chào lại bằng cách rập gót chân theo kiểu lính Thổ, tiếp đến, huy động hết vốn tiếng Ba Lan của mình, với giọng Vacsava đặc sệt nhất, to rõ nhất, tôi nói với họ những gì mình nghĩ về họ. Vẻ ngu dốt lan ra trên gương mặt họ khi một tràng chửi thề bằng ngôn ngữ quê hương giàu đẹp của người Ba Lan bắt đầu trút xuống đầu họ, đó là một trong những khoảnh khắc đẹp nhất trong đời làm nhà yêu nước Ba Lan của tôi, nó bù đắp hậu hĩ cho nỗi tức giận vô bờ mà bọn họ đã gây ra cho tôi. Nhưng tôi vẫn chưa hết gặp bất ngờ trong tối hôm đó. Nhân chứng của tôi, người đã biến mất khi chúng tôi bắn nhau trong một căn phòng không người, giờ đi theo tôi ở cầu thang, vẻ mặt rạng rỡ. Dường như ông ta đã quên hết sợ hãi và bom đạn. Với nụ cười toe toét trên gương mặt khiến tôi sợ nó lan ra cả tai, ông ta rút túi bốn tờ tiền mệnh giá năm bảng Anh rồi cố gí vào tay tôi. Khi tôi trịnh trọng đẩy món quà đó ra, ông ta chỉ tay về phía căn hộ nơi ba người Ba Lan kia còn ở lại, rồi nói bằng một thứ tiếng Pháp rất tồi:

– Bọn chúng đều bài Do Thái cả! Bản thân tôi là người Ba Lan, tôi biết chúng mà! Cầm lấy! Cầm lấy!

– Thưa ông, tôi nói bằng tiếng Ba Lan vì ông ta cứ cố bỏ tiền vào túi tôi, thưa ông, danh dự làm người Ba Lan của tôi, moj honorpolski, không cho phép tôi nhận số tiền này. Ba Lan muôn năm, đó vốn là đồng minh lâu đời của đất nước tôi.

Tôi thấy miệng ông ta há hốc, đôi mắt ông ta biểu lộ một sự khó hiểu ghê gớm mà tôi mong được thấy trong mắt của con người biết bao, rồi để ông ta lại đó với những tờ bạc giấy, tôi lao xuống cầu thang, vừa đi vừa huýt gió, bước bốn bậc một và biến vào bóng đêm.

Ngay sáng hôm sau, một chiếc xe cảnh sát đến bắt tôi ở Odiham, và sau một quãng thời gian khá khó chịu ở Scotland Yard, tôi được trả lại cho các nhà chức trách Pháp, tại Bộ Tham mưu của đô đốc Muselier, người chỉ huy chiến hạm d’Angassac đã thẩm vấn tôi một cách thân mật. Chúng tôi đã thỏa thuận với nhau là viên trung úy Ba Lan kia sẽ giả vờ say rượu và đồng đội sẽ dìu anh ta ra khỏi khách sạn, nhưng con bé Ezra Pound không thể cưỡng lại ý muốn gọi xe cứu thương, nên tôi mới rơi vào tình thế khó khăn. May mà thời ấy, nhân viên bay được huấn luyện bài bản rất hiếm ở nước Pháp vùng Tự do, nên người ta cần tôi, may hơn nữa là sư đoàn của tôi sắp đi sang vùng trời khác, nhưng tôi nghĩ khi đó mẹ tôi có lẽ cũng đã xoay xở phần nào ở hậu trường nên tôi mới chỉ bị khiển trách sau vụ này, mà khiển trách thì có làm gãy chân ai bao giờ đâu, và thế là vài ngày sau, tôi lên đường sang châu Phi trong tâm trạng vô cùng vui vẻ.